Bàn về sử dụng 2 từ cộng & cọng

Lê Bá Vận
 
Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp lạc. Thiên hạ cộng tri thu. (Ngô đồng rụng một lá. Cả thiên hạ biết thu).
 
I) CỘNG VÀ CỌNG SỬ DỤNG TRONG CỘNG ĐỒNG.
Một tác giả gởi bài viết cho một trang Web. Ban Biên Tập yêu cầu được phép sửa đổi các chữ “cọng” trong bài viết thành chữ “cộng”. Tác giả đồng ý song phân trần rằng hầu như suốt đời ông chỉ nghe nói “cọng”, không nói “cộng”. Từ bé đi học đã được thầy dạy làm các phép tính “cọng trừ nhân chia” và lúc học Đại số thì x=+3 (cọng ba), y=-4 (trừ bốn)… dùng toàn tiếng Việt.
 
Trên một diễn đàn khác, hai người bạn YK Huế trao đổi: - Rất tiếc không có hình thầy Wulf. Một lý do là thầy tỏ ra thân cọng nên chúng tôi không mấy thiện cảm.
- Anh Th, Đây là hình của ông Erich Wulff, về già và biographie của ông . Ông thân cộng và sau này còn ra Hanoi gặp nhiều chính trị gia miền bắc.  TLH.
 
Một cô giáo người Bắc thì dứt khoát: “cộng”, không phải “cọng”. Cộng trừ nhân chia. Viết “cọng” là sai chính tả. Đọc “cọng“ là phát âm không đúng. Cọng là chỉ cọng rau, cọng bún… mà thôi.
 
Lắng nghe trên các youtube thì đúng vậy. Người Trung, Nam phát âm “cọng” rõ ràng dù đó là “cộng hay cọng”. Người Bắc phát âm “cộng” nghe khá rõ, song nhiều người nghiêng qua ‘cọng’.
 
Nhà văn Bình Nguyên Lộc [1914-1987] viết: Sài Gòn 21/9/1958
Chị Linh Bảorất nhiều bạn văn, bên phe không cọng, nói với tôi rằng các tiểu thuyết đăng ở Văn Hoá Ngày Nay chỉ có tiểu thuyết của Linh Bảo là hay…
 
Là gốc miền Trung trong gia đình tôi ai cũng nói “cọng” và nếu viết (hiếm khi) thì cũng viết “cọng”. Cả thị xã, làng mạc thôn xóm đều nói: Việt cọng, toán cọng, công cọng, cọng tác… Có lẽ chỉ từ  “cộng đồng” là ai cũng đọc và viết đúng “cộng”. Có nơi nói “bộng đái” hoặc “bọng đái” thì sao!
 
II) CỘNG VÀ CỌNG ĐỊNH NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN VIỆT.
Các từ điển tiếng Việt đều viết : Cộng nh. Cọng. Hoặc Cọng đphg Nh Cộng (nh=như).

+1) Từ Điển Thanh Nghị : Tra cứu Từ điển Tiếng Việt - từ: cọng   

   -Cọng bt. Cộng. 1. Thêm vào với nhau: Ba trái cam cọng thêm ba trái nữa. // Phép cọng: A cọng với B. Tổng cọng. Cọng được. (bt=biến thể).
                             2. Chung, cùng nhau (khd): Công cọng, cọng sản.
  -Cọng dt. (th) Gân lớn, gân chính của ngọn lá; thân những cây nhỏ: Cọng lá. Cọng lúa, cọng tỏi.

+2) https://vn.ichacha.net › vietnamese.   线字 (Diểu Diểu Tại Tuyến Tự Điển).

Các thí dụ: Đây là việc làm cao đẹp ghi điểm 10 cọng cho các cô!  Nó có sức mạnh của vài chục viên lực sĩ cọng lại. Năm 2009, xuất khẩu điện tử tổng cọng là 33 tỉ $US.
 
III) CỘNG VÀ CỌNG - TỪ ĐƠN VÀ GHÉP TRONG TỪ VỰNG.
“Cộng” và “cọng” đều là những từ đơn trong từ vựng tiếng Việt. Họa hoằn có từ đơn mới, thường thì đến từ các từ ngoại: ga, lốp, vít, phim, tệp, tip… Các từ: chính phủ, xã hội, dạ tiệc, chữa trị, bóng chày, rổ rá… được gọi là những từ ghép, thông thường ghép 2 từ đơn thành một từ đôi. Mỗi từ đơn có thể là từ Việt (Nôm) hoặc từ Hán (gốc Hán đọc theo âm Việt, ký tự bằng chữ Quốc ngữ).
 
Các từ Hán ấy vd. ‘địa’ (đất) nhiều tác giả gọi là từ Hán Việt, dễ nhầm hiểu là từ Hán gốc Việt.(1).
Từ ghép làm giàu cho số lượng từ ngữ tiếng Việt.
 
Cuốn ”Tam Thiên Tự”: 天 thiên trời 2. 地 địa đất… tác giả Ngô Thời Nhậm (1746-1803) giúp mọi người có số vốn 3.000 chữ Hán để thực hiện ghép từ thuận lợi. Thực tế chỉ cần dùng các từ thông dụng, khoảng hơn, kém một nửa. (2).
 
Có 3 loại từ Ghép theo từ nguyên (quan hệ nguồn gốc):
 
  1) Thuần Việt (V-V), 2) Thuần Hán (H-H), 3) Hỗn Hợp/Lai : H-V và V-H.
  Vd. ăn bám V-V         = ký sinh H-H           Vd. ký gửi H-V; bám trụ V-H
                       
+1. Từ ghép V-V, phong phú.
Cưu mang, đùm bọc, giúp dùm, giúp đỡ, chống đỡ, nâng đỡ, chăm lo, chia sẻ, che chở.
Ăn bám, ăn cánh, ăn chay, ăn đứt, ăn hiếp, ăn kiêng, ăn nhờ… ăn vạ, ăn xin*.
Từ ghép địa phương: ăn chùng, bể/tra trốc, trốc cúi, trắp bả/vả, chồm hổm, chôm chỉa, côi cao, mô tê, ốt dột, chén dĩa, khu đọi, dơ nhớp, cà rá, giày vớ, bầy choa, o dì, cụ mự...
 
+2. Từ ghép H-H, phong phú.
Ám trợ, bang trợ, bảo trợ, hỗ trợ, phù trợ, phụ trợ, tài trợ, trợ cấp, trợ lực, tương trợ, viện trợ…
Ký sinh, câu kết, thụ trai, tất thắng, áp chế, kỵ khẩu, ký thực… ngật phạt, hành khất*.
 
Tuy nhiên nhiều từ đơn và ghép H-H không có từ Việt tương đương. Vd. Thần tiên đông tây nam bắc nhân nghĩa dân khách tuyết… anh hùng, gia đình, kết quả, quan trọng, tinh thần, triết lý… 
Lại có lắm từ ghép H-H tiếng Việt không dùng, vd. ảnh viện=rạp chiếu bóng, chiếu tướng=chụp ảnh, cơ trường=sân bay, tuyển dân=cử tri, khai học=khai giảng hoăc lạ lẫm, vd.: cơ kim, lặc sách…
 
+3. Từ ghép H-V, kém phong phú song độc đáo.
- Từ ghép H-V, vd. An lành/nghỉ/vui, ẩn náu/núp, bác/bãi/hủy/phế/từ/trừ bỏ, bái lạy, bao bọc/che/trùm, biến đổi, bình bầu, bồi đắp, ca hát, cảm nghĩ, cao xa, cáo buộc, cấp bậc, chi/hoàn trả, chiếm đóng/giữ, chính hãng, chỉnh sửa, chuẩn mực, cô quạnh, công sức, cốt lõi, cơ may, cung nỏ/tên, cúng quảy, cưỡng ép/hôn, dạ/yến tiệc, danh tiếng, duyên dáng/nợ, dư thừa, đào bới/xới, đảo lộn, đấu đá, đê hèn, đồng đều/lòng, động lòng, đơn chiếc, giải khuây/bỏ/vây, giảm bớt, gian dối, giảng dạy, hạ cánh/thấp, hạn hẹp, hiền lành, hình dáng, hoán đổi, hoảng/khiếp sợ, học hỏi/tủ/gạo, hối/luyến tiếc, hội họp, hồn vía, kết nối, khinh nhờn/rẻ, kiểm soát, kinh tởm, kính nể, kỳ/quái lạ, kỵ giỗ, lang sói, lễ phép, linh thiêng, lưu đày/giữ, lý lẽ, man rợ, mưu mẹo, ngọc ngà, ngu dốt, nguyên vẹn/xi, nhàn rỗi, nhẫn nhịn, nịnh bợ, phá rối, phạt/vu vạ, phân chia, phòng chống/hờ/ngừa, phụ/trợ giúp, quy chụp, quyến rủ, sa ngã/sút, sách vở, sai sót/trái, siêu sao, sinh đẻ/nở, suy sụp/yếu, sự/vụ việc, tà vạy, tài giỏi, tạo dựng, tắc nghẽn, tấn tới, tập dượt, tẩy rửa, thai nghén, thanh lọc, thâm hụt/sâu/thủng, thiêu đốt, thoái lui, thôn xóm, thông suốt/tầm, thu hút, thù hằn, thuyền bè, thương lái, tiền bạc, tiễn đưa, tiếp rước, tính nết, tội lỗi/vạ, tôn thờ, tổng cọng, tra xét, trách mắng/móc, tranh cãi/đua/giành, trấn lột, trình bày, trụ cột, truy hỏi/lùng, trừ hao, tù đày, tuyển chọn, tu sửa, từ chối, tưởng nhớ, ung bướu/nhọt, ước mơ, văn dốt vũ dát, vi nhựa, xâm lấn, xuân xanh, xuất kho…
Bô trai (Pháp-Việt), bình ga (Hán-Anh), trực gác (H-P), đắt sô (V-A).
 
- Từ ghép V-H, vd. Ao hồ, bài bản, bạn hữu, bày biện, bẩm báo, bận tâm, bầu cử, bói toán, bùa chú/mê/ngải, bụi hồng/trần, buồn phiền/thảm, bước tiến, bứt phá, cạn/keo kiệt, cay nghiệt, cát tặc, cắt giảm, chầu văn, chê/quở trách, chỉn chu, chống cự/đối/kháng/phá, chung cư, chữ nghĩa, chữa trị, cọng sự, cửa quyền, dặm trường, dâng hiến, dấu/vết tích, dậy thì, dối trá, dứt điểm, đánh đồng/động/giá, đau thương, đày ải/đọa, đen bạc, đền đài, đĩ điếm, đo đạc, đón nhận/tiếp, đồn đoán, đường hướng/trường, đúc kết, đứt đoạn, ép duyên/hôn, ganh tị, gây thù chuốc oán, ghe thuyền, góa phụ, gươm đao, gương mẫu, hạ thấp, hang động, hè thu, hèn hạ/mạt, hẹn/thề ước, hẹp/rộng lượng, hết ý, hoen ố, hỏi/lấy cung, hố xí, in ấn, kẻ sĩ/thù, kề cận, khác biệt, khen thưởng, kho tàng, khuấy động, kiện tụng, kiêng kỵ, lạ kỳ, làng mạc, lay chuyển, lầm lạc, lấn chiếm, lây nhiễm, lệch chuẩn/lạc, lính/trai tráng, lo liệu, loại trừ, lỡ duyên/thì, lớp phó, lừa đảo, màu sắc, mặt tiền nhà phố, mần quan, mến mộ, mơ mộng, mờ ám, mùi vị, nạt nộ, nâng cao, neo đơn, nghề nghiệp, ngăn cản/trở, nhịn nhục, nuôi dưỡng, quấy nhiễu/phá, quê hương/quán, quở trách, rèn luyện, riêng tư, rối loạn/trí, rung/rúng/sống động, son phấn, sóng thần, sợ hãi, sui gia, súng đạn/lục/trường, sức lực, tâng công, tha thứ, thết đãi, thi cử, thoạt/trước tiên, thơ ấu, thờ phụng, thua thiệt, thuốc thang, tột đỉnh, tơ tình, trải nghiệm, trăng hoa, trêu hoa ghẹo nguyệt, truất phế, tủi nhục, tụt hậu, vàng hóa, vây hãm, vẹn toàn, vua quan, xét nghiệm/xử, xương cốt.                                                                                                                                                                                                                                        
 
Nhận xét:
- Biết nghĩa mỗi ‘từ’ trong từ ghép H-H là tốt song không bắt buộc. Vd. tư lệnh, hộ chiếu (3).
- Ghép đẳng cấp (quan hệ thứ bực) :
1) Chính chính. Vd. giúp đỡ (V-V), hỗ trợ (H-H), trợ giúp (H-V). 2) Chính phụ. Vd. máy bay (V-V), phi cơ (H-H), cơ may (H-V). Từ ghép láy. Vd. đỡ đần, may mắn, máy móc. Từ Hán láy lấy từ các ví dụ: an ủi, đãi đằng, động đậy, hoa hòe, kỳ quặc, ngu ngơ, nịnh nọt, tập tành.
 
 IV) CỘNG VÀ CỌNG TƯƠNG QUAN TỪ GHÉP.
Theo từ điển “cọng” là tiếng địa phương, biến thể của từ “cộng”.
Xét về tương quan từ ghép thì “ Cộng” là từ Hán. “Cọng” là từ Việt tương ứng.
Tương tự độc/đọc, hạch/hạt, mặc/mực, xa/xe hoặc từ khác dấu: loại/loài, tín/tin, thệ/thề.


Thời đệ nhất VNCH các bưu hoa (tem) đều in hàng chữ: Việt Nam Cọng Hòa thay vì Việt Nam Cộng Hòa. Vd. tem về Đạo Luật Gia Đình, về giáo sĩ Đăc Lộ.

Nếu viết “tổng cộng, công cộng, cộng hoà, cộng tác…” = từ ghép THUẦN.
Nếu viết “tổng cọng, công cọng, cọng hòa, cọng tác…” = từ ghép LAI.

 Cả hai cách viết đều có giá trị ngang nhau.
Từ H-H lời lẽ hoa mỹ hoặc trang trọng, vd. “Bước lần theo ngọn tiểu khê” (khê=suối, khe) - Kiều. Dùng trong văn bản hành chính, nghiên cứu thì ngôn từ chuyên ngành, chuẩn mực. 
 
Từ H-V và V-V được dùng hàng ngày tiếp xúc, lời nói dân dã, mộc mạc, thân tình. Vd. vợ con, trai/gái, người đẹp, góa chồng/phụ, mẹ kế, của cải, lìa trần, chia buồn, biết ơn, mời ngồi, đĩ điếm thay vì nói văn vẻ : thê nhi, nam/nữ, mỹ nhân, quả phụ, kế mẫu, tài sản, từ trần, phân ưu, tri ân, an tọa, kỹ nữ… gồm toàn từ Hán.
Về chính trị người ta vẫn nói ‘cánh tả, cánh hữu’. Về giao thông… thì ‘trái, phải’.
Bốn câu đầu trong truyện Kiều chỉ có 2 từ Hán, “tài, mệnh”.
Có thể viết: tuy nhiên, tuy vậy hoặc song le. Thay đổi để tránh trùng lập. (4).
 
Điều chân lý bất biến là dù viết ‘cộng” hay “cọng” thì người miền Trung và Nam hầu như luôn phát âm là “cọng” và thích được đọc sao viết vậy. Từ “cọng” được dùng trên hơn nửa nước, tất nhiên phải được trọng thị. Các thí dụ đưa ra về sử dụng từ “cọng” trong tự điển Diểu Diểu Tại Tuyến Tự Điển rất cụ thể, thiết thực. Bình Nguyên Lộc viết “bên phe không cọng” là dùng tiếng Việt.
 
Hiện tại người ta nói ‘độc giả, thi sĩ’, chưa nghe ai nói ‘đọc giả, thơ sĩ’ trừ phi dụng ý giễu... Cũng chưa ai nói ‘sử dùng, lạm dùng’ thay cho ‘sử dụng, lạm dụng’, ‘khuyên cáo’ thay cho ‘khuyến cáo’ để chỉ ‘khuyên răn’... Tương lai sẽ rõ.
 
Song người ta cũng nói ‘mùa hè’ hoặc ‘mùa hạ’, ‘hình dáng’ hoặc ‘hình dạng‘, bom hạch nhân’ hoặc ‘bom hạt nhân’ (không nói bom hột nhân). Tất cả là do thuận tai, chọn lọc, nhiều người dùng, được chấp nhận. Viết, đọc ‘hai cộng ba’ nghe trịnh trọng, kém tự nhiên.
 
Một ý tưởng có nhiều cách diễn tả. Tiếng Việt nói: “ca sĩ, sơ kết” thì tiếng Trung là: “ca thủ, tiểu kết”. Người Bắc gọi “bố mẹ”, người Nam kêu “ba má”. Bắc viết thư, Nam biên thơ…
Tiếng Trung 加 gia=cọng、减 giảm=trừ、乘 thừa=nhân、 trừ=chia. (5).
 
V) LỜI KẾT.
             
        "Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc". 
         Ráng chiều với cò lẻ cùng bay. Nước thu cùng trời dài một sắc. 
 
Hai câu thơ này được xem là tuyệt cú trích trong bài Đăng Vương Các, tác giả Vương Bột thời Sơ Đường. Khi ngâm hai câu thơ này, tất nhiên từ ‘’cộng” được đọc (và viết) rõ ràng là ‘Cộng’.
 
Trường hợp các thành ngữ chữ Hán: “Đồng ưu cộng lạc”, “Đồng cam cộng khổ“, “Bất cộng đái thiên”… cũng như các trích dẫn từ các cổ văn. Cần viết đúng chính tả. Phát âm vẫn có thể là Cộng hoặc Cọng.
Kể cả văn bản danh hiệu các quốc gia: “Cộng Hòa Cuba, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Cộng Hòa Liên Bang Đức”…
 
Nói chung viết và đọc “cộng” là đúng đắn thì nay viết và đọc “cọng” cũng chẳng hề sai trái.
 
Điều đáng chú ý là về toán học người Trung Quốc dùng chữ 加 gia=”thêm, tăng, cọng” để chỉ phép tính “+” mà không dùng chữ Cộng=“cùng, chung, tất cả”, song cũng hàm ý “+”. (5).
‘Cộng’ và ‘cọng’ là trường hợp rất đặc biệt.
 
Từ Hán nhập tịch Việt, viết bằng chữ quốc ngữ, làm giàu từ ngữ tiếng Việt.
Từ đôi Hán-Việt là sản phẩm độc đáo. Sự hình thành là quốc bảo trân quý.
 
Lê Bá Vận
 
Chú Thích.
 
(1) Vd: Chữ Hán viết: 天 百姓 Tiānzǐ Bǎixìng đọc theo âm Trung (bính âm). Đọc theo âm Việt là Thiên tử và Bá tánh, có nghĩa là Con trời (vua) và Trăm họ (dân chúng). Người Trung đọc ‘thiên tử, bá tánh’ thì không biết là tiếng của nước nào.
Tiếng Nhật viết xen lẫn chữ Nhật với chữ Hán : Thiên tử. Bá tánh = 天の王子。人気のある自. Ten no ōji. Ninkinoaru shizen.
 
(2) Sách Tam Thiên Tự bắt đầu như sau:
+1. 天 thiên trời 2. 地 địa đất 3. 舉 cử cất (cất nhắc) 4. 存 tồn còn 5. 子 tử con 6. 孫 tôn cháu 7. lục sáu. 8. tam ba. 9. gia nhà. 10. quốc nước. 11. tiền trước. 12. hậu sau. 13. ngưu trâu. 14. mã ngựa… gồm từ Hán và từ Việt đối chiếu.

(3) ‘Tư lệnh’, Tư=điều khiển, quản lý, tổ chức, (司 tư cơ=tài xế). Lệnh=mệnh lệnh. 
‘Hộ chiếu’, Hộ =bảo vệ, chăm sóc. Chiếu=giấy chứng nhận. “Xa chiếu”  bằng lái xe.

 
(4) ‘Tuy nhiên’ (H-H) = ‘Tuy vậy’ (H-V) = ‘Song le’ (V-V).
Tương tự: ‘Đầu tiên’ (H-H) = ‘Trước tiên’ (V-H) = ‘Trước hết/mắt’ (V-V).
 H-H: ‘Khai thủy, khởi đầu/sự, sơ khởi, tối sơ = V-H : ‘Bắt đầu, thoạt tiên, trước nhất’.        
 
(5) Tiếng Trung 加 gia=cọng、减 giảm=trừ、乘 thừa=nhân、 trừ=chia.
“Bát gia ngũ thị thập tam, bát giảm ngũ thị tam, bát thừa ngũ thị tứ thập, bát trừ nhị thị tứ.
(Tám cọng năm là mười ba, tám trừ năm là ba, tám nhân năm là bốn mươi, tám chia hai là bốn).
______