Báo chí đang khai thác câu hỏi mà ông Nguyễn Phú Trọng nêu ra trong bài diễn văn khai mạc hội nghị 5 vừa qua. Câu hỏi đó là: “vì sao những hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra từ lâu, nhưng qua nhiều nhiệm kỳ đến nay tình hình vẫn chậm chuyển biến, thậm chí có mặt còn trầm trọng hơn?”
Ông Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 5 Khóa XII. Ảnh: VietnamPlus
Trong câu hỏi này, có hai vế quan trọng:
Vế thứ nhất là lãnh đạo đảng CSVN đã tìm ra nguyên nhân dẫn đến các yếu kém, các hạn chế trong nhiều lãnh vực của doanh nghiệp nhà nước.
Vế thứ hai là lãnh đạo cũng đưa ra nhiều nghị quyết qua các nhiệm kỳ nhưng trên thực tế nền kinh tế Việt Nam nói chung, hoạt động các doanh nghiệp nói riêng không có hiệu quả. Nói cách khác đang trở thành một gánh nặng cho quốc gia.
Trong hai vế này, vế thứ nhất là dễ tìm nhất vì nó nằm ngay trong bản chất của doanh nghiệp nhà nước. Đó là những người lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước không có khả năng kinh doanh. Họ được đưa vào lãnh đạo các doanh nghiệp như là những cán bộ hành chánh, cất nhắc theo sự đề bạt chính trị chứ không theo khả năng quản trị kinh doanh. Tất nhiên việc bổ nhiệm như vậy làm sao kinh doanh có hiệu quả. Đó là chưa nói đến những thủ đoạn chính trị được sử dụng trong các báo cáo để được thăng quan tiến chức vào Trung ương đảng, Bộ chính trị.
Quan trọng và gay go nhất chính là vế thứ hai. Đó là đã tìm ra phương thuốc giải quyết, tức là công bố quá nhiều nghị quyết sửa đổi, uốn nắn nhưng con bệnh vẫn không phục hồi? Và đó cũng chính là câu hỏi lớn của ông Trọng.
Thứ nhất, Ban chấp hành trung ương đảng gồm 180 Ủy viên của Khóa XII là bộ phận quyết định về đường lối chính sách chung của đảng và nhà nước; nhưng có bao nhiêu người thực sự có khả năng hiểu rõ về hoạt động hiệu quả của một doanh nghiệp nhà nước, để mà đưa ra những chính sách, đường lối chính xác.
Tất cả mọi đề án về kinh tế thường mang màu sắc chính trị nhằm tuyên truyền về sự lãnh đạo của đảng hơn là mang lại những hiệu quả kinh tế thật sự. Ví dụ, việc thiết lập những Tập đoàn kinh tế được lãnh đạo đảng CSVN đưa ra vào năm 2005, hoàn toàn không dựa trên hiệu năng kinh tế của các tập đoàn này mà chỉ nhằm mục tiêu chính trị hóa khi tuyên truyền rằng đó là “cú đấm thép” để đẩy mạnh Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp hóa năm 2020, theo nghị quyết của Đại hội X.
Do mục tiêu chính trị nên lãnh đạo đã đổ hàng tỷ đồng hầu nhanh chóng biến những tập đoàn này từ con nhái biến thành con bò trong thời gian ngắn, và dùng hình ảnh đó chứng minh sự ưu việt của định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi những bụng con bò bùng vỡ đi đôi cùng sự sụp đổ hàng loạt các tập đoàn, lãnh đạo đảng và nhà nước không thừa nhận đó là những sai lầm trong việc hoạch định đường lối, mà lại quy trách nhiệm cho một số cán bộ phụ trách. Tức là đổ trách nhiệm lên một vài cán bộ thừa hành mà không coi đó là những sai lầm của Trung ương đảng và Bộ chính trị, cơ quan đã quyết định ra cái gọi là “quả đấm thép”.
Thứ hai, Ban chấp hành trung ương đảng đã coi doanh nghiệp nhà nước là thành phần chủ đạo nền kinh tế, nhưng dường như họ không thật sự hiểu thế nào là sự chủ đạo. Chủ đạo có nghĩa là cầm chịch và đóng vai trò xương sống để xây dựng một nền kinh tế hiệu quả. Trong khi đó, do lo sợ bị coi là chệch hướng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo đảng CSVN cố duy trì hệ thống quốc doanh nắm chặt mọi lãnh vực kinh tế. Từ đó mới đẻ ra hiện tượng là các bộ máy từ công an, quân đội, truyền thông, giáo dục cho đến các lãnh vực công nghiệp, nông nghiệp, du lịch,… đều lập ra những doanh nghiệp để cạnh tranh thương mại.
Hậu quả tất nhiên là đảng và nhà nước phải dành mọi dễ dài trong việc hỗ trợ và nuôi dưỡng các doanh nghiệp quốc doanh. Khi được dành những ưu thế như vậy, các doanh nghiệp sẽ phóng tay làm theo các nghị quyết và sẵn sàng thổi phồng thành quả để báo cáo… hầu tiếp tục được cung cấp tiền. Do đó khi coi doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí chủ đạo nền kinh tế, chẳng khác nào khuyến khích một tầng lớp quan tham, ngu dốt cấu kết nhau phung phí những tài nguyên quốc gia một cách vô tội vạ. Đây là hậu quả tai hại khi dùng cơ cấu kinh tế quốc doanh cho mục tiêu chứng minh nửa nạc nửa mỡ của cái gọi là “kinh tế thị trưởng theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Tóm lại, chính cơ chế độc tài đảng trị đã không chỉ biến các doanh nghiệp nhà nước thành những cỗ máy hành chánh để cất nhắc cán bộ theo phe nhóm mà còn là nơi làm giàu cho một số cán bộ lãnh đạo, gia đình thân nhân và các nhóm lợi ích bu quanh.
Khi doanh nghiệp làm ăn không có lời, thất thoát hay lỗ lã, thay vì phải giải tán hay chuyển đổi lề lối kinh doanh và truy tố những cán bộ lãnh đạo ra tòa, đảng và nhà nước lại tiếp tục đổ tiền vào nuôi và chỉ thay đổi cán bộ quản lý. Khi quyền lực kinh doanh ở các doanh nghiệp phó mặc cho các đảng bộ trách nhiệm, hậu quả tất nhiên là quyền lực tha hóa và bị lạm dụng.
Ngay cả việc ông Đinh La Thăng đã có những sai phạm ở Tập Đoàn Dầu Khí từ năm 2007 đến năm 2011, làm thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng cho quốc gia, thế mà đến gần 10 năm sau mới phát hiện và đương sự chỉ bị cách chức Bộ chính trị, tiếp tục nằm trong Ban chấp hành Trung ương đảng và không có gì tiếu lâm hơn là được chuyển sang giữ chức Phó Ban kinh tế trung ương.
Trong một xã hội dân chủ và pháp trị, những sai phạm của ông Đinh La Thăng như vậy đã phải bị truy tố ra tòa và chịu trách nhiệm hình sự chứ không thể nhận “cảnh cáo” ở trong đảng rồi thôi.
Chính cách giải quyết của Ban chấp hành trung ương đảng CSVN đối với trường hợp ông Đinh La Thăng vừa qua, đã trả lời cho câu hỏi lớn của ông Nguyễn Phú Trọng là dù tìm ra nguyên nhân, nhưng cách giải quyết vẫn là “đánh bùn sang ao” nên đảng và nước CSVN sẽ tiếp tục trì trệ cho đến khi tan rã mà thôi.