Ghi nhận duy nhất về tính chính danh của chính thể độc tài ở Việt Nam trong cuộc khủng hoảng Bãi Tư Chính lần 3 chỉ là động thái của Bộ Ngoại giao Việt Nam: trong một lần quá hiếm muộn của lịch sử quan hệ gấu ó Việt – Trung, cơ quan cấp bộ này đã hai lần liên tiếp gửi công hàm phản đối Trung Quốc về vụ tàu Hải Dương 8 xâm nhập Bãi Tư Chính và vụ Trung Quốc tổ chức tập trận ở Hoàng Sa.
Nhưng những đặc trưng còn lại của đảng CSVN đều thiếu hẳn tính ‘công chính’.
Cho tới nay và mặc dù đã phục hồi sức khỏe, đã tiếp đón các quan chức ngoại giao nước ngoài và xuất hiện đó đây trên cương vị chủ tịch nước, nhưng Nguyễn Phú Trọng vẫn không hề hé răng về vụ Bãi Tư Chính. Tình trạng ‘cấm khẩu’ quá yếm thế như vậy khiến người ta liên tưởng lại vụ Hải Dương 981 vào năm 2014: năm đó đã dậy lên rất nhiều đồn đoán rằng Nguyễn Phú Trọng đã có đến hai chục lần gọi điện đến Bắc Kinh cho Tập Cận Bình để thương thảo về vụ rút giàn khoan Hải Dương 981, nhưng họ Tập đều kiêu ngạo từ chối tiếp chuyện. Rốt cuộc, Hải Dương 981 đã chỉ rút bởi thế chủ động rút của Trung Quốc sau hơn hai tháng trời hành hạ ‘đảng em’ Việt Nam và con dân nước Việt.
Còn vào năm 2019, tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 cũng được Trung Quốc chủ động rút khỏi Bãi Tư Chính sau hơn một tháng ‘chính danh’ của lực lượng hải quân Việt Nam mà đã chẳng thể làm gì, thậm chí còn chẳng dám nói gì trước một kẻ cướp táo tợn lao vào nhà mình.
“Thế 6 cái tàu ngầm lớp Kilo mà Bộ Quốc phòng Việt Nam mua của Nga đi đâu mất mà không ra Bãi Tư Chính ứng chiến với tàu địch?” – một số người dân cắc cớ hỏi.
Trong lúc viên tướng có tới bốn sao trên cầu vai là Ngô Xuân Lịch vẫn im như thóc, một số người dân khác lại hỏi dồn: “Đừng có nói là mấy cái tàu ngầm lớp Kilo còn phải tác chiến ở Hà Nội, Sài Gòn, Phú Quốc, Đà Lạt… – những nơi đang ngập lụt đến lút đầu!”.
Chẳng khác gì Bộ Quốc phòng, cả chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc và quốc hội của ‘tỷ phú áo dài’ Nguyễn Thị Kim Ngân cũng không thốt nổi từ nào để phản đối Trung Quốc – một hiện tượng rất đồng điệu với tinh thần câm nín triệt để vào năm 2014 khi nổ ra vụ Hải Dương 981.
Điều trớ trêu là trong vụ Hải Dương 981, chính là Nghị viện Hoa Kỳ đã khẩn cấp và quyết liệt tung ra một bản nghị quyết về Biển Đông lên án sự can thiệp của Trung Quốc, còn giới quân sự Mỹ đã gợi ý Việt Nam về ‘đối tác chiến lược’ với Hoa Kỳ. Song tất cả đều bị phía Việt Nam lờ đi trong cơn mê sảng đu dây ngả ngớn với Bắc Kinh để cuối cùng đã phải nhận quả báo nhãn tiền.
Còn vào năm 2019, không phải ‘nghị gật’ Việt Nam mà chính là một số nghị sĩ Mỹ tiếp tục chỉ trích và tố cáo Bắc Kinh vi phạm Công ước Liên hiệp quốc về luật biển (UNCLOS 1982).
Quả báo nhãn tiền rốt cuộc đã chính danh đến mức trong cả ba vụ Bãi Tư Chính vào các năm 2017, 2018 và 2019, hầu hết các ‘đối tác chiến lược’ – mà giới chóp bu Việt Nam thường tự hào lên đến cả tá – đã chẳng đếm xỉa gì đến cử chỉ cầu cứu của Hà Nội. Cay đắng nhất là ‘đối tác chiến lược’ Tây Ban Nha – nước có Tập đoàn dầu khí Repsol liên doanh với Việt Nam ở mỏ cá Rồng Đỏ, và Cộng hòa liên bang Nga – quốc gia có Tập đoàn dầu khí Rosneft liên doanh với Việt Nam khai thác mỏ Lan Đỏ, đều lặng tăm. Trái ngược hoàn toàn, ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất Trung Quốc’ – như cái cách ca tụng tận mây xanh của Bộ Chính trị Việt Nam – lại trở thành con cá mập hung dữ muốn nuốt trọn Bãi Tư Chính và Biển Đông.
Rốt cuộc, tính ‘chính danh’ của chính thể độc đảng ở Việt Nam đã được tôn vinh trọn vẹn đến mức nếu không phải là hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của hải quân Mỹ tiến thẳng vào Biển Đông vào ngày 6/8 thì còn lâu, chứ không phải chỉ một ngày sau đó – 7/8, Trung Quốc mới chịu rút tàu Hải Dương 8 ra khỏi Bãi Tư Chính.
Nhưng không chỉ ‘chính danh’ bằng chính sách ‘Ba không’, chính thể ‘đảng em’ Việt Nam còn cần được bổ sung thêm một ‘không’ nữa – một ‘không rất kiên định: Không kiện ‘đảng anh’ Trung Quốc.
Quả là thế, ý chí kiện Trung Quốc đã chỉ lấp ló trên cửa miệng giới quan chức cao cấp Việt Nam vào mỗi lúc bị dư luận chỉ trích mạnh mẽ về chế độ này ‘hèn với giặc, ác với dân’, nhưng sau đó hồ sơ được xem là ‘kiện Trung Quốc’ lại bị tống vào ngăn kéo đầy bụi bặm. Tâm thế lộn ngược đó khiến cho con dân nước Việt, cứ mỗi khi nhắc tới ‘đảng quanh vinh’ và ‘chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam’, thì lại ngậm ngùi bởi nhớ tới câu thơ ‘Người ta đứng bởi mi quỳ gối’.
Song cũng cần phải châm chước: chính thể độc tài Việt Nam vẫn còn vài đặc thù rất ‘chính danh’ khác: sẵn sàng đàn áp bất cứ tiếng nói bất đồng và người dân nào dám lên tiếng và xuống đường biểu thị tinh thần phản kháng ‘đảng anh’ Trung Quốc, như bao lần đàn áp dã man các cuộc biểu tình của người dân chống Trung Cộng kể từ năm 2011 đến tận giờ đây.
Mùa hè năm 2019, bất chấp vụ Bãi Tư Chính đã bị Bắc Kinh đẩy vào cơn khủng hoảng lần thứ ba trong ba năm liên tiếp, những kẻ ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười Sáu Chữ Vàng’ ở Việt Nam vẫn kiên định rào dây kẽm gai trên các đường phố và xua các lực lượng công an và dân phòng trực chiến liên tục để tác chiến với nhân dân.
Và kiên định không kém khi phát cờ cho ngư dân…
Trong bầu không khí rũ rượi của câu vè ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ vẫn dồn nén châm chích đến buốt tim, giới quan chức mặt lầy mỡ tổ chức phát hàng chục ngàn lá cờ đỏ sao vàng cho những ngư dân xơ xác và thiểu não vì mất biển, mất kế mưu sinh và mất cả lòng tin vào lực lượng ‘quân với dân như cá với nước’, mưu biến những ngư dân này trở thành lá chắn sống lao ra biển đối đầu với tàu vũ trang của địch.
Thế là lại nổi lên một câu vè nữa: “Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động!”./.