Những khó khăn của Việt Nam hiện nay

Sự kiện nhân dân Venezuela nổi dậy cùng với Đảng Dân Ý của ông Juan Guiado lật đổ chế độ độc tài Maduro mấy ngày qua đang là sự kiện nóng hổi lôi kéo sự chú ý cả toàn thế giới. Dù là chính phủ lâm thời của ông Juan Guiado vẫn chưa được ổn định vì sẽ còn đối mặt rất nhiều khó khăn trước mắt, nguy cơ khó khăn nhất là sự "giãy chết'' của cựu Tổng thống độc tài Maduro, chắc chắn là Maduro sẽ tìm mọi cách gây biến động và Chính phủ ông Juan Guiado phải đối phó mọi mặt, nhưng bù lại, họ có sự trợ giúp từ Quốc Tế, cụ thể là Hoa Kỳ. Khó khăn kế tiếp là Juan Guiado tiếp nhận một đất nước đã bị tàn phá về kinh tế nặng nề, việc sắp xếp các phe phái chính trị và kiến thiết lại quốc gia sẽ không dễ dàng cho ông. Nhưng dù sao, kiến thiết quốc gia vẫn sẽ dễ dàng hơn là quá trình lật đổ cả một chế độ độc tài, những khó khăn đó họ còn vượt qua được thì việc kiến thiết quốc gia họ sẽ cùng nhau xây dựng lại nhanh chóng mà thôi. Tuy chưa chính thức nhưng chúng ta vẫn chúc mừng cho Venezuela sẽ có một tương lai tươi sáng. VIỆT NAM THÌ SAO? Rất nhiều người nhìn về Venezuela rồi tự nhiên so sánh với Việt Nam, sự so sánh hiển nhiên bởi vì trong mỗi con người Việt Nam, họ khao khát điều đó, khao khát tự do, dân chủ. Ở đây, chúng ta nhìn thấy sự khó khăn của Việt Nam so với Venezuela thế nào? Nhìn bề ngoài, có lẽ đa số sẽ nghĩ hiện tình ở Việt Nam dù sao cũng tốt hơn Venezuela, ít nhất kinh tế Việt Nam vẫn chưa kiệt quệ đến nỗi người dân phải bới thùng rác tìm thức ăn, ít nhất Chính trị Việt Nam vẫn chưa xảy ra bạo lực khắp nơi, ít nhất Việt Nam vẫn chưa xảy ra tình trạng hàng triệu người phải di dân sang các nước lân cận,... Đúng vậy, nhìn bề ngoài thì như thế, có vẻ Việt Nam chưa khánh kiệt như Venezuela. Thế nhưng, người viết nói rằng, Việt Nam so với Venezuela sẽ khó khăn nghiêm trọng hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều thì quý vị nghĩ sao? Và tại sao như vậy? Muốn hiểu rõ những điều này, chúng ta hãy nhìn vào cơ chế chính trị của hai quốc gia. Thứ nhất, đối với Venezuela, mặc dù suốt gần hai trăm năm kể từ khi độc lập, đã trải qua các chế độ chính trị không thật sự là dân chủ nhưng họ vẫn duy trì được đa đảng, vẫn duy trì đảng đối lập, mặc dù đảng cầm quyền độc tài, nhưng ít nhất, người dân của họ cũng đã có ý thức về dân chủ, có ý thức đấu tranh chống độc tài. Còn ở Việt Nam, Miền Bắc đã trải qua hơn 73 năm và Miền Nam hơn 43 năm dưới ách cai trị của cộng sản, chỉ có độc đảng cầm quyền, lại bị tuyên truyền, nhồi nhét ý thức hệ của cộng sản, mặt khác, phong trào đấu tranh dân chủ bị đàn áp triệt để cho nên hầu như người dân Việt Nam đã muốn tê liệt và mất ý chí đấu tranh. Đây là yếu tố quan trọng nhất làm cho công cuộc đấu tranh ở Việt Nam rất khó khăn. Thứ hai, sự tê liệt của Venezuela chủ yếu là do tê liệt về kinh tế hơn là về chính trị. Bởi vì đảng cầm quyền Venezuela độc tài và tham tàn, cho nên họ duy trì chính sách thâu tóm quyền lợi kinh tế, bóp nghẹt sự phát triển kinh tế tư nhân, nạn tham nhũng tràn lan làm cho kinh tế lâm vào khủng hoảng, thời kỳ thịnh vượng của họ chẳng qua phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ rất lớn. Venezuela duy trì đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa và kết cục chúng ta đã thấy. Còn Việt Nam, về kinh tế, cũng duy trì đường lối độc tài, thâu tóm quyền lợi kinh tế quốc gia về cho đảng cầm quyền, lại thêm sự độc tài toàn trị về chính trị làm cho nhân dân Việt Nam phải chịu nhiều tầng áp bức, nghèo nàn về kinh tế, ngạt thở về chính trị làm cho sự nhận thức u tối đi. Thứ ba, ý thức và tư tưởng rất quan trọng cho sự phát triển và phát huy tiềm năng của con người, thế nhưng dưới chế độ cộng sản, ý thức và tư tưởng hầu như bị triệt tiêu, chúng giáo dục công dân đi theo một đường lối duy nhất do chúng đưa ra, nhồi nhét công dân trở nên u tối, có lẽ công dân venezuela vẫn còn may mắn hơn công dân Việt Nam vì họ không bị nhồi sọ để trở nên vô cảm, thờ ơ với chính trị. Thứ tư, Venezuela giống như hầu hết các quốc gia Nam Mỹ, là một quốc gia theo Công giáo Rôma. Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo ở nước này có từ thời thực dân Tây Ban Nha. Theo ước tính của chính phủ, 92% dân số trên danh nghĩa là tín hữu Công giáo Rôma, và còn lại 8% là Tin Lành, các tôn giáo khác, hoặc vô thần. Chúng ta có thể thấy, gần 100% công dân các quốc gia này có tôn giáo rất phát triển, vậy nên công dân họ được giáo dục tốt, có đức tin và đạo đức cũng sẽ không suy thoái như cộng sản chủ trương vô thần. Đạo đức là một đức tính quan trọng để chấn hưng Nhân Khí cho mỗi quốc gia. Thứ năm, một yếu tố cực kỳ nguy hiểm mà Venezuela không bị như Việt Nam đó là sự xâm lược, muốn đồng hóa giống nòi của Trung cộng. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, Trung Quốc không bao giờ từ bỏ dã tâm chiếm lấy và đồng hóa Việt Nam vì chúng cho rằng Việt Nam là một phần của chúng và Việt Nam phải thu về mẫu quốc. Đây là dã tâm muốn diệt tận gốc giống nòi Lạc Việt và đồng hóa trở thành Hán Trung. Người viết đã khóc khi đọc qua những tài liệu lịch sử ghi chép về sự dã tâm của Trung Quốc muốn diệt chủng nòi Việt của chúng ta. Nếu quý vị có tinh thần Dân Tộc, quý vị sẽ thấy, sự nghèo đói, sự ô nhiễm môi trường, sự đàn áp cướp bóc, ...tất cả điều gây đau khổ cho nhân dân, nhưng tất cả những điều đó nó không là gì so với sự diệt chủng giống nòi Lạc Việt của chúng ta. Và Trung Quốc vẫn đang làm điều đó dưới sự tiếp tay ngu dốt của ĐCS. Vậy nên, tình hình của chúng ta nguy cấp hơn so với các quốc gia khác. Quý vị có thể nhìn thấy, Việt Nam thật sự đang đối mặt khó khăn hơn bất cứ quốc gia cộng sản nào, thế nhưng có thể nói tinh thần đấu tranh của người Việt Nam lại kém cỏi nhất. Bởi vì tầng lớp đáy tầng chiếm hơn 70% dân số nhưng kiến thức chính trị của họ rất thấp, bởi vì nghèo nàn làm họ phải bươn chải kiếm sống, lại thêm sự nhồi nhét đường lối của CS làm cho họ thờ ơ tìm hiểu về chính trị. Tầng lớp trung lưu trí thức chiếm tỷ lệ ít hơn (khoảng 20%) có tư tưởng tìm hiểu chính trị nhưng họ cũng chưa dứt khoát bày tỏ quan điểm của họ. Còn lại là đảng viên đảng CS. Việt Nam ví như con sóng ngầm dữ dội đang bị kiềm nén chứ không phải yên bình như bề ngoài giả tạo của nó. Những khó khăn là vậy, hiểu được nó để xác định được chúng ta cần làm gì là chính yếu, và làm như thế nào. Vạn sự điều có lối đi, mọi con đường đều sẽ đến La Mã. Muốn bớt gian nan thì tìm đường thuận lợi mà đi, không tìm được thì phải đi con đường khó khăn hơn, còn nếu không muốn đi thì mọi con đường sẽ đóng lại. Không có gì cao xa cả, vạn vật trong vũ trụ đều có quy luật vận hành của nó, quan trọng là thấy được nó, hiểu được nó và muốn đi theo sự vận hành của nó hay không là do chúng ta! January 26, 2019.” Bác sĩ Diệu Hằng
......

Phải chăng rủa sả là để tự vệ?

Cánh Cò -  RFA | Tượng đài Đức thánh Trần những ngày này bỗng dưng được người dân quan tâm đặc biệt sau sự cố “cẩu lư” vào ngày 17 tháng 2 vừa qua. Chưa bao giờ không gian mạng lại bận rộn chỉ tập trung vào một đề tài như thế. Mở ra bất cứ trang nào cũng thấy người chủ trang chăm chú nhìn vào việc này, nhất là sau khi nghe tin bà Nguyễn Thị Thu, Phó chủ tịch UBND thành phố qua đời ba ngày sau khi chiếc lư trước tượng đài bị câu đi. Trăm nơi như một, người ta hân hoan cho rằng bà Thu bị thánh thần xử phạt vì đã phạm vào tội bất kính với tiền nhân. Người ta vạch ra bằng chứng là trong tư cách là Phó chủ tịch phụ trách lĩnh vực văn hóa – xã hội bà Thu đã ký một văn bản “phạm thượng” cho phép di dời chiếc lư hương từ chỗ cũ của nó về đền thờ Đức Thánh Trần ở số 36 Võ Thị Sáu. Quyết định được bà Thu ký ngày 15 tháng 1 năm 2019 và một tháng sau thì bà qua đời. Có hàng ngàn nhận xét về hiện tượng này nhưng chung quy nhắm tới luật nhân quả cho người nào xem việc tàn phá văn hóa tâm linh hay báng bổ thần thánh đều bị trừng phạt. Sự trừng phạt ấy nếu xảy ra nhanh chóng như trường hợp bà Thu có lẽ là điều hiếm khi xảy ra, nhưng khi nó xảy ra thì niềm tin vào sự trừng phạt của thánh thần được nhân lên gấp bội, bất kể việc này chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người ta không muốn nghe hai từ ngẫu nhiên bởi sự tin tưởng vào thế giới huyền bí khó giải thích hơn là sự giải thích theo cách khoa học. Nhất là khi niềm tin ấy đính kèm lòng hả hê vì sự tàn bạo của một chính quyền chỉ biết tham lam phá hoại. Rất nhiều người dân không biết tại sao chính quyền có quyết định “cưỡng chế” chiếc lư hương trước tượng đài Trần Hưng Đạo tại sông Sài gòn. Họ không có khái niệm về việc chiếc lư hương được cho là vật giúp người có lòng dạ với đất nước trước họa diệt vong của Trung Quốc làm nơi lưu giữ chút hương khói dâng lên Đức Thánh Trần. Sự căm giận của người dân trong vụ này được bộc lộ. Họ không thù oán hay có định kiến với bà Nguyễn Thị Thu nhưng khi nghe tin bà chết là họ ùn ùn reo hò bằng những từ ngữ xúc xiểm tệ hại nhất. Phải chăng đó là dịp để người dân đánh trả thói quen xem thường dân chúng của chính quyền các cấp? Họ đã sống dưới sự kềm kẹp, chà đạp lẫn khinh bỉ quá lâu đủ để lòng căm giận chế độ lên men sau nhiều năm được ủ. Tâm lý hả hê không giấu giếm đã làm một số người bất mãn, cho rằng như vậy là tàn ác đối với người đã mất. Đáp lại sự lên án ấy là những câu chữ không kém phần thuyết phục. Bà Thu bị ghét bỏ như vậy vì chính tay bà đã ký một quyết định báng bổ thần thánh. Bất cứ vì lý do gì kể cả lý do chế độ lo sợ người biểu tình thì cũng phải suy xét cặn kẽ trước một quyết định mất lòng dân như vậy. Mạo phạm một hình tượng uy vũ như Trần Hưng Đạo không khác gì lấy cây thọc vào tượng Chúa hay bôi bẩn lên khuôn mặt Đức Phật Thích Ca. Nguồn cơn tại bà phụ trách văn hóa nhưng lại không hiểu chút gì về văn hóa tâm linh của người dân nên bà bị rủa sả. Nhưng xét cho cùng, văn hóa Việt Nam từ ngàn xưa vốn hiền lành, tha thứ không chấp nê, sao lại đưa đẩy tới chốn thị phi nghiệt ngã như hôm nay, khi con người sẵn lòng nguyển rủa một người vừa nằm xuống chưa kịp tẩm liệm? Đây là câu hỏi mà đảng Cộng sản Việt Nam phải ngồi lại với nhau tìm câu trả lời thỏa đáng. Có phải vì họ đã quá hà khắc với dân để lòng căm thù ngày một lớn và vô phương hóa giải? Có phải vì họ xem dân là cỏ rác khiến lòng tự trọng của dân bị thương tổn tạo ra phản ứng trả thù đối với người đã chết? Có phải cứ là đảng viên là bị người dân căm ghét vì đảng đã lợi dụng quyền lực của mình để bao che cho những thành phần này khiến người dân trở thành thứ phẩm, chỉ biết tuân lệnh và không được phản ứng? Còn nhiều câu hỏi khác để giải mã cho phản ứng trả thù với xác chết nhưng câu trả lời dễ chấp nhận nhất là người dân phản ứng vì tự vệ. Họ đang dùng sự nguyền rủa đề cảnh tỉnh đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu còn tỉnh táo thì đảng phải ngay lập tức dừng lại mọi hành vi chà đạp người dân dưới bất cứ hình thức nào. Đừng nghĩ rằng họ không biết đảng đang đu giây với Trung Quốc nhằm tìm sự yên lành cho đảng bằng cách áp bức người yêu nước trước các hành vi sai trái, nhu nhược và hèn hạ mà đảng hành xử trong những năm qua. Nếu còn những suy nghĩ là đảng đủ mạnh để có thể làm bất cứ việc gì đảng muốn thì người dân cũng sẽ còn nhiều cơ hội để rủa sả ngay cả những kẻ chưa chết nhưng trái tim thì đã héo khô hai chữ Việt Nam. Sự nguyền rủa ở số ít thì có thể cho là tàn nhẫn, nhưng khi cả nước đã nguyền rủa  thì đảng nào sống sót cho nổi trước lòng căm thù tập thể của những con người cơ cực chịu đựng sự giày vò của một đảng cầm quyền trong suốt gần một thế kỷ?  
......

KHÔNG ĐƯỢC KHÓC

Nguyễn Thúy Hạnh Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, những cái tên đã đi vào lịch sử đình công của công nhân Việt Nam với hơn 10 ngàn người tham gia ở Trà Vinh năm 2010. Và tất yếu họ bị trừng phạt bởi nhà cầm quyền với tổng cộng 23 năm tù cho 3 người. Nhân sự kiện Nguyễn Hoàng Quốc Hùng người cuối cùng trong nhóm họ mãn hạn 9 năm tù cộng sản hôm nay, tôi nhớ lại một câu chuyện mà Minh Hạnh kể cho tôi khi mới ra tù. Minh Hạnh tham gia phong trào công nhân từ năm 18 tuổi, Chương và Hùng hơn Hạnh 4 tuổi. Họ coi nhau như anh em, ăn ở lăn lộn cùng công nhân để gây dựng phong trào, tâm hồn phơi phới niềm tin và nhiệt huyết. Giữa họ với nhau có một giao hẹn: “TRONG MỌI TÌNH HUỐNG KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC KHÓC”. Minh Hạnh và Quốc Hùng đã trở thành người yêu, chung một mối tình, lý tưởng, mối quan tâm. Rồi cuộc đình công nổ ra, cả ba anh em đều lần lượt bị bắt. Hai người anh muốn Minh Hạnh thoát, nhưng Minh Hạnh kiên quyết không đầu hàng, quyết chung lưng cùng các anh. Họ bị giam cách biệt nhau suốt 8 tháng cho đến khi ra toà. Hôm đó trên đường áp giải từ xe tù ra thì Hạnh gặp Hùng cũng bị áp giải qua đó. Thấy Hùng, Hạnh sững sờ mới đầu không nhận ra. Có ai ngờ Quốc to cao vạm vỡ trước kia giờ gầy như cái que. Xót xa thương Hùng quá, Hạnh đã bật khóc. Nhưng ngay lúc đó Hùng nghiêm mặt nhắc lại lời thề: “KHÔNG ĐƯỢC KHÓC”. Hạnh đã gần như ngất đi vì xúc động và thương Hùng, nhưng em đã không khóc nữa. Và sau đó là một phiên toà hào hùng của những người thanh niên quả cảm. Ba anh em đứa 9 năm, đứa 7 năm tù, không hề run sợ hối tiếc, không xin xỏ. Lúc tuyên án họ còn hát vang, tin tưởng vào ngày mai bóng tối sẽ bị xua tan. Vô cùng khâm phục và yêu quý ba anh em: Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh.
......

BẢN CHẤT

Đỗ Văn Ngà Công an vốn là một lực lượng chấp pháp, nhưng chính họ giờ đang trở thành một lực lượng đáng sợ nhất đối với nhân dân. Hiện nay, ngành này không còn muốn làm cho xã hội bình yên nữa, mà ngược lại, họ muốn xã hội bất an để họ kiếm chác. Cờ bạc nhiều thì họ có thêm thu nhập bảo kê, ma tuý nhiều thì họ có cơ hội khoe thành tích vv.. Mà bất nhân nhất là hiện tượng nuôi án khá phổ biến trong lực lượng này. Chấp pháp là nhiệm vụ của họ, nhưng chấp pháp thì lấy gì sống? Mà thi hành nhiệm vụ thì chỉ được nhận lương thôi, không thưởng gì cả, cho nên họ phải bảo kê tội phạm để mà sống. Điều đó cũng có nghĩa là họ đã đánh mất hoàn toàn hình ảnh bảo vệ an ninh cho dân. Họ là hiện thân của sự bất an. Như bài trước đã nói, công an Cộng Sản luôn nuôi án để nó mang lại cho họ nhiều cái lợi. Chưa có một xã hội nào công an lại thả cho xã hội bất an để hưởng lợi như Việt Nam. Rõ ràng nuôi án thì nó sẽ thúc đẩy tệ nạn ngày càng nghiêm trọng, tội ác ngày một man rợ hơn. Mà tệ nạn ngày một nghiêm trọng thì tiền chi cho công an làm nhiệm vụ bảo kê ngày một cao. Nghĩa là tệ nạn càng cao thì công an càng giàu. Chuyên bảo kê cho tệ nạn kiếm tiền chưa đủ, nay họ lại nhảy sang bảo kê cho BOT bẩn để kiếm tiền. Đốn mạt đến mức, họ trút bỏ quân phục, bịt khẩu trang kín mặt để bảo kê cho BOT bẩn như bọn đầu gấu chuyên nghiệp để kiếm chút tiền bẩn bỏ vào mồm. Vậy thì họ tìm đâu ra hình ảnh đẹp? Trong mắt nhân dân, hình ảnh chấp pháp của ngành công an không còn nữa. Giờ họ hoàn toàn bế tắc, không biết làm cách nào để lấy lại hình ảnh đơn giản ấy trong mắt nhân dân nữa. Chính vì thế nên họ đã bày ra đủ trò để tìm cách cứu vãn hình ảnh, nhưng thật thảm hại, họ bày ra bao nhiêu trò đều bị dân lật tẩy bấy nhiêu trò. Cho nên hình ảnh không những không được cứu vãn mà con bị rớt thảm hại. Không thực hiện nhiệm vụ mà họ lại lo tổ chức buổi đi nhặt rác rồi quay phim quảng bá hình ảnh. Màn kịch bị dân bóc mẽ, hình ảnh ngành rớt thê thảm. Như con bạc say máu, càng thua nó càng đánh đậm hơn nữa để gỡ, thì công an cũng thế, những màn kịch này bị thất bại thì họ dựng màn kịch khác để gỡ lại hình ảnh. Trò hề quét rác bị lật tẩy, họ lại tự dựng hình ảnh nhặt tiền trả lại người khác rồi quay phim chụp ảnh và nhờ hệ thống báo chí nô bộc tung hô. Nhưng thảm hại thay, họ lại bị dân lật tẩy, uy tín lại không những không cải thiện mà còn tụt dốc thảm hại hơn. Thực tế ngành công an quá thiếu vắng đạo đức và trách nhiệm, thì các lãnh đạo CS cũng khác sao? Cũng thiếu vắng nốt. Tham nhũng, bất tài, gian manh, độc ác, phá hoại vv.. Đấy là hình ảnh lãnh đạo CSVN. Giờ dân nhìn họ với một cặp mắt vừa khinh bỉ, vừa hận, vừa căm ghét. Chính vì thế họ cũng như công an, đang khác khao được xã hội thừa nhận họ như một người công chính. Họ rất cần, nên khi có một sự kiện nào là họ cũng muốn ăn theo để tỏ vẻ "có trách nhiệm với nhân dân". Khi Công an Điện Biên bắt 5 hung thủ vụ án cô gái giao gà đêm 30 tết, thì lập lức ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhảy vào ăn hôi hình ảnh này. Ông ta nhảy vào chỉ đạo thế này, chỉ đạo thế kia như là không có ông ta thì bộ máy nhà nước không làm gì được với vụ án này vậy. Mà nói thẳng ra, trong vụ trong án này, để xảy ra cảnh hiếp dâm giết người như vậy, tội của công an Điện Biên rất lớn, việc bắt 5 hung thủ là trách nhiệm họ phải làm chứ chẳng có công lao gì cả. Hình ảnh công an không truy tìm nạn nhân sớm để xảy ra hậu quả thương tâm này là một hình ảnh rất xấu của công an Đện Biên chứ chả đẹp đẽ gì, nhưng trong bối cũng chẳng có hình ảnh nào khá hơn, thì cả công an và thủ tướng đều giành giật cái hình ảnh ấy để phết lên khuôn mặt toàn lọ nghẹ của họ một vết sơn "đẹp". Rõ ràng trong ĐCS, hiện giờ đã khô cạn đạo đức con người và tinh thần trách nhiệm cũng vắng bóng. Thế nhưng họ lại không tự sửa tốt hơn để "hữu xạ tự nhiên hương" mà ngược lại, họ cố mót vét những hành động chấp pháp hiếm hoi để tô vẽ cho mình một hình ảnh lãnh đạo "vì dân" và "có trách nhiệm". Khổ nỗi trên khuôn mặt lãnh đạo nào cũng đen xì lọ nồi, họ cố chấm lên ấy một vài vết sơn sặc sỡ thì khuôn mặt cũng chẳng sáng hơn, mà ngược lại, nhìn nó lại còn lem luốc hơn cả màu đen của nhọ.  
......

‘Đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng’: Lại dối trá!

Lần đầu tiên kể từ khi Nhà nước Đức cáo buộc bị mật vụ Việt Nam sang tận Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vào tháng 7 năm 2017 và gây ra cơn địa chấn khủng hoảng ngoại giao quan hệ Đức - Việt, đến nay một ít tờ báo nhà nước Việt Nam mới dám hé lộ sự thật về ‘khôi phục quan hệ Việt - Đức’.   Tờ báo mà gần đây được xem là ‘thân đảng’ như Thanh Niên, với tựa đề “Đức muốn 'làm mới' quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam” - là một trong số tờ báo hiếm hoi trên mà có lẽ đã quá chán ngán cái cảnh ‘đảng và nhà nước ta’ phủ áo lên mặt cố che giấu một sự thật đã từ lâu rành rành trong dư luận xã hội.   Nhưng nhiều tờ báo đảng vẫn dối trá không biết liêm sỉ: “Đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng”, hay ‘Thắt chặt quan hệ đối tác chiến lược với Đức’…   Vậy ‘đối tác chiến lược’ ấy thực chất ra sao?   2 tháng sau khi ra thông báo phản đối Việt Nam về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Nhà nước Đức đã tuyên bố tạm ngừng vô thời hạn vào tháng 9 năm 2017. Tháng tiếp theo, Đức hoãn thêm một hiệp định về miễn thị thực cho cán bộ Việt Nam đi công tác ở Đức. Cùng lúc , hàng loạt chương trình viện trợ kinh tế - xã hội của Đức cho Việt Nam cũng bị đình hoãn.   Hơn một năm rưỡi qua, trong lúc phía Việt Nam vẫn chưa chịu trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức và ‘xin lỗi, cam kết không tái phạm’ về vụ này, quan hệ Đức - Việt đã hầu như đóng băng, khiến giá trị giao thương song phương giữa hai nước có phần sút giảm, đặc biệt là hàng Việt Nam khó khăn hơn khi vào thị trường Đức - thị trường mà nhờ đó hàng năm Việt Nam xuất siêu được đến 5 tỷ Euro.   Vào tháng 11 năm 2017, lần đầu tiên phía Đức bắn tiếng ‘phục hồi quan hệ đối tác chiến lược’, cùng lúc với quá trình đàm phán vụ Trịnh Xuân Thanh tưởng đâu đã có lối ra. Nhưng sau đó phía Việt Nam lại ngậm miệng và tất cả chìm vào bóng tối.    Còn vào lần này, tháng 2 năm 2019 - lần đầu tiên mà cấp bộ trưởng ngoại giao như Phạm Bình Minh công cán đến Đức kể từ vụ khủng hoảng Trịnh Xuân Thanh, những điều kiện cho triển vọng phục hồi đối tác chiến lược đã không còn dễ thở như năm 2017.   “Trong thời gian qua đã có những khác biệt có thể nhận thấy rõ rệt giữa Đức và Việt Nam – đặc biệt là vì vụ bắt cóc công dân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh ở Berlin. Hôm nay chúng tôi đã trao đổi với nhau về việc chúng tôi có thể điều chỉnh lại mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Đức như thế nào và làm sao có thực chất trở lại. Theo quan điểm của chúng tôi, một quan hệ đối tác chiến lược cũng bao gồm sự tôn trọng các giá trị chung, đặc biệt là tôn trọng nhân quyền phổ quát” - một thông cáo báo chí cho biết như thế sau cuộc họp của Ngoại trưởng Đức Heiko Maas với Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh tại Berlin.   Một từ ngữ đặc biệt mà Ngoại trưởng Đức Heiko Maas dùng là ‘điều chỉnh’ trong quan hệ đối tác chiến lược, nếu quan hệ này được phục hồi. Điều đó có nghĩa là sẽ có những thay đổi, thậm chí là thay đổi đáng kể về nội dung quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.   Hoàn toàn có thể hiểu rằng kể từ nay trở đi và chỉ sau khi Trịnh Xuân Thanh được trao trả lại cho Đức, quan hệ đối tác chiến lược mới được đàm phán lại, nhưng sẽ được bổ sung vào đó ít nhất nội dung nhân quyền.   Còn nếu chính quyền Việt Nam vẫn không chịu trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức và không có bất kỳ cải thiện nào về nhân quyền, cái gọi là ‘đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng’ trên mặt báo đảng Việt Nam sẽ biến thành một vết đen đúa không cách nào tẩy xóa được khi quan hệ đối tác chiến lược này sẽ bị người Đức thẳng tay hủy bỏ.  
......

Đức Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ đang bị đe dọa ‘áp giải’ về Thái Bình?

 Một nguồn tin cho biết, trong những ngày tới đây, nhân dịp có một phái đoàn chư tăng của chùa Vĩnh Nghiêm đến thăm Hòa thượng Thích Quảng Độ, sẽ có một vài nhân vật dân sự tháp tùng, và họ sẽ tìm mọi cách để ép đưa ngài Thích Quảng Độ về lại Thái Bình như một hình thức ‘an trí’ thời Pháp thuộc.   Kể từ khi Đức Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất rời quê nhà Thái Bình để về lại Sài Gòn vào cuối năm 2018, đến nay đã có ít nhất ba lần, vị Hòa thượng 91 tuổi này đã bị đe dọa ‘áp giải’ về lại Thái Bình. Chuẩn bị lần thứ tư đe dọa ‘áp giải’? Phật tử Diệu Thường kể rằng sau khi cô cháu gái của Đức Tăng thống đưa Ngài từ Thái Bình về lại Sài Gòn theo ý chỉ của Ngài, và chọn chùa Từ Hiếu ở quận 8 là nơi gửi trọn phần đời còn lại, thì cách đây hơn một tháng, ông Định – người cháu gọi Ngài theo thứ bậc dòng tộc là 'chú', đã đến tận chùa Từ Hiếu dự tính dùng vũ lực để ép Đức Tăng Thống về lại Thái Bình. Sau khi nghe Phật tử Diệu Thường thuật lại câu chuyện, Hòa thượng Thích Nguyên Lý, trụ trì chùa Từ Hiếu đã hỏi ý Đức Tăng Thống: “Ông Định, cháu của Ngài muốn đưa Ôn Ngài về lại Thái Bình, Ôn Ngài nghĩ sao?”. Ngài nói: “Tôi đã phải rời bỏ Thái Bình về đây vì ở đó tôi rất bất an, không sống nổi, giờ còn về lại đó làm gì? Đó là nhà của anh chị tôi năm xưa. Tôi là người tu thì phải ở chùa chứ sao lại ở nhà”. Đức Tăng thống ( X), Hòa thượng Thích Nguyên Lý (XX) cùng một số chư tăng chùa Từ Hiếu, mồng 1 Tết Kỷ Hợi. Vài hôm sau đó, trong lễ tang vị Hòa thượng trụ trì Thiền viện Thanh Minh, quận Phú Nhuận, Sài Gòn, ông Định cùng 'nhóm người nào đó' tìm mọi cách để buộc Đức Tăng Thống rời chùa Từ Hiếu, bằng việc cho người đến cung thỉnh Đức Tăng Thống về Thiền viện Thanh Minh để làm chủ các nghi thức tang lễ, gọi là Trưởng ban lễ tang. Sau đó nhân cớ này sẽ tiếp tục đưa ngài về lại Thái Bình. Hòa thượng Thích Nguyên Lý nói rằng đó là buổi trưa ngày 18-01-2019, khi thỉnh Ôn Ngài đi viếng Hòa thượng Thanh Minh, Ngài bảo: “Tôi đã vào thăm Hòa thượng Thanh Minh trong bệnh viện Pháp Việt rồi, giờ tôi yếu không muốn đến chỗ đông người, tình nghĩa giữa chúng tôi như vậy là đã trọn vẹn lắm rồi”. Hòa thượng Thích Nguyên Lý kể về lần đe dọa thứ ba: “Chiều 18-01-2019, vợ chồng ông Định đến chùa xin gặp Ôn Ngài để mời Ngài về nhà đám giỗ bà nội. Tôi có kể lại việc hôm 17-01-2019 (12 tháng chạp) có thưa với Ôn Ngài về ngày giỗ của thân mẫu Ôn. Ngài nói: “Mẹ tôi qua đời đã lâu rồi, vả lại sau 49 ngày là mẹ tôi đã về cảnh giới của bà; đến ngày giỗ mẹ, tôi chỉ tưởng niệm trong tâm. Thầy chỉ cần hoa quả xôi chè tưởng niệm ngày mất của mẹ tôi là đủ. Còn ở gia đình các cháu muốn làm gì thì cứ tùy ý mà làm, sao cho thanh tịnh và đơn giản, cốt là tưởng nhớ ân đức của tổ tiên ông bà…”. Tôi không cho ông Định gặp Ôn Ngài, vì các lý do sau: thứ nhứt, ngày 11-01-2019, khi ông tới chùa , trước mặt Hòa thượng Quảng Độ và tôi, ông đã nhào tới đòi đánh cô Diệu Thân là người chăm sóc Ôn Ngài, khi cô ấy không muốn rời khỏi phòng khách. Cô Thiên Hương phải ra tay ngăn cản. Thứ hai, ngày 16-01-2019, khi tôi đang làm từ thiện ở Phú Yên, ông Định đã dẫn đoàn 7 người đến chùa Từ Hiếu mượn cớ thỉnh Ôn Ngài về Thanh Minh Thiền Viện thắp nhang cho Hòa thượng Thanh Minh, nhưng thực ra là sau đó ông áp giải Ôn Ngài về lại miền Bắc. Âm mưu này đã được một Phật tử cho hay trước khi phái đoàn của ông Định đến chùa Từ Hiếu. Vì vậy các Thầy trong chùa đóng cửa phòng Ôn Ngài theo lệnh của tôi điện về, không cho phái đoàn tiếp xúc Ôn Ngài. Ông Định đã đập phá cửa phòng ngay cầu thang phòng Ngài ở làm cho Ôn Ngài hốt hoảng bất an suốt ngày hôm đó. Thứ ba, ông Định đã gọi điện cho em gái ở Thái Bình tuyên bố sẽ “chém chết cô Diệu Thân rồi chấp nhận vô tù”. Vì ba lý do trên, từ nay tôi không cho ông gặp Ôn Ngài. Sau đó, ông Định bước ra sân la lối và dọa sẽ kiện thầy Nguyên Lý ra tòa”. Một nguồn tin được xác nhận, vào tối ngày rằm tháng Giêng Kỷ Hợi, từ Thái Bình, ông Định đã quay trở lại Sài Gòn với toan tính sẽ cùng đoàn chư tăng chùa Vĩnh Nghiêm đến thỉnh an Đức Tăng thống trong vài ngày tới. Liệu đây sẽ là lần đe dọa thứ tư cho ‘áp giải’ Đức Tăng thống về lại Thái Bình? Hòa thượng Thích Quảng Độ: biểu tượng của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Với nhiều người dân miền Nam, Hòa thượng Thích Quảng Độ là biểu tượng của một nhà hoạt động vì quyền tự do tôn giáo. Sau tháng 4 năm 1975, Hòa thượng được chính quyền Hà Nội xem là một nhân vật bất đồng chính kiến cần phải cô lập. Ngài đã trải qua nhiều năm tháng tù đày, sách nhiễu. Ngài nhiều lần được chính giới quốc tế đề cử giải Nobel Hòa Bình vì đã dành cả cuộc đời tranh đấu bất bạo động cho công lý, hoà bình, nhân quyền, dân chủ. Hòa thượng Thích Quảng Độ được trao Giải tưởng niệm Thorolf Rafto vinh danh các nhà hoạt động nhân quyền năm 2006. Cùng năm, Ngài được nhận giải Can Đảm vì Dân Chủ do Phong Trào Dân Chủ Thế Giới trao tặng. Trước đó, năm 2003, Ngài từng lãnh giải thưởng nhân quyền quốc tế Homo Homini cùng với  Hòa thượng Thích Huyền Quang và linh mục Nguyễn Văn Lý. Năm 1995, Ngài bị bắt giam và bị phạt 5 năm tù và 5 năm quản chế với cáo buộc “phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”. Dưới áp lực của Hoa Kỳ, Ngài được trả tự do năm 1998 và đến tá túc tại Thanh Minh Thiền viện, quận Phú Nhuận, Sài Gòn, trong tình trạng bị quản thúc dài hạn. Giữa tháng chín năm ngoái, Ngài bị buộc phải hồi hương quê nhà Thái Bình, nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó, Ngài đã quay lại Sài Gòn. Hòa thượng Thích Quảng Độ từng là giảng sư đại học, một nhà văn, một dịch giả với một kho tác phẩm rất đáng kính nể: Kinh Mục Liên Sám Pháp; Kinh Đại Phương tiện Phật Báo Ân; Thoát vòng tục lụy, Sài Gòn 1962 (truyện dịch từ Hán văn của Tinh Vân); Dưới mái chùa hoang, Sài Gòn 1962 (truyện); Truyện cổ Phật giáo, Sài Gòn 1964; Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận; Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận; Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận; Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập); Phật Quang Đại Từ điển (9 tập); Chiến tranh và bất bạo động; Thơ trong tù (tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 Mậu Ngọ); Thơ lưu đày (tháng 2 năm Nhâm Tuất đến tháng 2 năm Nhâm Thân)…  
......

Đảng CSVN: Cái mụn nhọt cuối cùng!

Việt Tân Trước và sau Công Nguyên, gần như toàn cõi Châu Âu nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc La Mã, một đế quốc kéo dài cả chục thế kỷ và bao trùm khoảng một phần năm (1/5) diện tích thế giới. Sức mạnh quân sự, và ngay cả nền văn minh La Mã thời bấy giờ bao trùm cả một cõi. Gót giày của những đoàn quân La Mã, với thiên tài điều binh của các danh tướng sẵn sàng dẫm nát bất cứ một sự kháng cự nào. Một đế quốc hùng mạnh và vĩ đại như vậy, tưởng chừng như không gì có thể lay chuyển được, nhưng rồi cũng sụp đổ. Khoảng 6 thế kỷ sau, tại Á Châu, xuất hiện một đế quốc khác là Đế Quốc Mông Cổ, kéo dài hơn 1 thế kỷ (thứ 13 và 14) với diện tích rộng lớn gấp 4 lần Đế Quốc La Mã. Người Mông Cổ là dân du mục, cả đời ngồi trên lưng ngựa, và quân đội hùng mạnh, đánh đâu thắng đó khiến người đời gán cho họ câu nói nổi tiếng là “Quân Mông Cổ bách chiến bách thắng, vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó.” Một đế quốc vĩ đại và hùng mạnh như vậy, tưởng chừng như không gì có thể lay chuyển được, rồi cũng sụp đổ. Đầu thế kỷ 20 lại xuất hiện một “đế quốc” mới. Đó là “Đế Quốc Cộng Sản”! Bản chất của “đế quốc” này rất đặc biệt, khác xa với những đế quốc trước đó. Tuy không mang quân đi chinh phạt và chiếm đất nhưng thực tế lại chiếm được nhiều đất và làm chết nhiều người gấp cả trăm lần các đế quốc trước đó. Vũ khí của họ là sự tàn bạo kết hợp với dối trá, biến cả thế giới cộng sản thành một địa ngục trần gian. Nhưng, một lần nữa, đế quốc đỏ này tưởng chừng như có sức mạnh vĩnh cửu, nhưng lại mau chóng sụp đổ không đầy một thế kỷ sau đó. Nếu ngày xưa nước Việt Nam may mắn vì ở xa không nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc La Mã. Và nhất là ngày xưa, nhờ tiền nhân với các anh thư anh hùng tài giỏi yêu nước thương dân mà Việt Nam đã không nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc Mông Cổ. Thì Việt Nam ngày nay, với những hậu duệ vong bản đớn hèn, vừa tham lam vừa tàn bạo, bán nước buôn dân, đã đưa cả đất nước vào vòng thống trị của Đế Quốc Cộng Sản, đến nay đã gần 1 thế kỷ và làm hao tổn sinh mạng của nhiều triệu con dân vì mớ chủ nghiã hão huyền của nó. Nhắc lại 3 cái đế quốc ở trên là để nói đến cái điểm chung của chúng. Đó là lòng tham của con người, được nuôi dưỡng trong những bộ óc hoang tưởng tự đại, gặp lúc gặp thời sinh ra những đế quốc giết người, chỉ để phục vụ cho lòng tham, lợi ích của một số cá nhân và đi ngược lại quyền lợi của nhân loại với bao nhiêu tỉ con người. Theo số liệu của (Tổ Chức Tưởng Nhớ Nạn Nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản (Victims of Communism Memorial Foundation), thì đã có hơn 100 triệu (riêng Trung Cộng 65 triệu, Liên Xô 30 triệu) người chết vì bị Cộng Sản giết hại qua đấu tố, thanh trừng, giết trực tiếp, thủ tiêu, đói chết… không kể hàng bao nhiêu triệu người khác chết trong những cuộc chiến do chủ nghiã cộng sản gây ra. Thật khủng khiếp và kinh hoàng! Julius Caesar, nhà chính trị và quân sự đại tài và nổi tiếng nhất của Đế Quốc La Mã, sau một chiến thắng quân sự đã cao hứng để lại cho đời một phát ngôn nổi tiếng: “Veni, vidi, vici” có nghiã là “Tôi đến, tôi thấy, tôi chinh phục”. Cho dù câu nói của Caesar có chứng tỏ tài năng của Caesar cách mấy thì đó cũng chỉ là của Caesar, chẳng ích lợi gì cho ai. Khi toàn thể đất nước Việt Nam rơi vào vòng thống trị của cộng sản thì cũng đã có nhiều con tim yêu nước, ngay từ trong quốc nội cũng như từ khắp các nẻo đường thế giới hải ngoại cất bước lên đường. Họ “đã đến, đã thấy”. Họ không đến để chinh phục với tham vọng dựng nên một đế quốc. Họ lên đường đơn giản chỉ vì tấm lòng yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương. Họ đến với ước vọng đập tan đi cái đế quốc đang nghiền nát cuộc sống và cướp đi sinh mạng của hàng triệu triệu đồng bào thương yêu của họ. Rất nhiều người đã nằm xuống, nhiều người khác vẫn đang quằn quại trong lao tù khổ ải. Đó là những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, những Nguyễn Văn Lý, Thích Quảng Độ, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Thị Nga, Lê Đình Lượng, … và rất nhiều những anh hùng anh thư khác thời nay. Họ là những viên đá lót đường cho những người kế tiếp bước đi vì tương lai dân tộc đã rất gần. Noi gương những người đi trước, Châu Văn Khảm cũng đã lên đường để góp phần bé nhỏ của mình cho công cuộc chung. Anh cũng “đã đến”! Nhưng Châu Văn Khảm không cần phải đến tận nơi để “thấy” vì bản thân là một người tị nạn vượt thoát chế độ Anh thừa hiểu rõ thế nào là “độc lập”, thế nào là “tự do dân chủ”, và thế nào là “nhân quyền” của cộng sản. Anh đến là để hoà mình cùng những người con yêu khác của Tổ Quốc và để nói cho đồng bào của Anh, cho cả thế giới, và cho những người cộng sản biết rằng qua việc bắt giam cá nhân Anh, chính những người cộng sản là những người đang sợ và ngày tàn của chế độ đang được đếm từng ngày. Người ta vẫn nói là “cộng sản chỉ phá thì giỏi”! Xem ra rất đúng! Cộng sản không chỉ còn phá đất nước, phá đối phương, mà phá cả chính họ với hàng loạt những lỗi lầm chết người, khi liên tục tự bắn vào chân mình. Người Việt Nam đang sống những ngày tháng cuối cùng của cái đế quốc thối nát này và sắp chứng kiến sự sụp đổ toàn diện của nó tại Việt Nam. Lịch sử cho thấy bất cứ cường quyền nào cũng sụp đổ, khi dân tộc đó đứng dậy. Vì thế, ta có thể ví đảng CSVN cũng chỉ là cái mụn nhọt cuối cùng trên thân thể Việt Nam mà những người Việt Nam yêu nước đang nỗ lực cắt bỏ.
......

Dân biểu Úc Luke Donnellan: Ông Châu Văn Khảm và Ông Nguyễn Văn Viễn phải được trả tự do

Việt Tân Thêm một tiếng nói từ chính trường Úc đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do cho ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn. Dân Biểu Luke Donnellan là một chính trị gia thuộc Đảng Lao Động Tiểu Bang Victoria, Úc Châu, và là một gương mặt quen thuộc đối với cộng đồng người Việt tại Úc Châu nói chung. Ông luôn quan tâm về tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN và luôn lên tiếng can thiệp khi cần. Trước đây cá nhân Ông đã từng đến Việt Nam để tìm hiểu và tự trải nghiệm về tình trạng đàn áp dân chủ, bóp nghẹt tự do phát biểu của nhà cầm quyền CSVN. Nay, một lần nữa, Ông lại lên tiếng về việc ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn bị bắt giam phi pháp qua việc gửi thư cho Chủ Tịch Nước CHXHCN Việt Nam là ông Nguyễn Phú Trọng đòi Việt Nam phải trả tự do tức khắc cho hai nhà hoạt động nhân quyền này. Dưới đây, chúng tôi xin gửi đến quý vị bản dịch và phóng ảnh lá thư của Dân Biểu Luke Donnellan — Kính gởi: Chủ Tịch Nước Việt Nam Ông Nguyễn Phú Trọng 16 Đường Lê Hồng Phong Quận Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam Ngày 14/2/2019 Thưa Ông Nguyễn Phú Trọng V/V: MỘT ĐẢNG VIÊN ĐẢNG VIỆT TÂN TẠI ÚC CHÂU BỊ GIAM GIỮ Ở VIỆT NAM Tôi viết thư này liên quan đến ông Châu Văn Khảm, một công dân Úc Đại Lợi, và là một thành viên nổi tiếng của cộng đồng người Việt tại Sydney. Tôi được biết ông Châu Văn Khảm đã bị bắt giữ vào ngày 13/1/2019 khi tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Viễn, một công dân Việt Nam và thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ. Đến nay, đã hơn 2 tuần lễ, ông Khảm đã hoàn toàn bị mất liên lạc và không được tiếp xúc với Lãnh Sự Quán Úc cũng như ông Nguyễn Văn Viễn. Ông Châu Văn Khảm từ lâu đã là một nhà hoạt động dân chủ, làm việc cùng với xã hội dân sự tại Việt Nam cũng như vận động nhân quyền với chính giới tại Canberra. Gần đây, vào đầu tháng Giêng, qua ngả Cao Miên, Ông trở về Việt Nam trong một chuyến đi tìm hiểu về nhân quyền. Đảng Việt Tân và gia đình ông Châu Văn Khảm có liên lạc chặt chẽ với Bộ Ngoại Giao và các Dân Biểu Quốc Hội Úc, và tôi kêu gọi việc trả tự do tức khắc cho ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn. Trân trọng, Luke A Donnellan MP Dân Biểu vùng Narre Warren North Bộ Trưởng Bộ Bảo Vệ Trẻ Em Bộ Trưởng Bộ Khiếm Tật, Cao Niên & Người Chăm Sóc. — Phóng ảnh bức thư của DB Luke Donnellan:
......

Dân Biểu Liên Bang Úc Châu Anne Aly lên tiếng đòi tự do cho ông Châu Văn Khảm

Việt Tân   “Ông Châu Văn Khảm phải được trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện” Việc nhà cầm quyền CSVN vô cớ bắt giam ông Châu Văn Khảm, một công dân Úc gốc Việt, một nhà hoạt động dân chủ ôn hoà, tiếp tục dấy động sự bất bình của dư luận tại Úc Châu và cộng đồng người Việt khắp nơi. Tiếp tiếng nói của một số chính trị gia Úc, Tiến Sĩ Anne Aly, một dân biểu Quốc Hội Liên Bang Úc Châu, vừa gửi thư cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Úc là Thượng Nghị Sĩ Marise Payne để yêu cầu nước Úc can thiệp để bảo đảm sức khoẻ và sự an toàn của ông Khảm, và đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải lập tức trả tự do vô điều kiện cho ông Khảm. Tiến Sĩ Anne Aly là nữ dân biểu Quốc Hội Liên Bang Úc Châu đầu tiên theo Đạo Hồi. Bà cũng là một chuyên gia từng làm việc trong lãnh vực chống khủng bố. Dưới đây là thư của Tiến Sĩ Anne ALy. BBT Web Việt Tân * Tiến Sĩ Anne Aly Dân Biểu Liên Bang địa hạt Cowan Kính gửi Thượng Nghị Sĩ Marise Payne Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao PO Box 6100 Senate, Parliament CANBERRA ACT 2600 VỀ VIỆC: CÔNG DÂN ÚC BỊ GIAM GIỮ TẠI VIỆT NAM Tôi viết thư để bày tỏ mối quan tâm của tôi về tình hình của ông Châu, một công dân Úc hiện đang bị giam giữ tại Việt Nam. Tôi đã được một thành viên của Việt Tân thông báo rằng ông Châu − năm nay 69 tuổi − là một người đấu tranh cho dân chủ, đã bị bắt tại Sài Gòn vào ngày 13/1/2019 và các điều kiện giam giữ có thể đang ảnh hưởng đến sức khỏe của ông. Ông Châu đã bị bắt trong khi gặp một nhà hoạt động xã hội dân sự Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cáo buộc ông ta đã phạm tội và vì thế ông đã không được phép tiếp xúc với luật sư. Tôi cảm thông với những lo lắng của gia đình ông Châu về các vấn đề sức khỏe của ông trong thời gian bị giam giữ này. Chính vì thế, tôi mong bà − trong phạm vi có thể − quan tâm đến những việc như sau: − những hành động mà Bộ Ngoại giao và Thương mại (DFAT) đang thực hiện để bảo đảm việc trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho ông Châu. − những hành động mà DFAT đang thực hiện để bảo đảm sức khỏe và quyền lợi cho ông Châu trong thời gian bị giam giữ. − rộng hơn, những hành động mà chính phủ Úc đang thực hiện để bảo đảm sự an toàn và sức khỏe của tất cả công dân Úc tại Việt Nam. Tôi ước mong bà dành thời gian để xem xét vấn đề này và mong chờ phản hồi của Bộ Trưởng. Trân trọng Tiến Sĩ Anne Aly Dân Biểu Liên Bang 19/2/2019 * Lá thư của Dân Biểu Anne bằng Anh ngữ: Dr Anne Aly MP Federal Member for Cowan Shop 3 168 Wanneroo Road Madeley WA 6065 PO Box 219 Kingsway WA 6065 T: (08) 9409 4517 Senator the Hon Marise Payne Minister for Foreign Affairs PO Box 6100 Senate, Parliament House CANBERRA ACT 2600 Dear Minister RE: AUSTRALIAN CITIZEN DETAINED IN VIETNAM I am writing to express my concerns about the situation of Mr Chau Van Kham, an Australian citizen who is currently detained in Vietnam. I have been advised by members of Viet Tan that Mr Chau, a 69-year-old democracy advocate, was arrested in Saigon on 13 January 2019 and that the conditions of his detention may not adequately address his health concerns. I understand that Mr Chau was arrested while meeting with a Vietnamese civil society activist, and has subsequently been denied access to legal representation due to the nature of the crimes that the Vietnamese Government alleges he has committed. I further understand that Mr Chau’s family has concerns about whether his health issues can be adequately managed during this period of detention. With this in mind, I request that you advise, to the extent possible, as to: the actions that the Department of Foreign Affairs and Trade (DFAT) is taking to secure the immediate and unconditional release of Mr Chau; the actions that DFAT is taking to ensure Mr Chau’s health and wellbeing during his detention; and more broadly, the actions that the Australian Government is taking to ensure the safety and health of all Australian citizens in Vietnam. I appreciate your taking the time to consider this matter and look forward to your response. Yours sincerely Dr Anne Aly MP Federal Member for Cowan 19 FEB ZUS
......

Chính quyền Tp HCM phải trả lư hương về vị trí cũ

Nguyễn Tường Thụy - RFA Không phải ngẫu nhiên mà vào đúng ngày kỷ niệm 40 năm Trung Cộng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam, Quận 1 Tp HCM cho xe rác vây quanh tượng đài Trần Hưng Đạo ở phường Bến Nghé, sực mùi xú uế, dùng vật chắn, dây dợ vây quanh tượng đài, đặt biển báo công trường đang thi công để ngăn chặn người dân đến thắp hương. Sự phẫn nộ của dư luận đang dâng lên từng giờ thì táo tợn hơn, cùng ngày, quận này lại cho cẩu lư hương đi chỗ khác, đẩy sự giận dữ trong công chúng lên ngùn ngụt. Mọi lời giải thích từ nhà chức trách Quận 1 không có lý do nào thuyết phục, rằng đặt lư hương ở nơi công cộng không phù hợp với tâm linh của người Việt, rằng cẩu đi để đặt lư hương vào đúng vị trí thờ phụng. Ngay lập tức, cư dân mạng không khó để tìm ra rất nhiều tượng đài kèm lư hương đặt ở nhiều nơi. Đó là Tượng đài Trần Hưng Đạo ở Nha Trang, Quy Nhơn, Vũng Tàu, đảo Nam Yết, đảo Song Tử Tây, Hải Dương. Tượng Hồ Chí Minh kèm lư hương còn nhiều hơn, hầu như tỉnh thành nào cũng có. Có người chỉ nhoằng một cái đã kê ra ảnh một loạt tượng đài Hồ Chí Minh kèm lư hương ở Công an tỉnh Ninh Bình, ở quảng trường TP. Cam Ranh, TP Vũng Tàu, ở khuôn viên Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội, ở Kho 205 Bộ Quốc phòng... Xin hỏi lãnh đạo Tp HCM và Quận 1, phải chăng, những lư hương kèm theo các tượng đài này đều đặt không phù hợp và cần di dời? Phải chăng, lư hương trước những tượng đài như thế này đặt không đúng vị trí, cần phải di dời? Từ khi xây dựng năm 1967 đến nay, tượng đài Trần Hưng Đạo nói trên đã trở thành thiêng liêng, gắn với tâm linh người dân Sài Gòn, là biểu tượng cho tinh thần chống ngoại xâm của cha ông ta. Thế mà chỉ có vài người mà dám bàn nhau cẩu lư hương đi như thể mang đi một thứ đồ gốm. Đây là một sự hỗn láo, xấc xược với tiền nhân, không thể dung thứ. * Có thật là tượng đài Trần Hưng Đạo đặt không đúng chỗ nên phải di dời cho đúng vị trí? Trước ngày 17/2, Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng thông báo sẽ đến tượng đài Trần Hưng Đạo thắp hương tưởng niệm liệt sĩ đã hy sinh trong chiến đấu chống quân TQ xâm lược nhân kỷ niệm 40 năm chiến tranh Trung - Việt. Ngày 17/2, nhiều người trong Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng bị canh giữ không cho đến nơi tưởng niệm, một số người đến được tượng đài lập tức bị áp giải trở về. Nơi đây cũng là địa điểm mà các tổ chức xã hội dân sự thường đến thắp hương tưởng niệm liệt sĩ chống Trung Cộng hàng năm hoặc làm nơi hẹn mỗi khi kêu gọi biểu tình. Vì vậy, có thể khu vực tượng đài Trần Hưng Đạo có ấn tượng không thiện cảm đối với nhà cầm quyền. Việc dỡ bỏ lư hương phải chăng xuất phát từ việc ngăn chặn bọn “phản động” đến thắp hương cho liệt sĩ chống Tàu và cha ông đã từng đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, làm mếch lòng anh bạn vàng Trung Quốc? Phải chăng, do Trần Hưng Đạo là vị tướng tài ba lỗi lạc, đã từng đánh cho quân Nguyên không còn mảnh giáp, Thoát Hoan phải chui ống đồng tháo chạy, để lại nỗi nhục nhã muôn đời cho kẻ thù xâm lược? Luận điệu cẩu lư hương đi để đưa về đúng vị trí thờ phụng là không thể chấp nhận. Có phải hàng trăm lư hương đặt kèm tượng đài ở khắp nơi đều “không phù hợp” cần phải dỡ bỏ đưa về “đúng vị trí”? Có người còn lo rồi đây, các quận huyện khác học theo quận 1, các tỉnh thành khác học theo Tp HCM dẫn đến một cuộc càn quét lư hương ở các tượng đài nơi công cộng. Liên quan đến việc cẩu lư hương ở tượng đài Trần Hưng Đạo, một trang báo cho biết, “ngày 15-1-2019, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thị Thu đã có văn bản giao UBND quận 1 thực hiện việc tu sửa, tôn tạo công trình tượng đài Trần Hưng Đạo và tượng đài Thánh Gióng".  Hôm nay, sau 3 ngày văn bản này được thực thi, báo chí đồng loạt đưa tin bà Nguyễn Thị Thu từ trần. Dư luận đang xôn xao cho rằng 2 sự việc có liên quan đến nhau, là hậu quả của việc báng bổ thánh thần. Tôi không khẳng định trường hợp này nhưng tin rằng quả báo là có thật. Lựa chọn khôn ngoan nhất cho chính quyền quận 1 và Tp HCM là xin lỗi nhân dân, trả lư hương về vị trí cũ và thắp hương ăn năn trước Đức Thánh Trần./.
......

Cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979: Tội ác của đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc

Nguyễn Văn Đài – RFA Khi xem xét và nghiên cứu các tài liệu lịch sử thì cho chúng ta thấy rất rõ ràng là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc kể từ năm 1950 cho tới nay về bản chất cũng như thực chất là quan hệ giữa đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) và đảng Cộng sản Trung Quốc (CSTQ). Và cuộc xâm lược biên giới phía Bắc của Việt Nam vào năm 1979 thực chất là cuộc chiến tranh giữa đảng CSVN và đảng CSTQ, mà Nhân dân và bộ đội của hai nước vừa là công cụ và là nạn nhân của sự điên rồ của hai đảng CSVN và CSTQ. Lúc đó bộ máy tuyên truyền của CSVN gọi CSTQ là bọn bành trướng, bá quyền. Còn CSTQ gọi CSVN là bọn tiểu bá vì lúc đó CSVN tấn công cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ). Tại sao tôi lại nói đó là cuộc chiến tranh giữa CSVN và CSTQ? Cả Việt Nam và Trung Quốc đều bị cai trị bởi sự độc đoán và chuyên quyền của đảng CSVN và đảng CSTQ. Nhân dân hai nước bị hai đảng CS tước đoạt tất cả các quyền tự do và dân chủ. Nhân dân hai nước không có quyền để tham gia lựa chọn hay quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như thể chế chính trị, kinh tế, quan hệ đối nội, đối ngoại, chiến tranh hay hòa bình,… Đảng CSVN và đảng CSTQ quyết định và định đoạt mọi công việc, mọi chính sách trong nước cũng như quan hệ quốc tế theo những cuồng vọng điên rồ của họ mà họ chẳng cần quan tâm đến sự an nguy hay mong muốn của Nhân dân. Nhân dân chỉ có nghĩa vụ phục tùng và làm theo. Ai phản đối hay chống đối thì bị vu cho là “phản động” và bị bắt cầm tù. Thời điểm đó giữa CS Liên Xô và CS Trung Quốc đã trở mặt từ bạn thành thù được gần 20 năm. Hai đảng CSLX và CSTQ đang cạnh tranh ảnh hưởng gay gắt với nhau trên bình diện quốc tế. Khi đảng CSVN chọn CS Liên Xô làm bạn, và coi đảng CSTQ là kẻ thù. Đảng CSVN quyết định dùng quân đội tấn công CS Campuchia đã tạo nên một phần lý do dẫn tới việc đảng CSTQ dùng quân đội xâm lược Việt Nam. Và theo tuyên truyền của đảng CSTQ và cũng là thực chất của cuộc chiến đó là “đảng CSTQ dạy cho bọn tiểu bá CSVN một bài học.” Và hiển nhiên Nhân dân và đất nước Việt Nam trở thành nạn nhân bất đắc dĩ của bài học mà đảng CSTQ muốn dạy đảng CSVN. Hậu quả của cuộc chiến tranh ngắn ngủi đó là khoảng 30 ngàn dân thường và binh lính Việt Nam thiệt mạng, tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn, cơ sở hạ tầng của 6 tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam bị phá hủy hoàn toàn. Chưa kể trong hơn 10 năm CSVN chiếm đóng tại Campuchia, đã có khoảng 200 ngàn binh lính Việt Nam hy sinh tại đó, hàng trăm ngàn binh lính bị thương tật vĩnh viễn. Nền kinh tế và nguồn lực của Việt Nam bị vắt kiệt trong suốt thời kỳ đó. Nhân dân đói khổ lầm than. Trong các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, tất cả đều do mâu thuẫn giữa các đảng CSVN với đảng CSTQ. Rất nhiều các cựu quan chức ngoại giao của CSVN và các nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa ra nhận định rằng đất nước và Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể tránh được cả hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc nếu sau 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản VN lúc đó không ngông cuồng và ngạo mạn, đồng thời lựa chọn cho đất nước và dân tộc Việt Nam một thể chế chính trị dân chủ và có mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp với phương Tây. Nhưng bản chất của CSVN là vậy, dùng bạo lực để cướp chính quyền bằng mọi giá, khi đã cướp được chính quyền thì tước đoạt mọi quyền lực của Nhân dân và áp đặt sự cai trị chuyên chế, tiêu diệt và triệt tiêu mọi thành phần đối kháng trong xã hội. Để kết thúc bài viết này, một lần nữa tôi khẳng định rằng cuộc xâm lược của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam năm 1979 thực chất là cuộc chiến của đảng CSVN và đảng CSTQ. Trong đó quân đội và Nhân dân hai nước vừa là công cụ vừa là nạn nhân của cuộc chiến tranh đó. Những mất mát, hy sinh của quân đội và Nhân dân hai nước là do tội ác của đảng Cộng sản VN và đảng CSTQ gây ra./.  
......

Việt Nam “ghim” Đài Á Châu Tự Do

Libby Liu - The Wall Street Journal Việt Nam đang thắt chặt sự kiểm soát những người bất đồng chính kiến và nhắm vào các ký giả. Khi tới Hà Nội vào tuần tới để họp thượng đỉnh với Lãnh Tụ Bắc Hàn, Tổng Thống Trump cần nêu lên với gia chủ về số phận của hai ký giả người Việt đang cộng tác với Đài Á Châu Tự Do (RFA), là một cơ quan truyền thông được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, do tôi điều hành. Blogger nổi tiếng Trương Duy Nhất đã mất tích từ hơn 3 tuần nay kể từ ngày ông ta rời nhà ở Đà Nẵng, Việt Nam, đào thoát sang tị nạn tại nước láng giềng Thái Lan. Chúng tôi quan ngại rằng ông Nhất đã bị bắt cóc mang về Việt Nam để giam giữ và tra hỏi. Ông Nhất, 55 tuổi, đã từng bị nhà nước chú ý. Ông bị bắt vào năm 2013 và đã ở tù 2 năm vì những bài viết chỉ trích các lãnh đạo Đảng Cộng Sản cầm quyền. Khi được thả vào năm 2015 Ông bắt đầu cộng tác với Đài Á Châu Tự Do, phát thanh và phổ biến qua 9 ngôn ngữ đến 6 quốc gia Á Châu nơi thiếu tự do phát biểu. Theo những nhà hoạt động dân chủ Việt Nam thì ông Nhất đã lo ngại là bị các nhân viên an ninh Việt Nam theo dõi vì nghi ngờ ông Nhất nắm giữ thông tin bất lợi đối với Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc. Nguồn tin cho biết ông Nhất đã xin tị nạn vào ngày 25/1 với Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tại Bangkok. Tuy nhiên, chính phủ Thái Lan nói họ không có hồ sơ liên quan đến việc ông Nhất vào Thái Lan, và ông Nhất biệt tăm kể từ ngày 26/1. “Không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam giữ im lặng liên quan đến trường hợp này. Việt Nam đang giam giữ nhiều tù nhân chính trị”, ông Nguyễn Kim Bình thuộc Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam tại California nói. “Một trong những tù nhân là ông Nguyễn Văn Hoá thuộc Đài Á Châu Tự Do.” Ông Hoá, năm nay 23 tuổi, đã phá vỡ bức màn bưng bít thông tin vào năm 2016 khi tường trình về những cuộc biểu tình liên quan đến việc xả thải chất độc ô nhiễm. Ông Hoá bị bắt vào Tháng 1, 2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống phá nhà nước” và bị tuyên án 7 năm tù giam mà hiện ông đang thụ án. Trong một lá thư ông Hoá đã tiết lộ với gia đình là Ông bị đánh đập liên tục trong tù và bị ép thú nhận những điều không có thật mà nhà cầm quyền Việt Nam dùng để kết tội một nhà hoạt động môi trường khác. Ông Hoá đã rút lại lời khai tại một phiên toà vào Tháng 8 vừa qua, việc làm có xác suất khiến ông phải chịu những đợt tra tấn mới. Một thông điệp mạnh mẽ từ ông Trump tại Hà Nội về số phận ngặt nghèo của các ký giả Đài Á Châu Tự Do kể trên sẽ là tiếng vang ở cả trong và ngoài Việt Nam. Đó là một thông điệp cần được nghe; chính phủ các quốc gia trong vùng đang sử dụng những phương thức trấn áp để hăm dọa chúng tôi. Đài Á Châu Tự Do đã phải đóng cửa Văn Phòng tại Cao Miên vào năm 2017 sau một đợt trấn áp giới truyền thông độc lập. Hai phóng viên của chúng tôi đã bị vu cáo tội gián điệp và đã bị tù giam 9 tháng với bản án vẫn còn treo trên đầu. Ở Trung Quốc, hàng mấy chục thân nhân gần của các phóng viên của Đài Á Châu Tự Do Dịch Vụ Duy Ngô Nhĩ hiện đang bị giam giữ trong các trại tại Xinjiang (Tân Cương), nơi chúng tôi đã làm phóng sự tường trình về tình trạng đàn áp người thiểu số Hồi Giáo. Trong bối cảnh u ám này, đây là cơ hội để ông Trump cho những quốc gia độc tài ở Châu Á biết là Hoa Kỳ sẽ bảo vệ quyền tự do truyền thông và bênh vực quyền tự do phát biểu. Bà Libby Liu là Chủ Tịch của Đài Á Châu Tự Do Nguyên bản Anh ngữ đăng trên The Wall Street Journal ngày 19/2/2019: https://www.wsj.com/articles/vietnam-takes-aim-at-radio-free-asia-11550619921  
......

Sổ tay thường dân Tưởng Năng Tiến – Đi & về

Việt Nam nuôi dưỡng các bạn thanh niên như người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn. Đã đến lúc phải đi ra chinh phục thế giới, mang thế giới về Việt Nam. (T.T. Nguyễn Xuân Phúc) Chiều về trên xứ lạ Cười nụ cười Anglais Buồn qua hơi thuốc Thái Thèm một phin cà phê Chiều về trên xứ lạ Xe ngược xuôi trăm đường Trăm ngàn khuôn mặt lạ Mong một người đồng hương Tôi viết những câu thơ trên khi đến thủ đô Bangkok lần đầu, vào một chiều hè, năm 1980. Mấy mươi năm sau tôi trở lại nơi này với nụ cười Anglais cố hữu nhưng thuốc lá Thái đã biến mất khỏi thị trường, và “người đồng hương” thì xuất hiện (hơi nhiều) khắp mọi nơi. Theo Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Lan (Học Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á – The Institute of Southeast Asian Studies) có hơn năm trăm ngàn lao động Việt Nam ở nước ngoài, trong số này khoảng 50 ngàn người đang làm việc tại Thái Lan. Phần lớn đều “làm chui,” và được gọi một cách lịch sự là những công nhân không có giấy tờ – undocumented workers. Họ lầm lũi đẩy những chiếc xe bán nước dừa, hay bán trái cây trên đường phố. Họ tất bật quét dọn, lau chùi, bưng bê trong những quán ăn bình dân chật chội và nóng bức. Họ nhễ nhại mồ hôi giữa những công trường bề bộn. Tất cả đều rất cần cù, nhẫn nại, chắt chiu và (vô cùng) chịu thương, chịu khó. Tuy thế, gần như không ai kiếm được quá năm trăm Mỹ Kim mỗi tháng nhưng ai cũng dành dụm phân nửa (hoặc hơn) số tiền nhỏ nhoi này để gửi về quê cho gia đình, hay chòm xóm, ở một làng quê nào đó thuộc Nghệ An hay Hà Tĩnh. Bên thủ đô Vientiane cũng thế, theo lời của thông tín viên (RFA) Anh Vũ: “Đất nước Lào nhỏ bé chỉ với 7 triệu dân, song lại là nơi có rất đông người Việt Nam tìm đến để cư trú và làm việc trong điều kiện là lao động bất hợp pháp… Hiện nay số người lao động VN sang Lào làm việc có khoảng chừng 40 ngàn. Họ thường làm các nghề trong lĩnh vực xây dựng, sản xuất chế biến đồ gỗ, bán hàng rong, làm thuê, sửa xe …” Nhóm Phóng Viên Tường Trình Từ Việt Nam cho biết thêm: “Hầu hết những người trốn sang đất Lào để làm thuê đang độ tuổi lao động hoặc đang tuổi học sinh phổ thông trung học, nhiều em đã bỏ ngang việc học để tìm đường dây trốn sang Lào làm thuê… Hầu hết những người trốn sang đất Lào để làm thuê đang độ tuổi lao động hoặc đang tuổi học sinh phổ thông trung học, nhiều em đã bỏ ngang việc học để tìm đường dây trốn sang Lào làm thuê.” Tuần rồi, tôi tình cờ gặp gỡ một người đồng hương tại đền thờ Phap Tha Luan. Em mời mua kem nhưng khi thấy mặt tôi ngớ ra vì không hiểu tiếng Lào nên liền gặn hỏi: – Chú người Việt à? – Yes! Tuy tôi bất giác trả lời một cách ngớ ngẩn bằng tiếng Anh nhưng vẫn được đáp nhận bằng một nụ cười tươi vui, hớn hở. Thái độ thân thiện của em cũng khiến tôi cảm thấy ấm lòng, và nhẹ nhõm. Sau đôi ba câu thăm hỏi thân tình, sợ em bận bán hàng, tôi ngỏ ý mời em ăn tối để có dịp trò chuyện nhiều hơn. Phap Tha Luan, Vientiane 2019 Chúng tôi hẹn nhau ở quán ăn Việt Nam, Bê Thui Sài Gòn. Em đến rất đúng giờ cùng vợ với một bé trai. Quê hai em ở Thủy Nguyên, Hải Phòng. Chỉ sau một chuyến “tham quan” nước Lào là vợ chồng quyết định từ bỏ xứ Việt luôn. – Ở bên này thoải mái, và dễ chịu hơn nhiều chú ạ. Vì con chưa đến tuổi đến trường, cháu gái na thằng bé theo khi đi quanh quẩn cắt móng chân và móng tay dạo mỗi ngày trong Khu Chợ Sáng (Morning Market) trên đường Lane Xang. Cũng kiếm đủ tiền ăn và tiền trọ. Còn lợi tức nhờ bán kem thì dành dụm với dự tính sẽ thuê được một nơi tươm tất để mở tiệm làm móng tại nhà. Ước vọng gần nhất là cả nhà sẽ đi du lịch Myanmar một chuyến. Xa xôi hơn là giấc mơ lớn, khi có điều kiện, sẽ trở về quê hương để làm việc từ thiện ở những bản làng miền núi. Khi tôi hỏi sao không về luôn thì cả hai đều lắc đầu quầy quậy, với một nụ cười buồn. Tôi chưa bao giờ có cơ hội đặt chân đến Hải Phòng, chỉ được biết vài nhân vật nổi tiếng ở nơi đây vì những nỗi gian truân của họ với chế độ hiện hành: Vũ Cao Quận, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Thị Hoài Thanh, Lê Chí Quang, Phạm Thanh Nghiên, Lê Trí Tuệ, Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Qúi … Tuy thế, tôi tin là mình hiểu tâm cảm và quyết định của hai em vì chính tôi cũng rời bỏ đất nước khi tóc hãy còn xanh và chưa bao giờ trở lại. Chiều hôm sau tôi được mời cơm tại nhà, với thực đơn đặt sẵn: đậu phụ rán mỡ hành, rau muống luộc dầm cà chua, chấm với nước mắm chanh và ớt. Đó là những món thức ăn mà theo tôi là … ngon tuyệt cú mèo, nếu có chút rượu đi kèm. Hai thanh niên trong nhóm công nhân đến từ Thừa Thiên Huế làm phụ hồ tại công trường Đại học ChămPasack, bên Lào. Ảnh & chú thích lấy từ RFA Dù đã sống qua nhiều thứ trại ̣(trại lính, trại tù, trại tị nạn …) tôi vẫn cảm thấy hơi ái ngại khi bước vào nơi cư trú của đôi vợ chồng trẻ măng này. Cứ y như cảnh sống trong thơ của Lưu Quang Vũ: Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi Đêm nằm mơ, em quờ tay là chạm phải thùng gạo Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình Hai em giúp cho tôi hiểu và thêm tin tưởng rằng hạnh phúc hay đau khổ của chúng ta tuỳ thuộc rất nhiều vào nhận thức, và nhận thức luôn luôn là nhận thức về cái tương đối. Sinh sống như thế mà cả hai cứ suýt xoa mãi là mình may mắn, may là tìm được kế sinh nhai nơi xứ lạ và công việc lại không quá nặng nhọc. Mà sự thực thì đúng vậy nếu so với nhiều người đồng cảnh khác. Tính hồn nhiên và đôn hậu của hai em khiến tôi thốt nhớ đến tâm sự của một nhà văn, cũng từ Thành Phố Cảng: “Thế hệ nào cũng có người đáng yêu, tài năng, tâm huyết. Sự cảm thông giữa con người, giữa các thế hệ là rất lớn, là tuyệt đối. Sự cảm thông ấy vượt qua mọi khoảng cách địa lý, khoảng cách thời gian. Càng ngày tôi càng thấm thía bài học ấy. Nó làm tôi an tâm hơn khi tuổi già đang đến, khi tôi nghĩ đến lúc mình vĩnh biệt cõi đời này. Người xấu rất nhiều nhưng người tốt cũng rất nhiều. Không ai có thể tiêu diệt hết những người tốt trên đời. (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương, Fall Church, VA: 2014). Tôi tận tình chia sẻ với niềm tin lạc quan của tác giả đoạn văn thượng dẫn, và không khỏi phiền lòng khi vừa nghe kỳ vọng (hão huyền) của một vị lãnh đạo tối cao của đất nước (T.T. Nguyễn Xuân Phúc) như sau: “Việt Nam nuôi dưỡng các bạn thanh niên như người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn. Đã đến lúc phải đi ra chinh phục thế giới, mang thế giới về Việt Nam.” Ảnh internet Có người mẹ nào đủ nhẫn tâm đến độ đẩy cả bầy con cái vào con đường tha phương cầu thực, và còn khốn nạn đến nỗi mong mỏi chúng mang được cả “thế giới về” nhà. Tôi không tin rằng ông Phúc hoàn toàn không biết gì về hiện trạng thê thảm hiện nay của tuổi trẻ VN. Ông ấy chỉ tự dối mình, và dối người cho qua khỏi nhiệm kỳ thôi. Tưởng Năng Tiến Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh
......

Buồn ngủ gặp chiếu manh

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân Giờ này năm ngoái, màn trao đổi qua lại bằng những “lời xỉ vả” hiếm có giữa hai lãnh đạo Mỹ và Bắc Hàn chung quanh các vụ thử hoả tiễn mang đầu đạn hạt nhân liên tiếp của Bình Nhưỡng, hoà bình thế giới có vẻ đang đứng trên bờ vực thẳm. Nhưng cuối cùng ngày 12/6/2018, Tổng thống Trump và Chủ tịch Kim Jong-un cũng được dàn xếp gặp nhau tay bắt mặt mừng ở Singapore để gọi là “xúc tiến hoà bình”. Cuộc họp được cả thế giới mong đợi, tưởng chừng hoà bình sắp ló dạng trên bán đảo Triều Tiên sau nhiều thập niên căng thẳng, dù cuộc chiến tranh Triều Tiên đã chấm dứt bằng một thoả hiệp ngưng bắn tạm thời từ năm 1953. Thế nhưng cuộc gặp gỡ của Trump và Kim ở Singapore đã không mang lại những kết quả như người ta trông chờ. Ngoài những lời trao đổi, hứa hẹn hào nhoáng, dư luận đánh giá đó chỉ là những màn kịch xã giao quốc tế mà phía sau còn ẩn chứa nhiều bất đồng sâu sắc. Khả năng biến những lời hứa hẹn giữa hai bên thành hiện thực tốt đẹp thật ra chỉ đáng khuyên con số không. Đầu năm 2019, tức gần 8 tháng trôi qua, sau những chuyến đi con thoi dàn xếp giữa Hoa Thịnh Đốn và Bình Nhưỡng của các viên chức cao cấp đôi bên, Tổng thống Trump loan báo cuộc gặp thượng đỉnh lần hai với lãnh tụ Kim Jong-un sẽ diễn ra tại Hà Nội, Việt Nam trong 2 ngày 27 và 28/2, thay vì Đà Nẵng như lời đồn đại trước đó. Tự dưng Hà Nội lại trở nên nổi tiếng. Việt Nam trở thành địa điểm tổ chức cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa hai nhân vật có vẻ như đang nắm chìa khoá của nền hoà bình thế giới. Hãy còn quá sớm để nói đến một kết quả nào đó mang tính thực chất, nhưng ít ra trên bề nổi sự kiện hai phía chấp nhận ngồi lại lần thứ hai là một tin tức đáng quan tâm. Trước hết, việc chọn Việt Nam để gặp nhau là điều dư luận chung có thể hiểu. Vì lẽ ngoài Singapore, ông Kim Chính Ân chỉ có thể đến Hà Nội hoặc Bắc Kinh là nơi tương đối an toàn cho tính mạng mình. Còn những địa điểm khác như Bangkok, Manila, Kuala Lumpur hay Tapei của các quốc gia Á Châu, không có thủ đô nào an toàn cho lãnh tụ Bắc Hàn. Mà nếu chọn Nga hay các quốc gia Âu Châu thì lại không tiện cho ông Trump và có thể ông Kim cũng không muốn cho lắm. Vì thế, Hà Nội là địa điểm dù không muốn hai người cũng phải đến, nếu không muốn ghé Tân Gia Ba một lần nữa. Nhưng từ lúc đầu, họ đã có dự tính gặp nhau ở Đà Nẵng vì đây là nơi thuận tiện nhất bàn chuyện riêng tư giữa Mỹ và Bắc Hàn. Đà Nẵng đã từng là địa điểm tổ chức Hội nghị APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương) tương đối suôn sẻ vào cuối năm 2017 mà ông Trump đã đến tham dự cùng với 20 lãnh đạo các quốc gia thành viên. Ngoài ra trong thâm tâm, Trump cũng nghĩ rằng tới Đà Nẵng lần này mình khỏi phải bận tâm chào hỏi xã giao các lãnh đạo Hà Nội. Nhưng cuối cùng, chính ông Kim lại muốn cuộc họp diễn ra tại Hà Nội, để có thể sau đó làm một chuyến công du Việt Nam. Không để cơ hội thượng đỉnh lần hai bất thành, ông Trump phải chìu theo ý Kim để thúc đẩy tiến trình hoà bình như mong muốn của cả hai bên. Đó là lý do cắt nghĩa vì sao nói Hà Nội đang buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Bởi vì ngay sau khi có tin Hà Nội được chọn làm địa điểm cho cuộc họp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã vội vàng đăng đàn chỉ thị thành phố Hà Nội phải giúp tổ chức hội nghị thành công lớn. Tức là Hà Nội phải chịu chi ra nhiều triệu đô-la trong công tác tổ chức, vẽ vời hoa lá cành để có được một dịp chia chác lẫn nhau mà đáng lý ra Đà Nẵng được hưởng. Hà Nội phải vừa có tiếng vừa có miếng, mà phải là miếng ngon. Trong khi đó, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cũng vội nhào qua Bắc Triều Tiên gọi là thăm hữu nghị theo lời mời, cũng như với lý do để phối hợp chuẩn bị cho chuyến công du của lãnh tụ Kim. Trước đó Phạm Bình Minh còn khoe khoang lố bịch là để giúp Triều Tiên chuyển hóa nền kinh tế theo gương Việt Nam. Đúng là ngành ngoại giao cũng “tranh thủ” trước Ban Tuyên giáo, lợi dụng cơ hội để tuyên truyền đánh bóng mình. Chìm đắm trong nợ nần, kinh tế quốc doanh lụn bại trầm trọng, hoạt động công quyền thiếu hiệu quả, tình trạng nhân quyền bị chà đạp, nạn tham nhũng nằm ngay trong cơ quan chống tham nhũng thì Việt Nam còn mong gì để giúp Bắc Hàn chuyển hoá kinh tế? Hầu như dư luận đều có chung một cảm nhận là cuộc hội đàm tay đôi này rồi cũng chẳng đi tới đâu. Bởi người ta thấy ước mơ của Hoa Kỳ và Bắc Hàn vẫn còn là điều mơ ước của riêng hai nhà lãnh đạo, chứ không phải là một kế hoạch được tiến hành sau những bàn thảo hoặc có ủng hộ từ các quốc gia liên hệ trong vùng. Phi hạt nhân hoá bán đảo Triều Tiên khó trở thành hiện thực khi Tập Cận Bình vẫn còn đang ấp ủ “Giấc Mộng Trung Hoa”, vẫn muốn qua mặt Mỹ để lãnh đạo thế giới ngay trong thế kỷ 21 này. Vậy làm sao Tập có thể để Bắc Hàn tiến tới với Trump. Mặt khác, đối với Bắc Hàn, tham vọng hạt nhân của họ đã kéo dài từ đời ông đến đời cha mà mãi đến nay đời cháu Kim Chính Ân mới đạt được ước mơ. Với biết bao công sức, tiền của bỏ ra, Bắc Hàn không dễ gì từ bỏ tham vọng của mình khi đã bắt đầu đặt chân được vào ngôi nhà của những quốc gia sở hữu vũ khí nguyên tử. Nếu không đạt được những điều kiện thuận lợi và có sự bảo đảm minh bạch sự sống còn cốt lõi của đất nước từ Mỹ và Tây Phương nói chung, việc giải trừ vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn sẽ còn treo lâu dài giữa những bàn hội nghị vô bổ. Nói cách khác, thời gian này chưa phải là lúc giải quyết vấn đề an ninh của bán đảo Triều Tiên hay nói rộng ra là hoà bình thế giới. Con chim hoà bình vẫn đang đau nặng khi Hoa Kỳ và Nga trước sau rút khỏi Hiệp ước về vũ khí nguyên tử tầm trung (INF Treaty – Intermediate-Range Nuclear Forces), trong khi ở Trung Đông Iran tiếp tục thủ đắc và thí nghiệm hoả tiễn loại mới nhất. Đây là lúc mà cuộc xung đột Mỹ – Trung phải được ngã giá cho xong trên mọi lãnh vực của tham vọng bành trướng trong thế kỷ này của Bắc Kinh. Đó có thể coi như những mặt trận đối đầu gay cấn từ chính trị, lãnh thổ, kinh tế đến thương mại, văn hoá. Tuy nhiên mong muốn đạt được một Hiệp định thương mại song phương với Bắc kinh vẫn là mục tiêu trước mắt của Hoa Kỳ. Trong trường hợp này, trên bàn cờ thế giới các nhà ngoại giao mới có thể tính tiếp cho một nền hoà bình lâu dài tại bán đảo Triều Tiên. Bởi lẽ đó, bất cứ một thượng đỉnh nào khác trong tương lai, bắt buộc phải có mặt Nhật Bản, Nam Hàn, Nga, Trung Cộng đã từng tham dự các hội nghị giải quyết tình hình bán đảo Triều Tiên mà không chỉ Mỹ nói chuyện tay đôi với Bắc Hàn.    
......

NHỮNG KẺ VÔ LOÀI

Luân Lê Dân tộc bị động long mạch huyết mạch hay sao mà đúng ngày tưởng niệm cuộc chiến vệ quốc bảo vệ đất nước khỏi kẻ xâm lược bá quyền Trung Quốc năm 1979 thì có một số kẻ lại đi di chuyển Đỉnh lư hương dưới chân tượng đài Đức thánh Trần Hưng Đạo tại TP.HCM vào trưa nay? Chúng làm vậy để ngăn chặn những người dân đến thắp hương tưởng niệm các chiến sỹ hy sinh mà không được nhắc đến suốt 40 năm qua trong sử sách. Vậy chúng lấy quyền gì để ngăn trở người dân bày tỏ lòng yêu nước cũng như là quyền thiêng liêng của mỗi con người? Trên chương trình truyền hình VTV phát trên toàn quốc thì không dám gọi tên kẻ địch trong cuộc chiến hào hùng này là ai. Có lịch sử nào là lịch sử chiến tranh mà không có kẻ địch để chiến đấu hay không? Đối phương bên kia biên giới và biên giới phía Bắc là ngôn từ kiểu gì? Không chỉ là hèn mạt, mà là đắc tội với tiền nhân đã đổ xương máu xuống trong lịch sử. Cuộc chiến phải có tên gọi, phải có kẻ thù, như thế mới đúng tính chất cuộc chiến chính nghĩa bảo vệ tổ quốc. Không nói lên đúng tiếng lòng của lịch sử và của nhân dân. Đó chính là kiểu yêu nước theo định hướng và được sự cho phép là như thế đấy. Phụ lòng nhân dân và mang tội với những người chiến đấu bảo vệ tổ quốc và làm sai lạc đi bản chất cuộc chiến vệ quốc của dân tộc gần nửa thế kỷ trước. Chúng định lên kế hoạch cho lòng yêu nước và chúng có toàn quyền sắp xếp tinh thần yêu nước và lịch sử theo ý chúng? Chúng sẵn sàng làm nhục tiền nhân và phỉ báng vào những hình ảnh anh hùng dân tộc, những chiến công vệ quốc vĩ đại trong lịch sử. Những kẻ vô giáo dục và mất gốc, không có giá trị và nhận thức của một con người bình thường nữa. Vua Hùng dựng nước còn chúng bảo vệ tổ quốc bằng cung cách tệ mạt như vậy hay sao? Đến lúc cần, nhân dân mới là người lên đường chiến đấu, chứ không phải cái đám đi phá hoại những giá trị thiêng liêng và cao quý của dân tộc kia. Vẫn còn né tránh, hèn nhược với lịch sử cũng chính là cách để người khác đánh giá về phẩm cách một quốc gia. Khi mà họ sẵn sàng im lặng đến cả gần nửa thế kỷ và khi được phép mở miệng để nhắc tới thì vẫn một mực tránh né gọi tên bản chất của sự kiện. Truyền hình quốc gia mà thể hiện một sự bạc nhược không thể nào tưởng tượng nổi. Họ dường như không phải người của dân tộc này, đất nước này và được sống nhờ vào xương máu của những người đã hy sinh? Đức thánh Trần Hưng Đạo sẽ đau đớn và tủi nhục với đám con cháu mất dạy đang lấy đi Đỉnh lư hương ngay dưới chân mình mà là nơi người dân vẫn thường xuyên thắp hương tưởng niệm các sự kiện lịch sử suốt bao năm qua.  
......

NGHE HƠI NỒI CHÕ.

Pham Nguyen Truong Xem mấy người chửi bới Trần Lệ Xuân sau khi VTV giới thiệu áo dài mà bà ta mặc (hay là cách tân, từ lâu mình đã không xem VTV) làm mình nhớ lại câu chyện với AN ngay sau khi cụ Võ Nguyên Giáp chết. AN: Anh đánh giá các nhà lãnh đạo VN như thế nào? Trả lời: Tôi có ở gần họ đâu mà biết. Nghe người khác nói/viết về họ rồi phán thì chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Tôi không thể đánh giá họ một cách trực tiếp, tôi chỉ có thể đánh giá một cách gián tiếp. AN: Thế nào là đánh giá trực tiếp, thế nào là gián tiếp? Trả lời: Trực tiếp là, ví dụ, một người học cùng lớp với tôi, tôi có thể nói anh có giỏi không, có thông minh hay không. Còn người học lớp khác thì tôi không thể đánh giá được, nhận xét của tôi về người đó chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Các nhà lãnh đạo thì cũng thế. Muốn đánh giá người lãnh đạo thì tôi phải là phó của ông ta. Tôi có thông tin như hoặc gần như ông ta. Sau đó, dựa vào số phương án hành động của tôi và ông ta, bao nhiêu phương án giống nhau, bao nhiêu phương án khác nhau, trong những phương án khác nhau này, bao nhiêu phương án của tôi đúng, bao nhiêu phương án của ông ta đúng. Nếu ông ta đúng nhiều hơn tôi thì tôi cho là ông ta giỏi. Còn nói theo sách báo thì cũng chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Nhưng tôi có thể đánh giá một cách gián tiếp. AN: Đánh giá gián tiếp là thề nào? Trả lời: Ví dụ, so sánh các nhà lãnh đạo của ta với lãnh đạo Thái Lan hay Malaysia. Người của họ sang ta học nhiều hơn hay người của họ sang ta học nhiều hơn; người của họ sang ta cạo mủ cao su và làm điếm nhiều hơn hay người của ta sang nước họ cạo mủ cao su và làm điếm nhiều hơn. Mình cho rằng đa số những người hiện nay nói về đức hạnh của Trần Lệ Xuân cũng là nghe hơi nồi chõ mà thôi. Hơn nữa, khi VTV giới thiệu mà ấy mặc áo dài thì ta chỉ nên khen chê cái áo và người mặc có hợp hay không. Áo dài đẹp hay không đẹp, người mặc đẹp hay không đẹp liên quan gì tới đức hạnh hay chính trị?  
......

KỲ TÍCH

Đỗ Văn Ngà Một lần, tên cướp đột nhập vào gia đình nọ. Để giam vợ chồng chủ này ấy, tên cướp nghĩ ra cách thế này, hắn ta vẽ một vòng tròn và bảo "cả 2 ngươi đứng yên trong vòng tròn này, đứa nào bước ra tao bắn bể sọ". Cả 2 mặt xanh lét và gật đầu tỏ ra vâng lời.   Nhờ giam được 2 vợ chồng trong vòng tròn mà tên trộm rảnh tay khoắng sạch tài sản rồi bỏ đi, để lại 2 vợ chồng nọ đứng im trong cái "nhà tù kiên cố" ấy. Hồi sau khi thấy an toàn, cô vợ òa khóc vì tiếc của, còn anh chồng thì cười khúc khích. Cô vợ ngạc nhiên hỏi "sao anh cười?". Anh ta đáp "Thằng cướp ngu, mải lấy vàng, lúc đó anh thò chân ra ngoài mà nó không biết, hì hì"   Vâng, đấy là mẩu chuyện vui, tôi cũng nghe từ nhỏ, chỉ là truyền miệng, nhưng nó có ý nghĩa của nó. Mẩu chuyện dân gian tuy ngắn nhưng bài học của nó ẩn chứa trong đó cũng tựa như AQ Chính Truyện của Lỗ Tấn. Cả 2 đều nói lên ý nghĩa là sự tự hài lòng với những chuyện cỏn con, thậm chí là những chuyện tự suy diễn một cách ngược ngạo. Đó, tính cách đó người ta gọi là Phép Thắng Lợi Tinh Thần AQ. Họ lấy theo tên nhân vật chính trong truyện của nhà văn Lỗ Tấn.   Cái đáng sợ nhất của một dân tộc là sự tự hài lòng với một vấn đề cỏn con để an ủi mình. Chính phép thắng lợi kiểu này nó đã làm cho một dân tộc tự gò mình chịu sống ngột ngạt trong cái khuôn khổ chật hẹp của kẻ cai trị. Chính Lỗ Tấn đã nhìn thấy dân tộc Trung Hoa của ông cũng mang cái tinh thần nguy hiểm ấy, nên ông đã viết tác phẩm AQ Chính Truyện để cảnh tỉnh người dân nước ông rằng, đó là một tính cách của một dân tộc nô lệ.  Có thằng cướp nào mà không thích cướp những nạn nhận AQ? Có kẻ cai trị nào mà không muốn kẻ bị trị như AQ?   Nay đã thế kỷ 21, mà dân tộc Việt Nam cũng mang cái tinh thần AQ quái quỷ ấy. Chuyện nhỏ nhặt thì tung hô vạn tuế, chuyện to lớn thì mù đui câm điếc. Như ta biết, việc gọi cái tên VNCH thay cho "Ngụy Quân Ngụy Quyền" rất đơn giản, thế mà phải mất đến 43 năm CS mới gọi khe khẽ. Thế nhưng không ít những người tên tuổi lên báo mừng rỡ ra mặt và xem đó là kỳ tích. Còn vấn đề phi dân chủ, vấn đề đưa đất nước vào vòng nô lệ của Trung Cộng thì không dám đá động. Chỉ thế thôi là hài lòng rồi, là vui rồi, là kỳ tích rồi.   Hay như mấy ngày vừa qua, Cộng Sản bật đen xanh cho báo chí nói về cuộc xâm lược của quân Trung Cộng cách đây 40 năm có gì là to tác nhỉ? Đó là điều cỏn con thì có gì là kì tích. Chính quyền Cộng Sản họ đã trao một huân chương chống quân Tàu cứu nước bao giờ chưa? Họ đã cho nhân dân công khai tưởng nhiệm các anh hùng vị quốc vong thân vào năm đó chưa? Vấn đề biển đảo, vấn đề trao đổi thương mai bất công giữa Việt Nam - Trung Hoa thì không dám đá động.   Muốn thay đổi, trong lòng dân tộc phải có sự mãnh liệt, phải có sự sáng suốt. Một xã hội cứ thấy lợi ích nhỏ thì hài lòng và quên những thiệt lớn thì dân tộc đó vẫn chưa sáng suốt, chưa đủ minh mẫn để tự quyết cho số phận của mình. Thế mới đau!      
......

40 NĂM CUỘC CHIẾN VIỆT – TRUNG

......

40 năm sau cuộc chiến 1979, VN đang trở thành gì của Trung quốc?

Việt Nam là thuộc địa Trung Quốc? Không phải. Là chư hầu? Không đúng. Là quốc gia vệ tinh? Cũng sai. Vậy Việt Nam đang là gì với Trung Quốc? Khó có thể định nghĩa chính xác tính chất mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc kể từ sau khi hai nước bang giao bình thường sau cuộc chiến biên giới 1979. Có điều ai cũng thấy Việt Nam đang bị nhuộm đỏ trước hiểm họa “ngoại xâm mềm” bằng con đường kinh tế, từ Trung Quốc.   Từng ngày từng giờ, cơn sóng thủy triều đỏ Trung Quốc lan rộng và phủ kín Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau (chính xác là 54/63 tỉnh-thành). Theo Viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, nếu như trong 9 năm kể từ khi bình thường hóa (tháng 11-1991 đến tháng 12-1999), Trung Quốc có 76 dự án với tổng số vốn đầu tư là 120 triệu USD, thì 10 năm sau, đã có 657 dự án với tổng số vốn hơn 2,6 tỷ USD. Riêng về FDI (đầu tư nước ngoài trực tiếp), từ cuối năm 1991 đến nay, FDI Trung Quốc đổ vào Việt Nam liên tục tăng và tăng mạnh 10 năm trở lại đây, từ 572,5 triệu USD năm 2007 lên 2,17 tỷ USD năm 2017, trở thành nước thứ tư trong số các quốc gia có vốn FDI đăng ký tại Việt Nam (tạp chí Tài Chính 1-1-2019).   Trung Quốc hiện diện khắp nơi, đến mức gần như ngành nghề nào cũng có mặt, từ kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp ở Hải Phòng; kinh doanh bất động sản ở Tiền Giang; sản xuất giày ở Đồng Nai; luyện-cán thép ở Thái Bình; sản xuất tinh bột wolfram ở Quảng Ninh; linh kiện điện tử ở Đà Nẵng; ván ép ở Long An; đến gia công in phun, đồ họa, sản phẩm quảng cáo, dịch vụ quảng cáo ở Sài Gòn; và đặc biệt công nghiệp điện than… Trung Quốc còn thâm nhập dữ dội vào thị trường bất động sản. Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang… chỗ nào cũng có mặt giới đầu tư bất động sản Trung Quốc, đặc biệt các dự án chung cư thuộc khu “đất vàng”.   Đầu tư và du lịch giúp kinh tế tăng trưởng mà sao phải lo? Bởi vì, không như giới đầu tư các nước khác, sự có mặt Trung Quốc kéo theo nhiều điều không bình thường… Điều rất không bình thường, so với quan hệ kinh tế với các nước khác, là cách thức quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hãy đọc một đoạn trong bài viết “Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm qua” của tiến sĩ Nguyễn Phương Hoa (người hồi tháng 6-2018 đã được bổ nhiệm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc kiêm Phó Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc):   “Cùng với tăng cường xây dựng niềm tin chính trị, lãnh đạo hai nước luôn chú trọng đến xây dựng mối quan hệ kinh tế hiệu quả, thiết thực và đang được cụ thể hóa bằng những kế hoạch phát triển gắn kết hai nền kinh tế như “Hai hành lang, một vành đai”, “một trục hai cánh”, “hợp tác Vịnh Bắc bộ mở rộng”; hướng đến cân bằng trong cán cân thương mại; tăng đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam...”. Cách viết này, của một “chuyên gia” thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, cho thấy một điều: quan hệ kinh tế Việt Nam với Trung Quốc còn được “hòa tan” vào quan hệ chính trị, liên quan đến vấn đề thể chế và chính sách đối ngoại “đặc biệt”. Nó giúp phần nào giải thích được những bất thường nói ở trên.   Cần nhắc lại, cách đây chỉ vài tháng, vào tháng 9-2018, khi tiếp Triệu Lạc Tế - Ủy viên Bộ Chính trị-Trưởng ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng quan hệ Việt-Trung “đang ở thời điểm tốt đẹp nhất trong lịch sử”! Trước đó, tháng 1-2017, trong chuyến công du Trung Quốc sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, Nguyễn Phú Trọng cùng Tập Cận Bình cũng đã ra thông cáo chung, xác định hai quốc gia “đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung”; khẳng định quan điểm hai bên là “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” trên tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.   Bắc Kinh có là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” của Việt Nam? Chắc chắn là không. Hà Nội đang trở thành gì đối với Trung Quốc? Dựa vào các phát biểu và tuyên bố chung chỉ có thể định tính được phần nào mối quan hệ hai nước, nhưng dựa vào những con số cụ thể thì có thể thấy rõ, Việt Nam đang lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc. 40 năm sau khi thâm nhập biên giới Việt Nam bằng quân sự, Trung Quốc đang đổ bộ kín mít đất nước Việt Nam bằng những đoàn quân kinh tế hùng hậu. 40 năm sau khi Việt Nam đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, Việt Nam vẫn rất khó khăn tấn công sâu vào lãnh thổ nước này bằng con đường kinh thương. Việt Nam liên tục nhập siêu từ Trung Quốc. Con số mới nhất (11 tháng đầu năm 2018) là 21,6 tỷ USD (xuất sang Trung Quốc 38,1 tỷ USD trong khi nhập lại 59,7 tỷ USD).   Năm 1979, Hà Nội đã có thể dạy lại Bắc Kinh bài học mà Trung Quốc muốn dạy cho Việt Nam, nhưng sau 40 năm, Hà Nội dường như chẳng học được thêm gì cả, ngoài việc trở thành “đồng chí tốt” của kẻ thù. Sau 40 năm, Việt Nam chẳng là gì so với sức mạnh kinh tế lẫn quân sự mà Trung Quốc đang sở hữu. Biển Đông đang bị gặm nhấm lần mòn. Chủ quyền biên cương đang bị đe dọa. Cả “chủ quyền” kinh tế cũng bị thao túng. Thật chẳng tự hào gì khi Việt Nam đang là con nợ của Bắc Kinh. Trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (3-9-2018), tác giả Vũ Quang Việt cho biết, ước tính nợ Việt Nam đối với Trung Quốc, tính đến năm 2018, (có thể) là hơn 6 tỷ USD. Bắc Kinh đang nắm Hà Nội trong lòng bàn tay? Riêng với cái nhìn của người dân Việt Nam, có vẻ như Hà Nội chẳng nắm được gì của Bắc Kinh cả! Với thực trạng này, ước vọng thoát Trung của người dân Việt xem ra là rất xa vời. Điều này có đáng để nghĩ và lo lắng cho số phận quốc gia?  
......

NHÌN LẠI TRẬN CHIẾN BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979

Nếu như ông Lê Duẩn không đưa quân vào xứ Chùa Tháp, lật đổ chính quyền Pol Pot và đưa Heng Samrin và Hun Sen lên thay thế vào đầu năm 1979, thì liệu ông Đặng Tiểu Bình có đưa 600 ngàn quân tổng tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 hay không? Nếu như sau khi kết thúc cuộc chiến vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, lãnh đạo CSVN tiếp tục chính sách đu dây giữa Liên Xô và Trung Cộng, và không có tham vọng khống chế hai đàn em Lào và Campuchia để thành lập Liên Bang Đông Dương, thì liệu Trung Cộng có lấy lý cớ “khiêu khích vũ trang và thù nghịch” tại các khu vực biên giới, để xâm lược Việt Nam vào năm 1979 hay không? Lịch sử không có chữ nếu. Tuy nhiên, khi đặt vấn đề nói trên người ta phải hiểu rằng cuộc chiến tranh biên giới xảy ra cách nay 40 năm, chỉ là hệ quả của những xung đột quyền lực giữa lãnh đạo CSVN và Trung Cộng vào lúc đó. Dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa chỉ là nạn nhân của những tham vọng tranh giành quyền lực của hai tập đoàn lãnh đạo này mà thôi. Thật vậy, nhìn lại bối cảnh lịch sử của CSVN và Trung Cộng trong giai đoạn từ 1975 đến 1980 người ta thấy rõ ý đồ tranh bá của lãnh đạo hai phía. Về phía Trung Cộng, Đặng Tiểu Bình vừa mới củng cố được quyền lực của mình, sau nhiều năm bị đấu tố và mất hết chức vụ trong thời kỳ cách mạng văn hóa (1966-1976). Sau Hội nghị lần thứ 3 Trung ương đảng khóa XI vào cuối năm 1978, họ Đặng đã trở thành nhân vật có quyền lực lớn nhất ở trong đảng. Dù chỉ giữ bí thư quân ủy Trung ương, nhưng các chủ trương và tiếng nói của họ Đặng ảnh hưởng rất lớn lên các chính sách của Trung Cộng vào lúc đó. Chủ trương của Đặng là bắt tay với Mỹ để hiện đại hóa Trung Quốc và nuôi Khờ Me Đỏ để kiềm chân CSVN. Sau khi Liên Xô và CSVN ký hiệp ước hữu nghị, hợp tác và gia nhập vào Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) của các nước xã hội chủ nghĩa thì Trung Cộng cắt toàn bộ viện trợ cho CSVN từ năm 1978. Cuối năm 1978, Liên Xô ký thỏa thuận với CSVN về việc xây dựng và khai thác căn cứ tại Cam Ranh trong 25 năm. Liên Xô lúc đó gọi CSVN là “tiền đồn đáng tin cậy của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á”, càng khiến cho họ Đặng tin rằng, CSVN đang cùng với Liên Xô đe dọa an ninh Trung Quốc. Khi CSVN bắt đầu đưa quân sang chiếm Campuchia, đuổi lực lượng Khờ Me Đỏ ra khỏi Nam Vang vào đầu năm 1979, đã như giọt nước tràn ly, khiến cho họ Đặng không còn có thể chịu đựng được nữa nên đã phát động cuộc chiến gọi là “trừng phạt” tiểu bá CSVN. Về phía CSVN, “say men” chiến thắng miền Nam vào tháng 4 năm 1975, lãnh đạo CSVN đã ngạo mạn tự coi mình “đứng trên đỉnh cao trí tuệ của loài người”. Đường lối đối ngoại của CSVN vào lúc đó là “tăng cường mối quan hệ mật thiết với các nước XHCN anh em, thực hiện nghĩa vụ vô sản quốc tế, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ.” Đường lối này cho thấy là CSVN không còn đu dây nữa mà ngã hẳn vào Liên Xô. Dựa vào sự hậu thuẫn này, CSVN bắt đầu tiến hành tham vọng xây dựng Liên Bang Đông Dương bằng cách khống chế Lào và Campuchia. Điều trớ trêu là Khờ Me Đỏ đã được Bắc Kinh nuôi từ sau năm 1975, nên không những không quy phục mà còn khiêu khích CSVN bằng cách mở những cuộc tấn công ở biên giới phía Nam trong các năm 1977, 1978. Từ cuối năm 1978, CSVN đã tiến hành hai nỗ lực: 1/ Thành lập Hội đồng cách mạng Campuchia do Heng Samrin và Hun Sen lãnh đạo để chuẩn bị tiếp thu Nam Vang khi Khờ Me Đỏ bỏ chạy; 2/ Huy động một lực lượng hùng hậu tấn công lực lượng Khờ Me Đỏ ngay trên xứ Chùa Tháp. Ngày 9/1/1979, lực lượng CSVN đã chiếm được thủ đô Nam Vang và đưa Heng Samrin xuất hiện với tư thế là chủ tịch hội đồng cách mạng. Ngày 18/1 Heng Samrin đã thay mặt hội đồng này ký một hiệp ước với CSVN, hợp thức hóa sự hiện diện của 180 ngàn quân đội CSVN do Tướng Lê Đức Anh chỉ huy trên đất Campuchia. Ngay sau đó, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, một hội nghị của Ngoại trưởng ba nước Việt – Miên – Lào đã diễn ra tại Thủ đô Vạn Tượng để hình thành Liên Minh Hữu Nghị Ba Nước Việt – Miên – Lào. Những diễn tiến lịch sử nói trên cho thấy, cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979 là cuộc đọ sức giữa “tiểu bá” CSVN đang muốn hình thành Liên Minh Đông Dương, để bành trướng ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á và một bên là “đại bá” Trung Cộng đang bắt tay với Mỹ để bành trướng ảnh hưởng ra khu vực Á Châu sau những năm bị rối loạn nội bộ. CSVN đã gọi cuộc chiến tranh này là cuộc chiến xâm lược và Trung Cộng là kẻ thù số một của Việt Nam vào lúc đó. Bắc Kinh thì biện minh rằng việc xâm nhập của họ vào khu vực phía Bắc Việt Nam là cuộc hành quân tự vệ (sic) được tiến hành bởi binh lính phòng vệ biên giới để dạy cho Việt Nam một bài học. Sự mâu thuẫn trong cách gọi tên cuộc chiến đã bộc lộ rõ thêm ý đồ tranh bá của hai nhân vật Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình. Đó là nhằm thỏa mãn tham vọng quyền lực cá nhân hơn là vì quyền lợi tối thượng của đất nước và dân tộc Việt Nam hay Trung Hoa. Sau gần 10 năm xung đột từ cuộc chiến phi lý này (1979 – 1989), và trận tấn công biên giới đẫm máu được mệnh danh là “27 ngày địa ngục” khiến hàng trăm ngàn binh sĩ của cả hai phía bị hy sinh, cả CSVN và Trung Cộng đều phải tìm cách đối thoại, dẫn đến Hội Nghị Thành Đô vào tháng 9 năm 1990. Nhưng điều thắc mắc của dư luận là sau nhiều năm cấm đề cập đến cuộc chiến biên giới và những sự tàn ác của quân xâm lược Trung Cộng từ sau Hội nghị Thành Đô nói trên, bỗng dưng năm nay, Ban Tuyên Giáo CSVN lại cho phép báo đài tập trung viết về cuộc chiến biên giới và tô đậm hình ảnh xâm lược của Trung Cộng qua cuộc chiến này. Đây là ý đồ gian manh của phe nhóm Nguyễn Phú Trọng nhằm trút hết trách nhiệm cuộc chiến biên giới cho Đặng Tiểu Bình và nhóm lãnh đạo cũ, để cho thấy sự “không can dự” của phe nhóm Tập Cận Bình mà Nguyễn Phú Trọng đang dựa vào. Nói cách khác, việc cho báo chí kể tội xâm lược nhân 40 năm cuộc chiến biên giới là một âm mưu tuyên truyền vừa ra vẻ ta đây yêu nước và chống hành vi xâm lược của nhóm Đặng Tiểu Bình, vừa biện minh cho thái độ thân thiện của Trọng với Tập Cận Bình mà không bị mang tiếng là thân với kẻ thù. Nhưng trò tiểu xảo này đã không qua mặt đàn anh Trung Cộng. Mới đây, Ban Tuyên Giáo CSVN đã phải cấp tốc ra chỉ thị mới yêu cầu các báo là khi đề cập đến cuộc chiến biên giới, không nêu đích danh Đặng Tiểu Bình và nhất là không dùng chữ xâm lược đối với Trung Cộng. Tóm lại, khi nói về cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979 mà không nói đến tham vọng tranh bá của Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình, trên bàn cờ Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung, sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc là chưa đúng với bản chất của cuộc chiến này. Những kiến thức lịch sử cũng giúp chúng ta soi sáng các hệ lụy và mưu mô bán nước của tập đoàn CSVN từ sau Hội nghị Thành Đô, để hiểu là tại sao chế độ chọn thế “bám Trung” thay vì “thoát Trung.” Những ký kết trong Hội nghị Thành Đô là gì khiến chế độ Hà Nội phải vướng mãi trong vòng Kim Cô của tập đoàn Bắc Kinh, dù đó là Đặng Tiểu Bình hay Tập Cận Bình?  
......

BUÔN THẦN BÁN THÁNH ĐÚNG QUY TRÌNH.

Luan Le Quang Phải công nhận những người cs thông minh và biết tính toán thật. Tuy là vô thần nhưng rất biết xây chỗ để lợi dụng Thần Thánh kinh doanh, móc túi thiên hạ, móc túi lẫn nhau rất đúng quy trình. Với mô hình xây dựng quần thể khép kín gồm có ngôi chùa lớn nhất thế giới đi với những nhà hàng, khách sạn, khu biệt thự, sân golf và casino ở Hà Nam và một số tỉnh khác ở phía Bắc, thì đất nước này cơ bản đã xây dựng thành công thiên đường XHCN ở khu vực đó con mẹ nó rồi. Với siêu dự án tâm xờ linh tiêu tốn hàng ngàn héc ta đất của quốc gia trải dài tại các vị trí tuyệt đẹp ở các tỉnh phía Bắc mà công ty Xây Dựng Xuân Trường được Chính Phủ ưu ái cấp trong suốt 13 năm qua, và với lượng người móc tiền mua vé để được vào lễ Phật tại các ngôi chùa này lên đến hơn 200.000 người trong mấy ngày Tết năm nay, có thể khẳng định rằng đảng đã xây dựng thành công con người XHCN ở miền Bắc. Những con người sẵn sàng chen lấn, chà đạp lên nhau, thậm chí chấp nhận mẻ đầu vêu trán để giành cho được Ấn đền Trần hoặc sẵn sàng tốn tiền để được các sư quốc doanh cúng sao giải hạn. Với tâm thức tin vào sự lo lót, cúng bái các đấng Thánh Thần thì cuộc sống sẽ sung túc, sẽ thăng quan tiến chức nhanh như gió để tha hồ đục khoét vơ vét của công, thì rõ ràng những kẻ vô thần đã dẫn dắt những người dân u mê ở đây tìm ra đấng cứu thế của cuộc đời họ. Tuy nhiên, có lẽ thành công nhất của những lãnh đạo thiên tài cs là ở chỗ họ đã biến những đồng tiền không rõ nguồn gốc của họ thành những giá trị vật chất mang tính tâm linh mà bất kể những ai đến đây cũng phải cúi đầu dâng lễ và không quên móc hầu bao của mình để thành kính tự nguyện cống nộp. Nói điều này ra là bởi vì một ông chủ dự án Nguyễn Văn Trường, sinh năm 1963 tại Hoa Lư, Ninh Bình, tiền ở đâu mà lắm thế. Chỗ nào cũng được CP ưu ái cấp hàng ngàn héc ta đất. Vị trí nào cũng bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng khu quần thể tâm xờ linh? Vậy là hiểu rồi ha? Vừa có nguồn thu, vừa có chỗ để các quan đến đây xả stress. Vậy thì thành công ngoài sức mong đợi chứ còn gì nữa phải không ạ? Kể nghe chơi nha? Đứa khi cạp đất ăn xong thì vừa no vừa mệt. Thằng thì suốt ngày ngồi đếm tiền mãi lộ qua các trạm BOT riết mỏi tay...vậy là có chỗ để xả stress ngay. Đó là vô casino đánh bạc. Đánh bạc xui, thua tiền nhiều quá thì vô thuê khách sạn gần đó xả xui. Xả xui xong bước vô Chùa kế bên đốt nhang cắm đầu chổng đít khấn Phật xin cho con ăn bạc. Khấn vái xong lại bước vô casino chiến tiếp. Úi trời! Ngôi Chùa vĩ đại nhất thế giới này thì chỉ có bọn quan chức cs và bọn đại gia sân sau lắm tiền nhiều của vào chơi chứ dân đen thì tiền  đâu mà có cửa vào? Mà nếu có vào thì cũng chỉ nhân dịp Lễ, Tết thôi. Còn khách nước ngoài đi du lịch tâm linh thì nhìn thấy cái khu Chùa kiểu này thì chắc là họ không vào rồi, trừ đám khách chịu ăn chơi. Như vậy thì chỉ có bọn tư bản đỏ nhà sản có chỗ tha hồ rửa tiền rồi móc túi lẫn nhau thôi. Chơi chán, nếu thằng đại gia Khựa hay nước ngoài nào ưng cái bụng, thì bán. Ba cái dự án này thì chỉ cần giá trị đất thôi đã lời to rồi kể chi đến giá trị trên đất nhễ? Khiếp thặc! Tại hạ Cóc Tía xin bái phục! Cóc Tía https://news.zing.vn/chu-dau-tu-ngoi-chua-lon-nhat-the-gioi…  
......

Kỷ niệm 17-2: “Nhà cầm quyền nghiêng về chiêu trò hơn là thực tâm với đất nước”.

Năm 2019 có một sự kiện rất đặc biệt, là Hà Nội đã cho phép báo chí, dư luận được lên tiếng tố cáo cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc năm 1979. Những chồng tư liệu, tin tức về cuộc chiến này tưởng chừng bị xếp xó trong mối hữu nghị quái gỡ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, nay lại được tung ra để cho dân chúng nhẹ lòng vào thời điểm kỷ niệm 40 của cuộc chiến. Nhưng điều đó, không có nghĩa là mọi thứ dễ dãi. Trước một tuần ngày 17-2-2019, tất cả các phương án chặn người, gác nhà… của giới an ninh toàn quốc đã được bàn thảo và lên lịch. Có nghĩa là sẽ không có ai được tự do xuống đường tuần hành kỷ niệm ngày này, hoặc sẽ có danh sách dài những người bị giữ chặt để không tham gia được được một cuộc họp mặt, biểu tình nào đó được tổ chức trong vòng kiểm soát. Nhân 40 năm sự kiện đau thương và bi hùng này, nhà tranh đấu và cựu chiến binh Trần Bang đã bày tỏ vài suy nghĩ của ông.   Năm nay, có không ít người bất ngờ trước việc ban Tuyên giáo Trung Ương bật đèn xanh, cho phép nói và chỉ trích Trung Cộng về cuộc chiến tranh biên giới 17-2-1979, anh nghĩ sao về điều này? Nhà cầm quyền làm gì thì cũng thường có lý do ẩn sau bề mặt. Lần này, tôi nghĩ có vài nguyên nhân. Kỷ niệm 40 năm cuộc chiến Việt Trung là một dịp quan trọng khó có thể làm ngơ, mà vốn trước đây giới Xã hội dân sự đã lên tiếng rất nhiều, đòi hỏi lịch sử phải công bằng trong ghi nhận trong cuộc chiến phía Bắc lẫn biên giới Tây Nam. Chống Polpot ở Tây Nam, nhìn rõ sự kiện, cũng là chống Trung Quốc thôi. Sau khi yểm trợ cho Khmer Đỏ thất bại thì Trung Quốc mới mở thêm mặt trận chiến tranh phía Bắc Việt Nam. Nhân 40 năm kỷ niệm thì lại càng không thể bịt miệng nhân dân được nữa. Nhìn về hướng tích cực thì có không ít người tham gia cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược vẫn còn nằm trong bộ máy chính quyền, thậm chí là có chức quyền. Họ cũng không thể nào chịu được việc mình bị bỏ quên, mà chỉ nghe suốt ngày tuyên truyền về các cuộc chiến chống Mỹ, chống Pháp. Họ cũng muốn được nói đến sự kiện xâm lược này. Một điều nữa, tôi nghĩ rất gần với thời sự, là trong cuộc gặp giữa tổng thống Mỹ và chủ tịch Kim Jong Un tại Việt Nam, việc phát lên một thông điệp không gần gũi với Trung Quốc là một cách Hà Nội giới thiệu mình với Mỹ, trong bối cảnh biển Đông ngày càng căng thẳng. Cơ hội này cũng là một cách để giới bình luận có thể suy đoán về một bước đi ngoại giao mới của Việt Nam, trong việc giữ gìn ổn định trên biển Đông.   Nhưng đây có là một cách lợi dụng sức mạnh dư luận quần chúng của Hà Nội, vốn là có tiếng giỏi cách thao túng dư luận xã hội và lợi dụng truyền thông cho những mục đích khác của mình? Tôi cũng nghĩ vậy. Bởi vì, đảng Cộng sản Việt Nam có tiếng là ma lanh. Họ tận dụng mọi sức mạnh để bảo vệ sức mạnh độc tài của họ. Đây cũng là cách mà họ lợi dụng quần chúng, lợi dụng báo chí. Ai cũng biết báo chí trong nước hiện nay chỉ là cái loa của nhà cầm quyền. Việc chủ trương cho phép báo chí nói mạnh và nói nhiều về sự kiện chiến tranh biên giới 1979 cũng chỉ là một cách xoa dịu sự tức giận của quần chúng vốn đã kìm nén lâu nay về việc nhà cầm quyền luôn đàn áp các tiếng nói đòi phải minh bạch lịch sử, minh bạch kẻ thù đã xâm lược với các thế hệ người Việt. Vừa lấy lòng được quần chúng, vừa nói được ý mình muốn trong bối cảnh căng thẳng trong quan hệ Việt Trung, thì họ sẽ làm ngay. Mà lâu nay, mọi thứ vẫn vậy chứ không có gì mới mẻ.   Có người nói rằng, cho phép nói thật về lịch sử, về giặc Trung Quốc xâm lược không quan trọng bằng phải có chương trình trả tự do cho những người yêu nước, xuống đường chống trung Quốc và bị bỏ tù, thậm chí là phải có cách nói tử tế và chính danh về cuộc chiến 1979 trong sách giáo khoa lịch sử? Tôi vẫn thấy câu chuyện này còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Lúc này, tôi nghĩ nhà cầm quyền đang nghiêng về chiêu trò nhiều hơn là chuyện thực tâm với đất nước, con người. Tôi tin là trong bộ máy cầm quyền, vẫn có những người nghĩ đến chuyện phải trả tự do cho những ai chống Trung Quốc xâm lược mà lại bị cầm tù quá oan tức như hiện nay. Nhưng đây là một câu chuyện dài và phức tạp vì lâu nay các vụ án xử người yêu nước, nhà cầm quyền Cộng sản không bao giờ có đủ dũng khí để gọi tên án chống Trung Quốc, mà chỉ xử về tội tụ tập rối, kiểu gắp lửa bỏ tay người, mánh khóe chụp mũ, đổi tội danh. Trong số 20 người đi tù ở Đồng Nai vừa rồi, vì đã xuống đường biểu tình chống luật đặc khu giao đất 99 năm cho Trung Cộng, có bao giờ quan tòa hay Viện kiểm sát dám gọi tên là tội biểu tình chống Trung Quốc đâu? Còn trong sách giáo khoa, họ cũng đã nhỏ giọt thông tin, nhưng chắc là sẽ còn lâu lắm mới có đủ những lượng thông tin tương ứng và xác đáng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979.   Là một sinh viên được động viên, trở thành quân nhân trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. Anh và những người đã đổ máu cho đất nước nghĩ gì về thái độ và hành động của nhà cầm quyền Cộng sản hôm nay? Tôi hay ai đã trãi qua một phần của cuộc chiến 1979 đều thấy đó là một điều bất công. Dù có cho báo chí nói nhiều, nói mạnh một lần như lúc này cũng là bất công với hiện thực. Nhà cầm quyền chỉ vì quyền lãnh đạo mà đi theo một loại chủ thuyết, ôm chân giặc Tàu. Tôi đã viết rằng số người hy sinh ở chiến trường Campuchia – họ vẫn nói úp mở là chiến trường K – và những số người hy sinh ở chiến trường phía Bắc, kể cả dân binh và những người trực chiến, cộng lại còn lớn hơn cả hơn số người chết vì chống Pháp hay chống Mỹ. Đó là tôi không tính chuyện nội chiến Bắc Nam. Thì với con số người chết như vậy mà chỉ hô hào chống Mỹ, chống Pháp rồi để cho có ít dòng – lại mới chỉ đưa vào vài năm gần đây – trong sách giáo khoa lịch sử là điều không thể chấp nhận được. Tôi luôn luôn phản đối và đòi sự công bằng về lịch sử, về những mất mát của dân tộc Việt Nam.  
......

Có một cuộc xâm lược khác

Mặc Lâm Kỷ niệm 40 năm ngày chiến tranh biên giới xảy ra năm nay báo chí được tháo cái rọ bút để lên tiếng về cuộc chiến mà từ nhiều năm trước câu chuyện tang thương này gần như biến mất trên báo chí truyền thông nhà nước. Hơn nữa nó còn bị cắt xén, tối giản đếm mức cả cuộc chiến tranh với tổn thất nặng nề chỉ gói gọn lại vài dòng trong sách giáo khoa mà kẻ thù từng giết dân quân miền Bắc được khoác cho một cái tên mới là “nước ngoài”. Cuộc chiến tranh xâm lược ấy từng được tuyên truyền trong suốt thời kỳ Lê Duẩn cầm quyền cho đến khi Hội nghị Thành Đô thành hình năm 1991 thì bỗng dưng im bặt. Các cơ quan nhà nước trở nên im lặng một cách khó hiểu về cách ứng xử với Trung Quốc, mọi thù hằn không những biến mất mà trái lại ai nhắc nhở tới chúng cũng đều bị chụp cái mũ phá hoại tình hữu nghị hai nước. Và cái tình hữu nghị ấy càng kéo dài thì sự uất ức của người dân càng tăng cao vì họ hiểu thái độ này chỉ là mặt trái của lòng thần phục. Với sự nhạy bén của những kẻ cơ hội, tình hình có vẻ đã đổi chiều khi cuộc chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ trở nên căng thẳng. Mỹ chẳng những tỏ ra cứng rắn một cách bất ngờ, chính sách về Biển Đông của Washington rõ ràng hơn, nó liên tiếp đưa ra những thông điệp đến với Bắc Kinh rằng sự lấn áp của họ đối với vùng biển quan trọng này không thể nhận được sự im lặng của Mỹ, mà trái lại nó đang thử thách sức mạnh của một siêu cường dẫn đầu bởi một chính phủ đã thấy rõ dã tâm của một tập đoàn đang làm cho thế giới biến dạng. Và việc thả lỏng cho báo chí viết về cuộc chiến tranh biên giới 1979 là thông điệp gửi đến cho Mỹ: Chúng tôi không còn lưỡng lự nữa. Chỗ dựa của Việt Nam không hẳn là Mỹ, nhưng thái độ cứng rắn liên tục trong những sự việc xảy ra hồi gần đây cho thấy ít ra Việt Nam cũng đã có một quyết định tuy còn rụt rè nhưng Trung Quốc đã nhận ra họ không thể áp dụng chính sách cũ nữa và họ phải thay đổi, sự thay đổi này có làm Việt Nam dịu giọng hay không lại tùy vào thái độ của Mỹ. Điều quan trọng đối với Trung Quốc bây giờ là kế hoạch xâm lược bằng kinh tế, chính trị cửa sau hay phá hoại Việt Nam từ bấy lâu nay không bị phá sản sau nhiều năm ròng rã thực hiện và đã thành công. Những kế sách buộc Việt Nam vĩnh viễn sống trong vòng vây kinh tế của Trung Quốc tỏ ra hiệu quả do sự yếu kém về năng lực của cấp lãnh đạo Việt Nam một phần, một phần khác do lòng tham không đáy của các quan chức nhà nước có thẩm quyền trong việc phê duyệt các hợp đồng mà kết quả là luôn luôn bị Trung Quốc dẫn dắt theo hướng có lợi cho họ. Kế hoạch khai thác tài nguyên khoán sản của Việt Nam với giá rẻ mạt đã được Bắc Kinh thực hiện thông qua các đời Tổng bí thư cho đến nay vẫn còn ám ảnh nền kinh tế của Việt Nam. Bauxite Tây nguyên đã thua lỗ đối với Việt Nam nhưng với Trung Quốc nó chỉ là một con tép nhỏ bé dùng vào việc xâm lăng sức lao động của công nhân Trung Quốc. Các mỏ than tại Quảng Ninh tiếp tục mất trắng bởi giá cả bán than chưa tinh chế cho Trung Quốc và nhập lại than đã luyện với giá đắt gấp nhiều lần hơn. Đây là kết quả của chính sách khai thác bừa bãi, thiếu khoa học do Trung Quốc chỉ đạo để kết quả ngày hôm nay không còn lựa chọn nào khác. Từ năm 2012, Chính phủ Trung Quốc đã công bố danh sách hàng ngàn nhà máy, dây chuyền lạc hậu phải loại bỏ và để giải quyết số của nợ đó Việt Nam được nhắm tới như một bãi chứa rác nhưng lại kiếm ra tiền nhờ tư duy ham rẻ của người bạn phương Nam. Kết quả là sau khi mua những nhà máy, dây chuyền ấy về, Việt Nam lăn lộn trong đống sắt vụn và người bán có thêm cơ hội làm cố vấn để bán cho nạn nhân thêm những phụ kiện khác để thay thế. Không một thống kê nào nêu lên sự thiệt hại của doanh nghiệp trong cơn lên đồng mua máy móc phế thải Trung Quốc, vì vậy không ít doanh nghiệp thiếu thông tin tiếp tục làm cừu cho Bắc Kinh xẻ thịt. Về kinh tế, Trung Quốc là bậc thầy của thế giới về đấu thầu. Chính sách của Bắc Kinh luôn nâng đỡ cho doanh nghiệp có làm ăn tại Việt Nam bằng cách bơm tiền từ các ngân hàng nhà nước nếu doanh nghiệp có yêu cầu. Việt Nam thiếu vốn nhưng các công ty quốc doanh lại có nhu cầu thực hiện các dự án nhiều khi không cần thiết cho đất nước nhưng lại cần thiết cho bề ngoài hào nhoáng của chế độ. Một dự án được phê duyệt là bộ máy tham nhũng chuyển động. Các công ty đấu thầu của Trung Quốc được rỉ tai và kết quả thường thấy là 95% dự án được Trung Quốc lãnh thầu sau khi vốn vay được chính Trung Quốc bảo lãnh. Theo báo chí thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư từng nêu lên nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhà thầu Trung Quốc trúng thầu là những dự án sử dụng vốn vay của Trung Quốc, mà để vay vốn Trung Quốc thì Việt Nam phải chấp nhận nhà thầu Trung Quốc thực hiện gói thầu như một điều kiện vay. Cũng theo phát hiện của báo chí thì “với 552 triệu đôla tiền vay ODA Trung Quốc để thực hiện dự án Cát Linh - Hà Đông và với lãi vay thương mại ưu đãi trung bình 3%/năm, nhiều chuyên gia cho rằng, mỗi năm phía Việt Nam phải trả khoảng 240 tỷ đồng tiền lãi (tương đương 600 triệu đồng/ngày). Còn với khoản lãi vay tăng thêm do dự án bị đội giá, Việt Nam phải trả nợ trong vòng 9 năm cho ngân hàng China EximBank của Trung Quốc. Cộng cả hai khoản vay, mặc dù dự án chưa hoàn thành, nhưng mỗi ngày phía Việt Nam đang phải trả cho Trung Quốc cả lãi lẫn gốc khoảng 2,4 tỷ đồng.” Kết quà luôn luôn là phần thiệt hại vào tay Việt Nam. Dự án bị đội vốn, nhà thầu làm việc tắc trách, phẩm chất dự án luôn là số âm và trách nhiệm đối với những chữ ký hay bút phê từ cấp trên không bao giờ được vạch ra trước công luận. Phần thiệt hại ấy tính vào nợ công và người dân oằn lưng đóng thuế để chi trả khoản nợ nước ngoài mà họ không hề hay biết. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Từ Thuý Anh và Tiến sĩ Nguyễn Bình Dương thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VEPR thì “sự áp đảo của các nhà thầu Trung Quốc trong các dự án lớn ở Việt Nam đã làm cho thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng cao. Có đến 90% dự án công nghiệp nặng như các công trình điện, khai khoáng, dầu khi, luyện kim, hoá chất… của Việt Nam đều do Trung Quốc đảm nhiệm, với giá trị trúng thầu hàng trăm triệu cho đến hàng tỷ USD mỗi dự án”. Chẳng những vậy rất nhiều dự án dang dở sau khi nhà thầu Trung Quốc làm việc do thiếu vốn, thiếu nguyên vật liệu hay những lý đo khác mà các công trình như dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép Thái Nguyên, dự án nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình, dự án cải tạo, mở rộng nhà máy sản xuất đạm Hà Bắc hay dự án thủy điện Thượng Kon Tum đều có những lý do khiến nhà nước không tài nào đối phó. Cơn phá sản của các công trình ngày càng nhiều chứng tỏ Trung Quốc rất thành công trong nổ lực xâm lăng Việt Nam thông qua con đường kinh tế. Doanh nghiệp lớn của Trung Quốc được chính phủ của họ tạo điều kiện xâm thực cơ cấu kinh tế vĩ mô của Việt Nam thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại tấn công Việt Nam ở những chiến trường khác, mà chiến thắng của họ căn cứ trên sự thiếu kiềm soát của cơ quan chức năng Việt Nam, cộng với tham nhũng, móc ngoặc của cán bộ các cấp lại được sự tham gia nồng nhiệt của đa số người dân vì ham rẻ, ham kiếm lời nhanh chóng bất kể sản phẩm của mình tạo ra có làm nguy hại đến người khác. Bên cạnh các mặt hàng gia dụng có tẩm các chất phụ gia độc hại, nhiều loại rau củ quả Trung Quốc hiện nay cũng xuất hiện tràn lan trên thị trường được bày bán tràn lan đều được đóng nhãn mác Việt Nam hoặc hàng Thái Lan, Mỹ, hay New Zealand để đánh lừa người tiêu dùng. Nhiều lô hàng trái cây Trung Quốc, nhập khẩu qua cửa khẩu Lào Cai vượt mức từ 3 tới 5 lần dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật cho phép. Cuộc xâm lược kinh tế Việt Nam tuy được che đậy bằng lợi nhuận ít ỏi mà người dân Việt Nam kiếm được nhưng tác hại của nó vô cùng to lớn cho tương lai đất nước. Truyền thông Việt Nam tuy hứng khởi với sự cho phép tạm thời việc kỷ niệm 40 năm ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên giới nhưng một cuộc chiến khác đang xảy ra nếu không được cảnh giác một cách có hệ thống thì đất nước sẽ không khác gì bãi chiến trường như các tỉnh phía Bắc 40 năm trước. Chỉ khác một điều sự phá hoại của cuộc xâm lược lần này nằm trên từng con người Việt Nam khắp ba miền. Nó tác hại lên sức khỏe, niềm tin, sức sáng tạo cũng như năng lực làm việc của người dân. Nó biểu hiện sự ù lì, vô cảm, và nhất là tính chiến đấu bị mài mòn do sự tiếp tay của bọn nằm vùng lãnh lương từ những đồng nhân dân tệ được hóa phép thành những tờ giấy xanh nổi tiếng./.    
......

‘Bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975’?

Lần đầu tiên kể từ năm ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’, đảng CSVN bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975, đồng nghĩa với cơ chế mặc nhiên chấp nhận nhiều ca khúc mà trước đó bị xem là ‘nhạc vàng’, ‘nhạc ngụy’ và ‘ca khúc phản động’, cũng đồng nghĩa với tương lai Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) mất mát một giấy phép con chủ chốt và do đó ‘mất ăn’. Cục Nghệ thuật biểu diễn tự ‘bỏ ăn’? Vào ngày đầu tiên sau tết nguyên đán 2019, báo chí nhà nước đưa tin “Chính phủ đã đồng ý với một số đề xuất xây dựng dự thảo nghị định mới thay thế nghị định 79, như bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975, chỉ đưa ra quy định những bài hát có nội dung xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cá nhân hay bôi nhọ tổ chức, đi ngược lại lợi ích quần chúng thì sẽ bị cấm”. Theo Quyền cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Nguyễn Quang Vinh: “Bỏ cấp phép cho ca khúc nghĩa là ca khúc sáng tác ở thời gian, không gian nào cũng bình đẳng như nhau, không có khoanh vùng đặc biệt để cấp phép. Trước hay sau 1975 đều như nhau”. Một động thái ‘lạ’. Lại ‘hòa hợp hòa giải’ chăng? Trong lịch sử tồn tại của mình, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã nhiều lần ‘quản không được thì cấm’ và ‘vẽ’ ra nhiều thủ tục bắt các doanh nghiệp phát hành ca khúc trước 1975 phải xin phép cục này. Quá nhiều dư luận đã phát sinh đầy bức bối về cách ‘làm tiền’ lộ liễu và trơ trẽn của cơ quan này nhân danh công cuộc bảo vệ ý thức hệ cộng sản và ‘bài trừ tàn dư văn hóa Mỹ - ngụy’. Vào đầu năm 2017, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã gây ra một scandal thuộc loại rất vớ vẩn và tạp nham khi ra thông báo tạm thời dừng lưu hành 5 bài hát sáng tác trước 1975 “để xem xét, xác minh, thẩm định trên cơ sở đối chiếu về ca từ với bản nhạc gốc”. Đó là các ca khúc: Cánh thiệp đầu xuân của tác giả Lê Dinh - Minh Kỳ, Rừng xưa và Chuyện buồn ngày xuân của tác giả Lam Phương, Đừng gọi anh bằng chú của tác giả Diên An, và Con đường xưa em đi của tác giả Châu Kỳ - Hồ Đình Phương. Lý do: vi phạm tác quyền, thay đổi nội dung so với bản gốc, nhầm tên tác giả. Nhưng đến tháng 4/2017, vì sức ép từ dư luận và Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Cục trưởng Cục Nghệ thuật Biểu diễn lúc đó là ông Nguyễn Đăng Chương đã phải ký văn bản thu hồi quyết định tạm dừng 5 ca khúc trên. Còn giờ đây, kế hoạch ‘bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975’ của chính quyền Việt Nam lại đang gây ra mối nghi ngờ lớn về tính thành thật của nó. Vì sao Cục Nghệ thuật biểu diễn lại tự ‘bỏ ăn’, trong khi cấp phép ca khúc là một thủ tục hành chính đầy ‘màu’ mà đã giúp nuôi sống nhiều quan chức? Liệu đây chỉ là động tác ‘đơn giản hóa thủ tục hành chính’ nằm trong chủ trương tiết giảm giấy phép con của chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của Thủ tướng Phúc, hay còn nhắm đến một ý đồ nào khác - đặc biệt là ý đồ chính trị? Liệu chủ trương hay ý đồ này có được Cục Nghệ thuật biểu diễn thực hiện nghiêm, hay cơ quan này vẫn tiếp tục dựa vào quy định “những bài hát có nội dung xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cá nhân hay bôi nhọ tổ chức” sẽ bị cấm để tiếp tục trò ‘hành là chính’ và ‘làm tiền’ đối với các công ty phát hành băng đĩa? Vắt chanh bỏ vỏ Vào tết nguyên đán năm 2019, người ta vẫn thấy giới chóp bu Việt Nam phân công nhau đi chúc tụng Ủy ban người Việt ở nước ngoài và những Việt kiều được xem là ‘đại diện’ cho cộng đồng hơn 4 triệu người Việt hải ngoại, vẫn một lần nữa ‘đồng ca’ không mỏi miệng về ‘nghị quyết 36’ của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và những lợi ích mà nghị quyết này đã làm được cho ‘khúc ruột ngàn dặm’. Nhưng gặp ‘kiều bào’ xong thì đâu vẫn vào đó. Cho tới nay chính quyền Việt Nam vẫn chẳng chứng minh được một trường hợp ‘trí thức kiều bào’ nào đã được đảng tạo điều kiện làm việc một cách thực chất, đặc biệt là nhiều trí thức hải ngoại ở Mỹ về nước đã bị các cơ quan và giới quan chức chính quyền từ trung ương xuống các địa phương - nhẹ nhàng thì tiếp đón đãi bôi rồi gạt sang một bên, nặng nề hơn thì soi mói về gốc gác ‘Việt Nam Cộng Hòa’, còn trầm trọng nhất thì chỉ thị cho công an gọi hỏi, triệu tập và răn đe về ‘hành vi chống phá’… Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu - một trường hợp hiếm hoi được chính quyền tặng căn hộ và bố trí cho ông Châu phụ trách một viện đào tạo toán học, chỉ vì lấp ló tư tưởng và hành động phản biện về bản hiến pháp Việt Nam mà đã bị giới dư luận viên vô giáo dục của chính quyền lồng lộn chửi bới bằng đủ các từ tục tĩu và xúc phạm nhân phẩm. Tình trạng trên cũng chính là nguồn cơn sâu cay khiến ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ bị phá sản đến hai lần vào năm 2017. Vì sao ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ thất bại? Kế hoạch tổ chức ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ được đề xuất bởi nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và là quan chức được xem làm ‘ngoan hiền dễ bảo’ của đảng cầm quyền nên đã được đảng cho ngồi yên ấm trên ghế chủ tịch này đến 4 khóa, bất chấp ông Thỉnh đã gần tám chục tuổi. Vào đầu năm 2017, Hữu Thỉnh đã bất ngờ công bố một kế hoạch chưa từng có tiền lệ trong lịch sử tồn tại của đảng: Hội Nhà văn Việt Nam sẽ mời tất cả các nhà văn hải ngoại, kể cả những người từng cầm bút phục vụ chế độ cũ (VNCH), về dự “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học”. Nhưng ngay sau khi ông Hữu Thỉnh phát ra tuyên bố về “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học,” khắp các diễn đàn trong nước và đặc biệt ở hải ngoại đã phản ứng như sóng lừng. Rất nhiều ý kiến của nhà văn, nhà báo hải ngoại cho rằng sự kiện này về thực chất chỉ mang tính “cuội.” Họ tung ra một câu hỏi quá khó để trả lời rằng Nghị quyết 36 của Bộ Chính Trị về “công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài” đã ra đời mười mấy năm trước mà hầu như chưa làm được gì cả, nhưng tại sao đến nay mới sinh ra mới cái cử chỉ như thể “chiêu dụ người Việt hải ngoại” như thế? Nhiều ý kiến từ hải ngoại cũng thấu tim gan “đảng quang vinh” về chuyện suốt từ năm 1975 đến nay, đảng chỉ quan tâm đến “khúc ruột ngàn dặm” nhằm hút đô la “làm giàu cho đất nước” càng nhiều càng tốt, nhưng ai cũng hiểu là không có đô la thì chế độ không thể nào tồn tại. Nhưng lại quá hiếm trường hợp trí thức của “khúc ruột ngàn dặm” được đảng ưu ái tạo cho đất dụng võ ở quê nhà. Sau hơn bốn chục năm “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,” vẫn còn quá nhiều cảnh kỳ thị của nhà cầm quyền Việt Nam đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ hải ngoại. Nhiều trí thức hải ngoại ôm mộng trở về Việt Nam để “cống hiến,” nhưng cuối cùng đã phải chua chát biệt ly khỏi “vòng tay của đảng.” Về thực chất, nếu chính quyền Việt Nam không quá ‘nô lệ’ cho nhu cầu kiều hối đô la, “khúc ruột ngàn dặm” đã chẳng có gì khác hơn là “ruột dư” Làm sao để đô la ‘tự nguyện về nước đầu thú’? Hẳn nhiên, kiều hối là một nguồn quan trọng đã giúp duy trì “máu” để chính quyền Việt Nam vẫn có thể tạm ung dung về “đà tăng trưởng kinh tế không ngừng”, đồng thời khi cần thiết có thể gia tăng in tiền mặt để “gom” USD trôi nổi từ dân chúng, đặc biệt từ các gia đình ở Sài Gòn được thân nhân ở nước ngoài gửi ngoại tệ về, giúp bổ sung kho dự trữ ngoại hối và có thêm ngoại tệ để dễ bề trả số nợ nước ngoài đang lên đến hàng chục tỷ USD hoặc hơn mỗi năm. Chính vào thời gian này, tình trạng chính trị và kinh tế của đảng cầm quyền là khó khăn hơn bao giờ hết. Sau mức đỉnh 13,2 tỷ USD của năm 2015, số kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 rất có thể đã giảm thê thảm, chỉ còn khoảng 7-8 tỷ USD, bổ túc thêm nỗi căng thẳng thường trực của giới chóp bu Việt Nam phải đào bới bằng được những nguồn ngoại tệ còn lại để trả nợ cho nước ngoài và chi xài cho bộ máy khổng lồ nhưng đậm đặc chất ăn bám của đảng và chính quyền. Khi kiều hối về Việt Nam tiếp tục sụt giảm trong vài ba năm tới, ngân sách sẽ không biết tìm đâu ra ngoại tệ mạnh để thanh toán các khoản đến hạn với quốc tế, trong bối cảnh dải đất hình chữ S đã chìm trong cơn suy thoái kinh tế năm thứ 10 liên tiếp, tràn ngập bất ổn xã hội và bất ổn chính trị, và nhiều nguy cơ sắp rơi vào cuộc khủng hoảng không lối thoát. Một nguồn giấu tên cho biết ngân sách Việt Nam sẽ sớm rơi vào cạn kiệt ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Thời điểm cạn kiệt gần nhất là vào cuối năm 2019. Sự bế tắc gần như toàn diện như thế đã khiến đang manh nha phát sinh một luồng tư tưởng cùng một số quan chức buộc phải nghiêng dần theo xu hướng “cải cách”. Trong những “cải cách” đó, lần đầu tiên từ sau năm 1975 đã bộc lộ tín hiệu có vẻ đôi chút thực chất về “lấy lòng người Việt hải ngoại” - mà “bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975” là một minh họa mang tính nửa vời và còn quá ít ỏi để khiến những đồng đô la ‘tự nguyện về nước đầu thú’ - theo cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã bày đặt trường hợp Trịnh Xuân Thanh ‘không bị bắt cóc’. Phạm Chí Dũng
......

Điểm lại lịch sử

Mối bất hoà giữa Trung Quốc và Liên Xô bắt đầu từ năm 1962, đến năm 1969 là coi nhau như thù địch. Cũng từ lúc đó trở về sau, CSVN đứng giữa 2 chọn lựa, theo anh hai Liên Xô hay theo anh ba Trung Cộng? Ngay từ lúc đấy, CSVN chẳng muốn bỏ ai, nên thực hiện trò chơi đu dây giữa 2 thằng anh Cộng Sản này. Trong chiến tranh Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Cộng đều viện trợ cho Hà Nội đánh Sài Gòn. Nhưng mỗi thằng có một dụng ý khác nhau. Thằng anh Liên Xô đang chạy đua vũ trang với Mỹ nhưng cả Mỹ và Liên Xô đều không muốn nổ ra chiến tranh, nên Liên Xô viện trợ cho Hà Nội đánh Sài Gòn. Tức trong bàn cờ Chiến Tranh Lạnh 2 con tướng xúi 2 con tốt phân cao thấp thôi, chứ 2 tướng không đánh trực diện. Còn riêng Trung Cộng viện trợ Hà Nội nhằm mục đích gì? Trung Cộng thích làm ăn hơn thích thể hiện, nên Trung Cộng viện trợ là để đưa Hà Nội vào vòng phụ thuộc mình. Mục đích là để làm gì? Mục đích là từ các khoản nợ đó, Trung Cộng sẽ thu hồi giang sơn Việt Nam để cấn nợ. Dùng những món nợ ấy để nuốt dần Việt Nam như trăn nuốt mồi. Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng chính là khoản trả nợ của Hà Nội với "ơn nghĩa" Trung Cộng. Riêng CSVN thì được 2 thằng hùng mạnh nhất nhì khối CS viện trợ, được hậu thuẫn quá mạnh, Hà Nội hăng máu tràn vào Miền Nam tắm máu đồng bào. Kết quả họ nướng 3 triệu đồng bào thành đống xương tàn để có được "mùa xuân đại thắng" cho ĐCSVN. Kể từ năm 1972, Trung Cộng bắt tay Mỹ để tranh thủ làm ăn kinh tế, lúc đó Liên Xô và Trung Cộng càng mâu thuẫn hơn nữa. Đến năm 1978, Trung Cộng mở cửa đón Mỹ vào làm ăn, từ đó mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng đẩy lên cực độ. Giờ khoảng cách giữ Liên Xô và Trung Cộng quá xa, Việt Nam không thể đu dây được nữa, nếu tiếp tục đu, thì dây đứt CSVN sẽ chết. Cho nên, đến thời điểm này buộc CSVN phải chọn lựa 1 trong 2. Và Việt Nam đã chọn theo anh hai bỏ anh ba, thế là thằng Trung Cộng tức lồng lộn. Vậy là bao công sức tiền của của Trung Cộng đổ ra nuôi Việt Cộng để nhằm mục đích thu nợ bằng lãnh thổ Việt Nam giờ tan thành mây khói. Điên tiết vì mất cả chì lẫn chài, nên ngày 17/02/1979 Đặng Tiểu Bình xua hơn nửa triệu quân sang "dạy cho Việt Nam một bài học". Sau 1 tháng Trung Cộng tàn sát nhân dân Việt Nam và phá hủy 6 tỉnh biên giới miền Bắc thành bình địa, Việt Nam đánh bật quân cướp nước ra khỏi biên giới. Kể từ sau năm 1979, thằng em út Việt Nam có anh hai Liên Xô làm chỗ dựa, nên Hà Nội không việc gì phải hòa thuận với Trung Cộng. Thế nhưng, đến năm 1990, Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Cộng bơ vơ, nên nhóm Linh - Mười - Anh mang chiếu sang Thành Đô lót gối quỳ lạy tạ lỗi với anh ba vì đã lỡ dại phản anh ba theo anh hai trong quá khứ. Giờ anh hai chết rồi, nay thằng em út xin làm trâu ngựa để nghe anh ba sai bảo, đang mồ côi nên em quỳ lạy anh ba che chở dùm. Mà một khi đã tự mình xin làm nô lệ, thì những kế hoạch mà anh ba định làm dang dở trước đó phải được phục hồi lại hoàn toàn. Như vậy kế hoạch dang dở của Trung Cộng với Việt Nam là gì? Như đã nói phần đầu, đó là làm cho Việt Nam nợ ngập đầu và tiến hành cấn trừ bằng lãnh thổ. Cho nên, từ năm 1990 đến nay, CSVN liên tục nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng để trả hết món nợ cũ. Đó là cái giá mà CSVN theo đuổi chủ thuyết CS để bảo vệ sự độc tài cai trị. Và tất nhiên, khi trả nợ cũ thì Trung Cộng cũng tròng thêm nợ mới trên đầu Việt Nam bằng thứ bẫy nợ mà Trung Cộng đã và đang áp dụng. Một khi CSVN đã gắn kết với Trung Cộng thì rứt không ra được, vì những món nợ đáng kinh tởm cứ lớn dần, và bắt buộc CSVN phải tìm cách nào đấy để giải quyết với dân nhằm thực hiện tiến trình nhượng địa cấn nợ. Và cứ như thế Trung Cộng tứ từ từ tùng xẻo lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đang mất dần lãnh thổ về tay Trung Cộng, nhân dân đang phẫn uất. Thêm vào đó, là sự hèn hạ của ĐCSVN trước sự lấn tới của Trung Cộng làm lòng dân vốn đã căm phẫn lại càng căm phẫn. Chưa hết, đầu năm 2019, XHCN Venezuela đang lâm vào đường cùng, sợ phẫn uất của dân cộng hưởng với biến động Venezuela làm dân tràn xuống đường, thế nên ngày 17/02 năm nay, Đảng bật đèn xanh cho Ban Tuyên Giáo mở lệnh cấm, cho phép báo viết về chiến tranh biên giới 1979. Đây là hình thức xả van để giảm nhiệt tức giận của dân mà thôi. Chẳng có gì đáng mừng, mọi thứ đều không thay đổi. Tất cả đều nằm trong kế sách trị dân của ĐCS./. Đỗ Văn Ngà  
......

CSVN muốn thoát Tàu?

Nguyễn Bình Trung Theo ông Hữu Thịnh, Chủ tịch hội nhà báo Việt Nam cho biết là giữa tháng 12/2018, Trung ương CSVN cho phép tổ chức tưởng niệm 40 năm trận chiến biên giới phía Bắc với Trung Cộng bằng văn thơ. Tức là cho dùng văn thơ để ca ngợi cuộc chiến biên giới xảy ra vào tháng 2 năm 1979 cách nay 40 năm. Qua sự “bật đèn xanh” này, ta thấy trên các báo đài của CSVN, đã có nhiều bài mạnh dạn hơn nói về lịch sử đánh Tàu của dân Việt. Bắt đầu là những bài viết đề cập đến một cách chính thức trận hải chiến Hoàng Sa của hải quân VNCH nhân kỷ niệm trận chiến này vào tháng Giêng vừa qua trong khi đề cao người chiến sĩ VNCH vốn là điều CSVN vẫn cấm kỵ từ trước đến nay. Mới đây, báo chí lại bắt đầu đăng nhiều kỳ “hồi ức” của ông Vũ Mão về cuộc chiến biên giới và những tàn ác của quân đội Trung Cộng. Những loại bài viết như thế này không còn xuất hiện trên báo chí đảng từ hơn 10 năm qua. Lý do là CSVN sợ Tàu Cộng khó chịu. Ngay cả những địa danh đụng độ ác liệt với quân Tàu Cộng và những tấm bia nói lên tội ác Tàu cộng lập hồi năm 1979 – 1980 cũng bị CSVN phá. Vậy mà năm nay ban tuyên giáo thay đổi chủ trương cho kể tội xâm lược của Đặng Tiểu Bình và làm lễ kỷ niệm 40 năm trận chiến biên giới này. Theo hãng tin Reuters, khi coi được bản dự thảo thương thuyết của khối ASEAN về quy tắc ứng xử trên Biển Đông, thì thấy Hà Nội có vẻ mạnh dạn nhất trong khối thúc đẩy những điều khoản có thể làm phật lòng Bắc Kinh như hạn chế các vùng nhận diện phòng không, phi pháp hoá việc xây đảo nhân tạo, phong toả vùng biển và triển khai vũ khí tấn công. Đầu tháng Giêng năm nay, CSVN cũng nhanh nhẩu lên tiếng cổ võ tự do hải hành trên Biển Đông ngay sau khi chiến hạm USS McCampbell của Mỹ tuần tra sát gần Hoàng Sa trước sự phản đối của Tàu Cộng. Những động thái trên của Hà Nội có thể tạo ấn tượng cho người ta nghĩ rằng CSVN nay cũng đang muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Tàu Cộng? Giả thuyết này không phải là không tưởng. Bản chất của CSVN là không có sự chung thuỷ tuyệt đối với ai ngoài sự chung thuỷ trước sau với mục tiêu duy nhất là cướp và nắm giữ chính quyền bằng mọi giá. Lịch sử đã cho thấy người CS đã thanh trừng tàn sát chính những đồng chí anh em của mình để tranh giành quyền lực củng cố ghế ngồi trên của mình. Trong mục đích bám giữ quyền lực ta thấy lãnh đạo CSVN luôn đi tìm thế lực mạnh để chống lưng dựa vào, như đã lệ thuộc vào khối CS quốc tế để chiếm miền Nam, lệ thuộc vào Liên Xô đến nỗi Đặng Tiểu Bình của Tàu Cộng nổi giận muốn dạy cho bài học trong cuộc chiến biên giới 1979, và khi Liên Sô sụp đổ thì lại quay sang khấu tấu Tàu Cộng. Cho nên không phải là điều ngạc nhiên khi Tàu Cộng có dấu hiệu gặp khó khăn về kinh tế trong trận chiến thương mại với Mỹ, khi sự hung hăng của Tập Cận Bình khiến quốc tế lo ngại bắt đầu muốn cô lập kềm chế Tàu thì CSVN cũng bắt đầu muốn thủ cẳng chuẩn bị đi tìm một chỗ dựa khác và đang dọn mình vào thế đu dây giữa việc lệ thuộc Tàu và việc treo giá để bán mình cho đàn anh nào khác. Nhưng nếu quả thật như thế liệu CSVN có thể thoát Tàu được không? Tàu Cộng là thầy của CSVN và hơn ai hết cùng là cộng sản với nhau thì hiểu bản chất của nhau hơn ai hết, nhất là khi Tàu Cộng đã từng tin rằng CSVN đã ăn cháo đá bát phản bội mình để đi với Liên Xô trước kia. Cho nên Tàu Cộng đã thủ trước và đã gài lãnh đạo CSVN vào vòng kim cô khó thoát khỏi. Theo Thiếu tướng công an Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an Nhân dân và Giám đốc Học viện Chính trị Công An Nhân dân nay đã bị cho về hưu non, thì Trung Quốc đã cài cắm sâu người trong nội bộ đảng CSVN. Tàu Cộng cũng đã nắm kiểm soát được các địa điểm chiến lược về kinh tế và quân sự của Việt Nam. Tàu Cộng cũng là vua mua tham nhũng, nên giới cầm quyền CSVN vốn toàn quan tham đã dễ dàng bị mua chuộc để bị khống chế hoàn toàn. Ta cũng thấy Nguyễn Phú Trọng đã và đang hành xử rập khuôn theo Tập Cận Bình về việc nhất thể nắm Đảng và nhà nước, đốt củi nướng lò theo đuôi “đả hổ diệt ruồi”. Cho nên dù CSVN có muốn hay không, khả năng thoát Tàu của Hà Nội hầu như vô vọng khi mà CSVN vẫn còn cầm quyền trên đầu dân Việt. Một lý giải thực tế hơn, là những động thái có vẻ thoát Tàu kể trên chỉ là hình thức. Mục tiêu của Hà Nội là chiêu dụ Mỹ và các nước đang lo ngại Tàu để họ o bế mình hơn. Đồng thời qua đó lãnh đạo CSVN xoa dịu và ru ngủ tinh thần kháng Tàu trong nội bộ đảng và một số người dân nhẹ dạ, để tránh những cuộc biểu tình chống Tàu đe dọa sự sống còn của chế độ như vụ biểu tình ngày 10 tháng 6 xảy ra 12 tỉnh thành chống dự luật về đặc khu. Nói cách khác, Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm cho diễn trò chống Tàu trên mặt báo đảng chỉ là thủ thuật nhằm làm giảm áp suất của quần chúng ghét Tàu cộng trước sự căng thẳng của cuộc chiến mậu dịch Mỹ-Trung và nhất là che đậy âm mưu bán nước qua việc cho tư bản Tàu ào ạt đầu tư tại Việt Nam để tránh áp thuế của Hoa Kỳ gần đây. Tóm lại, quan hệ giữa CSVN với Tàu cộng đã kéo dài hơn nửa thế kỷ. Cái gọi là “tình hữu nghị” của hai đảng đã từng được ví là “răng môi” thì làm sao CSVN dám buông Trung Quốc. Đất nước Việt Nam chỉ thoát được cái bóng Tàu cộng khi nào Việt Nam có một thể chế thật sự do người dân bầu ra và đặt quyền lợi Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết. https://viettan.org/csvn-muon-thoat-tau/  
......

Sẽ có khủng hoảng ‘Trịnh Xuân Thanh thứ hai’?

Phạm Chí Dũng – VOA Một năm rưỡi sau vụ Nhà nước Đức tố cáo Trịnh Xuân Thanh bị mật vụ Việt Nam tổ chức bắt cóc ngay tại Berlin, vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ - nổ ra vào những ngày giáp tết nguyên đán năm 2019 - đang hứa hẹn sẽ trở thành một vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai. Vẫn là ‘kẻ tử thù của chế độ’ Điểm trùng hợp ngẫu nhiên và cứ như thể một thứ điềm báo dành cho chính thể độc đảng ở Việt Nam là trong khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc vào thời gian cuối tháng 4 năm 2017 và chưa đầy một tuần sau đó báo chí Việt ngữ ở Đức và cả báo chí Đức đã đưa tin về vụ này, thì vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích’ xảy ra vào những ngày cuối tháng 1 năm 2019 cũng được phát tin khoảng một tuần sau đó bởi báo chí quốc tế. Nhưng đặc biệt nhất là được phát tin một cách rất chi tiết bởi một blogger - người bị xem là ‘kẻ tử thù của chế độ cộng sản Việt Nam’: Người Buôn Gió, tức Bùi Thanh Hiếu, hiện đang sống ở Đức. Trong khi một số tờ báo nước ngoài, trong đó có báo Thái Lan, bắt đầu đề cập vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích’ một cách thận trọng và tỏ ý nghi ngờ có sự nhúng tay của phía Việt Nam, thì blogger Người Buôn Gió đã huỵch toẹt: blogger Trương Duy Nhất bị bắt cóc bởi Tổng cục 2 tình báo (thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam) theo chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, kèm theo nhiều chi tiết khá cụ thể về vụ bắt cóc này: lực lượng bắt cóc khoảng 10 người, trong đó có 2 người biết tiếng Thái, lên đường đến Thái Lan vào ngày 23/1; trước khi bị bắt, Trương Duy Nhất đã nhận số máy lạ có đuôi 6521; ngày Trương Duy Nhất bị bắt là 26/1; Trương Duy Nhất bị bắt tại siêu thị FuturePark; khi bị bắt, Trương Duy Nhất còn xin thay áo; một số hình ảnh về Trương Duy Nhất tại Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc tại Bangkok…. Những chi tiết quá cụ thể này khiến độc giả không thể không nghĩ rằng tác giả Người Buôn Gió, nếu không phải do hoang tưởng, đã nhận được những nguồn tin cực mật từ chính nội bộ đảng CSVN, hay cụ thể hơn là từ nội bộ của giới công an Việt Nam, hoặc từ chính người nằm trong ‘lực lượng bắt cóc’. Trong bài viết mô tả vụ bắt cóc Trương Duy Nhất, blogger Người Buôn Gió còn gửi đi một thông điệp vừa ẩn ý vừa lộ liễu: “Tôi biết nhiều hơn những gì tôi viết, những điều tôi biết là những bằng chứng chứ không phải là những suy đoán, trong vụ này cũng như trong nhiều vụ khác cũng vậy”. Đây là lần thứ hai Người Buôn Gió làm cho chính quyền Việt Nam điên đầu và có thể sẽ rơi vào trạng thái lúng túng cao độ như tình trạng hậu cuộc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Tuy nhiên, những thông tin mà blogger Người Buôn Gió cung cấp trong loạt bài viết về Trương Duy Nhất cho đến nay chỉ thuộc về tác giả mà chưa thể kiểm chứng được. Nhưng khách quan mà xét, nếu nhìn lại vụ Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc và loạt bài viết của Người Buôn Gió về vụ này, có thể nhận ra một số chi tiết mà Người Buôn Gió nêu ra là phù hợp với thực tế vụ bắt cóc này và kết quả điều tra đã được công bố của cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện Công tố Đức. Nếu những cáo buộc chi tiết và như thể trong ruột mà Người Buôn Gió nhắm tới Tổng cục 2 quân đội là đúng, hoặc ít ra có một số cơ sở xác thực, vụ blogger Trương Duy Nhất bị bắt cóc tại Bangkok gần như chắc chắn sẽ trở thành vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai. Nhưng lần này, ‘tác giả’ không phải là Bộ Công an mà lại là Bộ Quốc phòng với vai trò Bí thư quân ủy trung ương là ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng. Liệu có ‘thỏa thuận ngầm’? Chính quyền Việt Nam đã im lặng trước tết nguyên đán khi xuất hiện tin tức Trương Duy nhất bị mất tích hay bị bắt cóc. Đó là khoảng thời gian mà có thể ‘thông cảm’ được: giới quan chức còn phải ăn tết. Nhưng sau cái tết nguyên đán đầy cảnh ‘lót tay’, chúc tụng đãi bôi và ăn nhậu xả láng thì lại là chuyện khác: thông tin lan rộng và đầy tính nghi ngờ trên một số tờ báo quốc tế về vụ Trương Duy Nhất sẽ khiến chính quyền Việt Nam không thể nhắm mắt che tai. Do đó, nhiều khả năng là sau tết nguyên đán 2019, chính quyền Việt Nam sẽ phải có thông báo về vụ này, trong đó hoặc phủ nhận việc chính quyền này ra lệnh bắt cóc Trương Duy Nhất, hoặc chính thức xác nhận Trương Duy Nhất đã bị bắt nhưng là ‘tự nguyện về nước đầu thú’ do hành vi phạm pháp - tương tự cái cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đồng thanh tương ứng ‘Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú’ vào đầu tháng 8 năm 2017. Điều an ủi mà có thể khiến chính quyền Việt Nam tạm thời yên tâm để đưa ra một thông báo theo kiểu trên là khác với lời tố cáo mạnh mẽ của nhà nước Đức về vụ Trịnh Xuân Thanh, chính quyền Thái Lan sẽ khó mà lên án chính quyền Việt Nam tổ chức bắt cóc người một cách bất hợp pháp trên đất Thái do một ‘thỏa thuận ngầm’ nào đó (nếu có) giữa hai bên, cộng thêm mối quan hệ Việt - Thái được xem là ‘ngày càng tốt đẹp’, và chế độ của Thủ tướng Prayuth Chan-ocha chẳng ưa gì tự do báo chí. Củng cố cho khả năng này là động thái mới nhất của lãnh đạo Cục Di trú Thái Lan thông tin rằng họ đã không có hồ sơ về việc Trương Duy Nhất nhập cảnh vào Thái Lan - một vấn đề có thể được hiểu là ông Nhất đã vào đất Thái theo cách không hợp pháp và do vậy các cơ quan Thái có thể sẽ cho rằng họ không liên can đến vụ việc này. Nhưng còn sức ép của các tổ chức nhân quyền quốc tế và truyền thông quốc tế đòi hỏi trách nhiệm của người Thái phải tìm ra tung tích của Trương Duy Nhất? Chắc chắn chính quyền Thái Lan sẽ phải tiến hành một số động tác nào đó, dù chỉ cho có, để có cơ sở hồi âm cho quốc tế về vụ việc này. Nội dung hồi âm này lại có thể có độ chênh, thậm chí là chênh biệt đáng kể, với một thông báo mà phía Việt Nam phải nêu ra sau tết nguyên đán 2019 về vụ Trương Duy Nhất. Khi đó, sự thật sẽ lộ dần ra. Song mối lo sợ và nguy hiểm lớn nhất của chính quyền Việt Nam, và của cả chính quyền Thái Lan, sẽ đến từ… Người Buôn Gió. Sẽ có bằng chứng? Bởi khi Người Buôn Gió dám khẳng định là anh ta có những bằng chứng về vụ Trương Duy Nhất bị bắt cóc mà không phải là suy đoán, toàn bộ những ai quan tâm đến vụ này đều ngóng cổ trông chờ Người Buôn Gió tung ra những bằng chứng đó để xem tính xác thực đến đâu. Còn chính quyền Việt Nam, đặc biệt là thủ tướng Phúc và Tổng cục 2, có lẽ sẽ sống trong nỗi hồi hộp mòn mỏi. Nếu Người Buôn Gió không thể cung cấp những bằng chứng trên? Nhiều quan chức Việt Nam sẽ thở phào và tổ chức phản đòn để cho quốc tế thấy ‘chính nghĩa Việt Nam’. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu trong những ngày tới một số bằng chứng, và nếu đúng là bằng chứng có tính xác thực, được công bố theo đúng cái cách mà Người Buôn Gió thường làm là rỉ rả giết dần giết mòn sức chịu đựng của địch thủ? Chỉ có thể là những cơn đau tim, thống phong và… xơ gan cổ trướng. Hoặc cả ba. Và nếu quả thực vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ sẽ nổ ra như một cuộc khủng hoảng ‘Trịnh Xuân Thanh thứ hai’, đó sẽ là điềm báo ‘rông cả năm’ hoặc còn lâu hơn thế dành cho tương lai toàn màu tối của chính thể độc trị ở Việt Nam.  
......

Ngày đầu năm: Bàn chuyện cúng bái của dân và mồ mả của lãnh đạo CSVN

Tác giả: Quê Hương Những ngày đầu năm là những ngày người dân Việt đổ đi khắp chốn để cầu khấn lễ bái để cả năm được an lành, sức khỏe và thịnh vượng. Khắp các chùa chiền từ Yên Tử, Chùa Hương đến Bái Đính rồi đền Trần, đâu đâu cũng đông nghịt người, chen lấn xô đẩy nhau đến ngất xỉu, rồi nạn “chặt chém khách” diễn ra nhan nhản. Dân biết, quan biết, Đảng biết mà không thể hoặc không làm gì để mọi việc trở nên tốt đẹp hơn. Rồi hết năm này qua năm khác, đến hẹn lại lên, nạn “hội hè chùa chiền” khiến nhức nhối dư luận và tạo ra một hình ảnh vô cùng xấu xí mông muội về Việt Nam đối với thế giới văn minh. Tại sao lại như vậy nhỉ? Quyền thờ phụng, hành hương là quyền của dân và là tự do của dân. Nhưng dân thì không thể nào đứng ra tổ chức các lễ hội, các nghi thức chùa triền, phân bổ luồng giao thông, thu phí, đảm bảo trật tự được. Đó là công việc của chính quyền và chỉ của chính quyền mà thôi. Ở một đất nước chỉ đề cao tính chính danh của Đảng Cộng Sản, đề cao vai trò của Hồ Chí Minh như một vị thần thánh của dân tộc và tôn thờ chủ nghĩa vô thần thì tại sao, chính quyền lại để người dân mông muội thờ cúng rồi hành hương theo kiểu này, khiến tốn kém cho nhân dân, chưa kể mất mạng người vì các tai nạn khác nhau.   Vấn đề là Đảng có lợi từ những hoạt động thờ cúng mông muội ấy. Bởi họ thu được rất nhiều thuế và phí. Từ phí thu tiền tàu xe trên đường, đến phí thăm quan du lịch, phí bán sớ ấn lệnh đến tiền cho thuê ki ốt bán hàng, tiền cho thuê bãi trông giữ xe, tiền cho phép đăng kí các loại dịch vụ tàu thuyền … Dân các địa phương cũng có chút tiền dịch vụ kiếm sống nhưng số tiền đó chỉ là muỗi so với tiền mà chính quyền và các công ty sân sau của các quan chức chính quyền kiếm chác được. Thiệt hại nhất vẫn chính là người dân. Thay vì được đi hành hương một cách văn minh và có tổ chức, họ phải tham gia vào những hành trình hành xác và nhiều lúc tiền mất tật mang. Nhưng chẳng biết kêu ai. Một phần của nạn chùa chiền đầu năm cũng chính tại bản chất nói một đằng làm một nẻo của chính quyền cộng sản Việt Nam. Điều này khiến cho người dân mất lòng tin và chỉ biết trông chờ vào một thế lực siêu nhiên nào đó để che chở cho mình. Một Đảng luôn đề cao sự lãnh đạo của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa duy vật biện chứng nhưng các quan chức cao nhất Việt Nam lại xây cho mình những lăng mộ to gấp hàng chục, hàng trăm lần các vua chúa thời phong kiến để thờ cùng thì bảo sao dân tin vào chủ nghĩa cộng sản lừa dối ấy. Nếu như trước đây, các lãnh đạo cộng sản Việt Nam trừ Hồ Chí Minh, đều được đưa vào chôn tại nghĩa trang Mai Dịch thì nay kể từ năm 2013 khi Võ Nguyên Giáp chết, ông chọn khu vực ven biển Vũng Chùa, Đảo Yến rộng tới 10 hecta làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình. Ông Nguyễn Bá Thanh được an táng tại quê nhà xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, Quảng Nam cũng vài ngàn mét vuông, gần đây nhất là trường hợp của chủ tịch nước Trần Đại Quang với khu lăng mộ cũng 3 – 4 hécta ở quê nhà tại Ninh Bình. Đấy là chưa kể hồi tháng 5/2017, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cho phê duyệt quy hoạch chi tiết nghĩa trang dành cho cán bộ cấp cao của ĐCS VN rộng 120 ha tại xã Yên Trung, huyện Thạch Thất, Hà Nội với kinh phí khủng là 1400 tỷ đồng. Ở một đất nước mà Đảng Cộng Sản luôn ủng hộ sự vô thần, tôn thờ chủ nghĩa duy vật biện chứng hay còn gọi là chủ nghĩa xã hội thì các lãnh đạo Cộng sản cần gì phải chăm chút cho mộ phần của mình (để thờ cúng) để làm gì, sao không hỏa táng như dân thường vẫn làm??? Trong khi đấy, dân đen ở nhiều nơi còn bị cướp đất, không có đất trồng trọt sinh sống, chứ nói gì đến chuyện có đất mà chôn mới cất. Nói như thế mới thấy cái lăng của ông Hồ Chí Minh thật là khốn nạn. Chỉ vì noi gương và học tập theo ông ấy mà lăng tẩm đền đài của các quan chức lớn nhỏ cứ mọc lên như nấm ở khắp mọi nơi. Và có lẽ cũng chỉ vì nó mà dân cứ phải đi thắp hương cúng bái tứ tung mọi nơi mà giờ này Việt Nam vẫn như con tàu mất lái đi mãi mà chả biết bến bờ Chủ Nghĩa Xã Hội nằm ở đâu. Và đã đến lúc phải phá bỏ thứ Chủ Nghĩa Xã Hội điên rồ này cùng với Chủ Nghĩa Lăng Mộ cổ hủ, đã làm khổ dân ta mấy chục năm qua!
......

Nhân quả Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam-Châu Âu (EVFTA)

Phạm Chí Dũng – Người Việt| Khó nuốt hơn hẳn Mặc dù đã kết thúc đàm phán từ cuối năm 2015, nhưng quá trình rà soát pháp lý đối với EVFTA (Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam-Châu Âu) đã kéo dài đến hai năm rưỡi, thay vì chỉ từ sáu tháng đến một năm đối với các hiệp định thương mại khác. Trong thời gian đó, chính quyền Việt Nam vẫn vừa “nhai lại” không chán đề nghị “EU thúc đẩy sớm thủ tục để EVFTA được ký kết và phê chuẩn,” vừa tha hồ đàn áp nhân quyền trong nước. Thậm chí vào năm 2017 là năm rộn rã các đoàn công du Châu Âu của Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Thủ Tướng Vương Đình Huệ, và quan chức còn chưa chết đột ngột gây nghi ngờ là Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang, đã nổ ra vụ “bắt cóc Trịnh Xuân Thanh” như một trái bom tàn phá toàn bộ hệ thống nhà nước pháp quyền của nước Đức và EU. Chẳng quá đáng để cho rằng kể từ vụ Trịnh Xuân Thanh, không chỉ người Đức mà một phần lớn các nước Châu Âu đã thực sự được “mở mắt” về bản chất của lời tuyên rao “Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm quyền con người.” Cũng kể từ đó, EVFTA trở nên khó nhai nuốt hơn hẳn. Đến Tháng Mười Hai, 2017 khi chính quyền Việt Nam hùng hổ khoe khoang bản thành tích đã tóm cổ được hơn ba chục tên phản động (chỉ những người bất đồng chính kiến và hoạt động nhân quyền) trong năm đó, một cuộc đối thoại nhân quyền giữa EU với Việt Nam đã được tổ chức tại Hà Nội mà không mang lại kết quả khả quan nào ngoài những hứa hẹn bất tận bao giờ cũng thế của Việt Nam, cộng thêm việc vài khách mời của Phái Đoàn EU tại Việt Nam bị công an trơ tráo bắt cóc. Rốt cuộc, việc gì phải đến đã đến. Hai tháng sau đó, vào Tháng Hai, 2018, một cuộc họp của EU tại Brusells, Bỉ đã thông qua một loạt điều kiện chưa từng có: muốn vào EVFTA, Việt Nam phải ký kết 3 công ước còn lại trong tổng số 8 công ước quốc tế về lao động của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO), trong đó đặc biệt là công ước quốc tế về quyền tự do lập hội (dành cho công đoàn độc lập), phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm cùng liên quan đến một số đòi hỏi về nhân quyền và cả vụ Trịnh Xuân Thanh. Cùng lúc, ngành kinh tế thủy sản Việt Nam bị EU giơ “thẻ vàng” – một hình thức chế tài và trừng phạt thương mại nghiêm khắc mà nếu không tìm cách thoát khỏi sự trầm luân đó, tôm cua cá Việt Nam sẽ còn phải nhận “thẻ đỏ” và có thể hết đường vào thị trường Châu Âu. Trong lúc đó, giới chóp bu Việt Nam vẫn như thiêu thân trong cuộc chiến nội bộ thời hậu Nguyễn Tấn Dũng và say sưa đàn áp nhân quyền mà không đếm xỉa gì đến cánh tay đưa ra với những cử chỉ biểu cảm cuối cùng của EU. Thậm chí khi Bernd Lange – Chủ Tịch Ủy Ban Thương Mại Quốc Tế Châu Âu, cơ quan có thẩm quyền rất quan trọng trong việc tham mưu EVFTA cho nghị viện Châu Âu – lặn lội đến Hà Nội vào Tháng Tám, 2018 để thuyết phục các quan chức cao cấp Việt Nam cải thiện nhân quyền, trong đó có cả cuộc gặp với Tô Lâm Bộ Trưởng Công An, ông đã chẳng nhận được bất kỳ tín hiệu hồi âm nào ngoài những lời xã giao mọc rễ đằng miệng mà một nhà ngoại giao phương Tây phải lắc đầu ngao ngán khi ẩn dụ hình ảnh “đánh đĩ cả mười phương.” Đó cũng là cái cách mà một số quan chức cao cấp Việt ngoe nguẩy đi Châu Âu để “quốc tế vận” vào thời điểm Ủy Ban Châu Âu – cơ quan cấp dưới của Hội Đồng Châu Âu – mở một cuộc điều trần về EVFTA – nhân quyền vào Tháng Mười, 2018 tại Brusells. Nhưng bất chấp không ít ý kiến của giới nghị sĩ Châu Âu về sự cấp thiết hoãn lại việc ký kết và phê chuẩn EVFTA để Việt Nam phải có những hành động cải thiện nhân quyền một cách rõ rệt chứ không phải chỉ hứa suông, Ủy Ban Châu Âu vẫn làm tờ trình cho Hội Đồng Châu Âu để xem xét phê chuẩn EVFTA – một kết quả khá mỹ mãn mà đã khiến chuyến công du ba nước châu Âu vào thời điểm đó của Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc trở thành bảng vàng chói lọi ghi nhận thành tích của ông ta, cũng như đã ghi thêm một điểm cho Phúc trên cung đường chạy đua vào cái ghế tổng bí thư của đảng CSVN tại đại hội 13 vào năm 2021. Nhưng người tính cuối cùng lại không bằng… người khác tính. Gieo gió ắt gặt bão Vào giữa Tháng Mười Một, 2018 khi mọi việc đã tưởng chừng xong xuôi và giới chóp bu Việt Nam chỉ còn xoa tay chờ đón kết quả Hội Đồng Châu Âu chính thức phê chuẩn EVFTA và trình hiệp định này cho Nghị Viện Châu Âu để bỏ phiếu thông qua lần chót, chính nghị viện này đã tung ra một bản nghị quyết cứng rắn chưa từng có về dòi hỏi Việt Nam phải thỏa mãn nhiều cải thiện nhân quyền về tự do tôn giáo tự do báo chí, tự do Internet, hủy bỏ hay hoãn Luật An ninh mạng, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, phải ký kết 3 công ước quốc tế còn lại về lao động… Sau bản nghị quyết nhân quyền trên là một thời gian mặt hồ lặng ngắt không sủi tăm. Cả hai phía đều chờ đợi, chờ lẫn nhau. Hình thể vận động quốc tế của Việt Nam như tạm ngừng thở và giới chóp bu Hà Nội giương mắt nhìn về phía châu Âu để chờ, nhưng lại không chịu làm bất cứ hành đông nào về cải thiện nhân quyền, dù chỉ là hành động nhỏ nhất hay chỉ mang tính tượng trưng. Ngày 1 Tháng Giêng, 2019, Luật An Ninh Mạng vẫn chính thức giương nanh múa vuốt theo lịch trình mà “Tổng Chủ” Nguyễn Phú Trọng đã sắp xếp, bất chấp phản ứng của cộng đồng quốc tế và chính phủ nhiều nước phương Tây. Trong vài tháng cuối năm 2018 đã chẳng có bất kỳ thứ gì thay đổi trên nhân dạng xấu xí của “Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người.” Đã quá rõ là từ cuộc điều trần ở Bỉ vào Tháng Mười, 2018 cho đến nay, chính thể độc đảng ở Việt Nam đã chẳng chịu làm một điều gì để cải thiện nhân quyền. Trong não trạng chủ quan cùng căn bệnh duy ý chí của chế độ chuyên quyền và một chiều này, hẳn họ vẫn cho rằng bản nghị quyết về nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu chỉ là một thứ văn bản cho có lệ, để cuối cùng chính thể Việt Nam vẫn bỏ túi EVFTA mà chẳng phải trả cái giá đáng kể nào. Nhưng cũng đã quá rõ là chính vì nguyên do rất chính yếu trên mà Cộng Đồng Châu Âu đã không cho phép Ủy Ban Châu Âu ký EVFTA với Việt Nam, cho dù bản thảo của hiệp định này đã khá đầy đủ và nằm sẵn trên bàn chỉ chờ ký. Ngay cả chuyến công du của nữ phó Chủ Tịch Nghị Viện Châu Âu – bà Heidi Hautala – đến Hà Nội vào tuần đầu tiên của năm 2019 cũng chẳng hé ra chút hy vọng nào cho chính thể Việt Nam: trong lúc Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân lại một lần nữa “mong muốn trên cương vị của mình, phó chủ tịch sẽ ủng hộ và thúc đẩy EP sớm phê chuẩn EVFTA khi được ký kết,” bà Heidi Hautala đã chẳng hé môi bất cứ từ nào về bản hiệp định phải được đánh đổi bằng quyền con người này. Trong khung cảnh lặng như tờ đó, một chút hy vọng mà Hà Nội ngầm ngấm xúc tiến chỉ còn là thúc đẩy giới doanh nghiệp châu Âu có văn phòng ở Việt Nam tác động vào nghị trường Châu Âu để Hội Đồng Châu Âu sớm mở một cuộc họp thông qua EVFTA. Cuộc họp đó cuối cùng đã tới vào Tháng Giêng, 2019, trễ gần hai tháng so với dự liệu của cả hai bên. Nhưng một lần nữa, việc gì phải đến đã đến. Ngay sau khi tin tức về EVFTA bị EU quyết định hoãn lại việc phê chuẩn lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội và trong dư luận (trừ mặt báo nhà nước) vào ngày 24 Tháng Giêng, 2019, một số nguồn tin từ nội bộ đảng CSVN đã xác nhận tâm trạng chung của giới lãnh đạo cao cấp là bị bất ngờ và thất vọng đến mức “mặt cứ thượt ra” mà không biết phải nói gì. Quyết định hoãn EVFTA của Hội Đồng Châu Âu là bằng chứng rõ ràng nhất cho tới nay về việc Liên Minh Châu Âu không còn đáng bị xem là yếu thế và nhu nhược trong con mắt của chính quyền Hà Nội, và quyết định này là sự tuân thủ một cách triệt để và kiên định tinh thần bản nghị quyết nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu ban hành vào giữa Tháng Mười Một, 2018. Ngay cả Bernd Lange – Chủ Tịch Ủy Ban Thương Mại Quốc Tế của Quốc Hội EU và là người được xem là hiền hòa, giờ đây cũng phải quyết liệt: “Nếu không có tiến bộ nào về nhân quyền, và đặc biệt là quyền của người lao động, thì sẽ không có bất cứ hiệp định nào được Quốc Hội Châu Âu thông qua hết.” Hẳn là đến lúc này, giới chóp bu Việt Nam đã phải “sáng mắt sáng lòng”: rõ là EVFTA cũng có luật nhân quả. Kẻ nào gieo gió ắt phải gặt bão./.  
......

VÀI NHẬN ĐỊNH VỀ VỤ TRƯƠNG DUY NHẤT “MẤT TÍCH”

Ảnh: Ông Trương Duy Nhất trong một chuyến tháp tùng Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khi còn là nhà báo trong hệ thống chính quyền. Fb Phạm Lê Vương Các 1. Nếu thông tin ông Trương Duy Nhất bị bắt tại một Trung tâm thương mại ở Bangkok là chính xác thì chính quyền Thái Lan không phải là kẻ vô can, mà là người chịu trách nhiệm chính cho vụ bắt giữ này. Bởi lẽ không thể bắt ông Nhất bằng vũ lực hay gây mê để rời khỏi một trung tâm thương mại đông đúc với hệ thống camera và lực lượng an ninh bảo vệ dày đặc, nếu những người bắt giữ không phải giới chức chính quyền sở tại. 2. Chính sách của chính quyền Việt Nam trong suốt nhiều năm qua là sẵn sàng “tống khứ” những người bất đồng chính kiến hay hoạt động dân chủ nhân quyền ra khỏi Việt Nam. Chỉ cần quốc gia nào đồng ý tiếp nhận các đối tượng này thì chính quyền Việt Nam cũng sẵn sàng để họ ra đi. Trong một số trường hợp chính quyền còn gây áp lực để buộc những người này phải rời khỏi Việt Nam. Nếu ông Nhất chỉ thuần tuý là một người viết lách bất đồng chính kiến hay một nhà hoạt động cho dân chủ nhân quyền thì chính quyền Việt Nam không dở hơi đến nỗi nhanh chóng mở chiến dịch quy mô săn lùng sang tận Thái Lan để bắt về. Về lý do bắt ông Nhất đến lúc này vẫn còn đang bỏ ngỏ. 3. Khi nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế và Hoa Kỳ lên tiếng, gây áp lực tiến hành điều tra về việc ông Nhất “mất tích”, thì ngay lập tức thông tin thuộc dạng “định hướng dư luận” được tung lên mạng. Nội dung của bài viết cáo buộc ông Nhất là một “mắc xích” trong đường dây chiếm dụng công sản của “Vũ Nhôm”. Cụ thể, Trụ sở báo Đại Đoàn Kết ở miền Trung tại số 82 Trần Quốc Toản, TP. Đà Nẵng, thời ông Nhất làm Trưởng đại diện bị biến thành nhà riêng của “Vũ Nhôm”. Cạnh đó ông Nhất cùng với “Vũ Nhôm” thành lập công ty I.V.C để mần ăn chung. Thông tin này được đưa ra rõ ràng nhằm mục đích làm giảm sự ủng hộ đối với ông Nhất, buộc những người lên tiếng bảo vệ cho ông phải dè dặt hơn. Thông tin này cũng có thể giải thích cho lý do ông Nhất dù đã đào thoát qua Thái Lan xin tỵ nạn nhưng vẫn bị săn đuổi. 4. Khoảng hơn một năm trước, trên mạng Internet rò rỉ một báo cáo tuyệt mật của Tổng cục Tình báo Quân đội (Tổng cục II) về Trương Duy Nhất. Nội dung của bản báo cáo này đánh giá về Nhất, một mặt là “đối tượng chống đối chính trị cực đoan”, mặt khác lại phục vụ cho “lợi ích nhóm và phe cánh chính trị””(trong nội bộ đảng và nhà nước). Bản báo cáo còn miêu tả Nhất có “mối quan hệ phức tạp” (vừa quan hệ với phản động, lại vừa quan hệ với lãnh đạo chính quyền), đặc biệt là mối quan hệ thân mật với Vũ Nhôm. Bản báo cáo này cũng đưa ra kiến nghị lực lượng công an cần lập chuyên án, củng cố hồ sơ để xử lý Trương Duy Nhất và ngăn chặn tình trạng “phe cánh chính trị” đang ảnh hưởng trực tiếp đến đoàn kết nội bộ, uy tín của lãnh đạo các cấp. 4. Đối với giới hoạt động đấu tranh, Nhất là một người khá thú vị. Nhiều người biết đến ông vì ông được ví là một “Anh hùng Thông tin” (được tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới trao tặng) vì các bài viết phê phán mạnh mẽ về lỗi hệ thống chính quyền, cổ suý cho dân chủ và nhân quyền, nhưng đồng thời nhiều người cũng khá rõ mối quan hệ thân thiết của Nhất với Vũ Nhôm và áp phe với một số giới chức lãnh đạo chóp bu, trước cả khi bản báo cáo của Tổng cục II ra đời. Đánh giá đầy đủ về Nhất, có lẽ những nhà sử học sau này sẽ có cái nhìn chuẩn xác hơn thời điểm này. 5. Hiện tại Trương Duy Nhất đang trong tình huống khá nguy hiểm, không ai biết được tình trạng hiện tại của ông ra sao, cũng như chưa một ai nhận lãnh trách nhiệm về việc bắt giữ ông. Tình trạng của ông được pháp lý mô tả bằng thuật ngữ “cưỡng bức mất tích”. Người bị bắt giữ trong tình trạng này có nguy cơ bị thủ tiêu, hoặc bị đưa ra xét xử mà không đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng như bị giam giữ bí mật, bị tra tấn, ép cung, bị tước đoạt quyền tiếp cận luật sư và thân nhân... Bỏ qua nguyên tắc xét xử đối với ông Nhất thì tất cả mọi cáo buộc nhắm vào ông, lẫn việc xét xử ông sau này đều trở nên vô giá trị về mặt pháp lý. Lúc này ông Nhất cần được bảo vệ và đảm bảo cho việc xét xử công bằng và công khai. Những người yêu công lý hãy đặt câu hỏi cho chính quyền Thái Lan và Việt Nam: “TRƯƠNG DUY NHẤT ĐANG Ở ĐÂU?”    
......

Gia đình các Tù nhân lương tâm kêu cứu vì những dấu hiệu bất thường

Phan Kim Khánh (trái), Trần Hoàng Phúc (giữa), và ông Huỳnh Trương Ca (phải) Tù nhân lương tâm Phan Kim Khánh trong ngày hôm nay 11/2/2019 sẽ làm đơn kêu oan về việc TAND tỉnh Thái Nguyên không nhận đơn kháng cáo phúc thẩm, trong khi đó gia đình của hai TNLT khác là Trần Hoàng Phúc và Huỳnh Trương Ca lên tiếng về những dấu hiệu bất thường xảy ra cho người thân của mình trong trại giam. Phan Kim Khánh kêu oan về việc Tòa án Thái Nguyên không nhận đơn kháng cáo Bà Đỗ Thị Lập, mẹ của tù nhân lương tâm Phan Kim Khánh cho hay gia đình bà có buổi gặp con mình trong trại giam Ba Sao, tỉnh Hà Nam hôm 10/2/2019 và nhận được thông tin như trên. “Hôm qua là cũng có 1 anh trong cùng trại của cháu nó là anh Kiên, hôm 29 cũng báo cho em gái của Khánh là Phan Thị Trang, cho gia đình biết trước là hết tết - là ngày hôm nay (11/2) Khánh sẽ làm đơn kêu oan gửi lên Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên vì nó không nhận tội, đã kháng cáo nhưng TAND tỉnh Thái Nguyên không trả lời. Cháu nó có hỏi gia đình là sau 15 ngày (sau phiên tòa phúc thẩm - PV) có giấy gì về gia đình không, thì gia đình cũng bảo là không có giấy gì hết. Khánh thông báo cho gia đình, bố mẹ biết là Khánh sẽ làm giấy là kêu oan,” bà Đỗ Thị Lập nói qua điện thoại. Hồi tháng 10 năm ngoái, luật sư Hà Huy Sơn, người bào chữa cho Phan Kim Khánh cũng cho Đài Á Châu Tự Do biết là ông không biết gì về đơn kháng cáo của thân chủ và việc kháng cáo chỉ có hạn 15 ngày sau phiên sơ thẩm. Nếu quá thời gian này phải có lý do đặc biệt thì tòa án mới có thể chấp nhận việc kháng cáo. Phóng viên của Đài Á Châu Tự Do gọi cho số điện thoại của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên để hỏi về vụ việc nhưng không có người bắt máy. Sinh viên Phan Kim Khánh, sinh năm 1993, bị tòa án tỉnh Thái Nguyên tuyên 6 năm tù giam và 4 năm quản chế trong phiên xử diễn ra vào ngày 25/10/2017 với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999. Trước khi bị bắt, anh Phan Kim Khánh là Chủ tịch Hội sinh viên Khoa Quốc tế, Đại học Thái Nguyên được một số người hoạt động cùng cho biết, anh thường sử dụng công cụ mạng xã hội để nói lên tình trạng tham nhũng và các vấn đề xã hội khác tại Việt Nam. Truyền thông trong nước dẫn cáo trạng quy kết, từ tháng 3/2015 Phan Kim Khánh đã lập và quản trị 2 trang blog, 3 tài khoản facebook và 2 kênh YouTube để đăng nhiều thông tin mà theo Công An Việt Nam là “có nội dung bịa đặt, xuyên tạc nhằm chống Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, phần lớn được lấy từ các trang mạng phản động khác.” Trần Hoàng Phúc không nhận canh của trại giam vì nghi “có vấn đề” Một tù nhân lương tâm trẻ khác là Trần Hoàng Phúc không nhận canh của trại giam An Phước, tỉnh Bình Phước từ đầu tháng 1 cho tới nay vì nghi thực phẩm của trại giam “có vấn đề’. Thông tin trên được bà Huỳnh Thị Út, mẹ của tù nhân lương tâm này nói với Đài Á Châu Tự Do sau chuyến thăm gặp ngày11/2/2019 như sau: “Cái thức ăn thì lần (thăm gặp) vừa rồi tại sao con có nói cả tháng không nhận canh thì Phúc nói là con nghi ngờ là trong canh có vấn đề, vì khi người ta đầu độc thì con đường dễ nhất và nhanh nhất là chất lỏng nên con không nhận. Chỉ ăn thức ăn gia đình mình gửi vào thôi!” bà Huỳnh Thị Út nói qua điện thoại vào trưa 11/2/2019. Bà Út cũng cho biết thêm thông tin là thuốc đặc trị viêm gan siêu vi C gửi vào cho Trần Hoàng Phúc từ hôm 5/1 thì anh này đã được trại giam cho nhận để điều trị và trong ngày mùng 1 và mùng 3 Tết Kỷ Hợi vừa qua, những tù nhân chính trị trong trại giam An Phước cũng được ra khu giam riêng để giao lưu, trò chuyện với nhau. Anh Trần Hoàng Phúc, sinh năm 1994, đã học hết năm cuối Khoa Luật quốc tế – trường đại học Luật TPHCM, nhưng chưa được trường cấp bằng do tham gia các hoạt động cổ vũ cho quyền con người. Trước lúc bị bắt, Trần Hoàng Phúc là thành viên của nhóm Sáng Kiến Lãnh Đạo Đông Nam Á (YSEALI) do cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama thành lập nhưng bị ngăn đến dự buổi nói chuyện của ông Obama khi ông này đến TPHCM tháng 5/2016. Hồi tháng giêng năm 2018, anh bị TAND Hà Nội tuyên án 6 năm tù giam và 4 năm quản chế cùng với ông Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển trong phong trào Chấn Hưng Nước Việt. Báo chí nhà nước dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát quy kết nhóm 3 người này đã “làm, đăng tải 17 video, clip lên mạng xã hội, Internet và tàng trữ nhiều tài liệu có nội dung phỉ báng chính quyền”. Ông Huỳnh Trương Ca tố bị “ép cung, dụ cung” Người thân của tù nhân lương tâm Huỳnh Trương Ca, thành viên của nhóm Hiến Pháp trong cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do cho hay, ông Ca trong cuộc thăm gặp cuối tháng 1/2019 đã tố cáo một điều tra viên của cơ quan An ninh TPHCM trong giai đoạn điều tra đã “ép cung, dụ cung” ông này để khai ra những người còn lại, nhưng đã từ chối làm theo. “Có một ngày công an điều tra trên Sài Gòn đi xuống ép cung, dụ ông khai ra những người bạn trên Sài Gòn, những người cùng tuyên thệ và dùng lời lẽ thô thiển nạt nộ. Nhưng ông nói mấy người không có quyền nói chuyện với tôi kiểu đó nên ông không khai ra gì hết trơn”, một người thân của ông Ca vì lý do an toàn xin được giấu tên cho biết. Ông Huỳnh Trương Ca, sinh năm 1971, bị Tòa án tỉnh Đồng Tháp tuyên phạt 5 năm 6 tháng tù giam với cáo buộc "làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” hôm 28/12/2018 vừa qua. Người thân của ông Ca cũng tiết lộ trong phiên tòa sơ thẩm, người tù nhân lương tâm này không “tỏ ra ăn năn, hối hận” như báo chí nhà nước tường thuật về phiên tòa và ông cũng không có luật sư bào chữa. Người này cũng cho biết, mặc dù ông Ca bị nhiều chứng bệnh trong người như tiểu đường, cao huyết áp, sỏi thận nhưng cán bộ trại giam từ chối nhận thuốc của gia đình gửi vào. Hiện cũng có những lo ngại cho sức khỏe ông Ca không đủ sức để qua hết án tù vì “điều kiện trong đó khắc nghiệt quá”. Tổ chức Bảo vệ Người Bảo vệ Nhân quyền dẫn lời một thành viên của nhóm Hiến Pháp là bà Nguyễn Uyên Thùy cho hay có tổng cộng 9 thành viên của nhóm này bị bắt trước và sau ngày Quốc khánh 2/9 năm ngoái. Nhóm này được cho là có dự định kêu gọi tiến hành biểu tình ôn hoà vào ngày này để lên tiếng về nhiều vấn đề khác nhau gồm vi phạm nhân quyền, tình trạng tham nhũng có hệ thống, phản ứng yếu ớt của chính phủ Việt Nam đối với vi phạm chủ quyền từ phía Trung Quốc, cũng như quản trị tồi của chính phủ Hà Nội dẫn đến thực tế ô nhiễm môi trường trầm trọng trên cả nước. https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/families-of-prisoners-of-conscience-plea-for-help-02112019070308.html?fbclid=IwAR0SpJXx0XhlME5VyMG6m346GBJ5N7bkO9AzOYnlaMshRvo0wIazCs_GNnI *****   TRẠI GIAM AN PHƯỚC FB Huynh Nghia 11-2-2019 Biết Phúc cả tháng nay không nhận thức ăn của Trại giam An Phước cho nên từ mấy ngày trước, gia đình Phúc đã đi mua thức ăn tiếp tế cho Phúc. Cả đêm thao thức không ngủ, phải dậy sớm nấu cho Phúc bát canh nóng gởi vào cho Phúc ăn nhưng tôi lại thấy vui. Vì cương quyết đấu tranh cho quyền lợi của Phúc và của các tù nhân chính trị trong Trại giam nên thần sắc của Phúc khá căng thẳng. Thuốc đặc trị điều trị viêm gan siêu vi C, Phúc đã được nhận và đang uống. Phúc nói : Con không nhận thức ăn của trại hơn tháng nay vì cách đầu độc nhanh nhất, dễ nhất và hiệu quả nhất là thông qua đường chất lỏng. Cho nên con cương quyết từ chối nhận canh của trại. Thứ hai, khi bị trúng độc THẦN KINH thì qua kiểm tra đường huyết, huyết áp và cân nặng thì không thể phát hiện được. Gia đình nếu mang cân, máy đo huyết áp, máy đo tiểu đường vào đều bị vu cho là mang những thiết bị điện tử vào để làm chuyện vi phạm pháp luật. Cho nên gia đình không được mang những cái này vào trại giam và theo nguyên tắc Bảo vệ pháp lý của Trại thì Trại giam sẽ chịu trách nhiệm sức khỏe của các tù nhân. Trại giam An Phước sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về sức khỏe và tính mạng của Phúc trong thời gian Phúc ở đây và sau này. Mùng 29/12 âm lịch Tết, Giám thị Trại giam An Phước Thượng tá Phùng Văn Tuyến có đến chúc Tết. Phúc đã nhắc lại những yêu cầu về quyền lợi của Phúc và các tù nhân chính trị phải được hưởng theo các Nghị định và Thông tư của Thủ tướng và Bộ trưởng Công an đã ký. Thế nhưng đến nay trại giam An Phước vẫn chưa thực hiện. Ông Tuyến nói rằng qua Tết ông sẽ giải quyết nhưng đến nay ngày 11-2-2019 vẫn chưa thấy ông giải quyết. Phúc nói trong lần thăm gặp tới ngày 5-3-2019, để xem Giám thị Trại giam Phùng Văn Tuyến trả lời như thế nào thì Phúc sẽ nói cụ thể cho gia đình biết. Phúc nói rằng Giám thị Tuyến còn nợ Phúc và các tù nhân chính trị người dân tộc 1 lời xin lỗi. Khu đất phía bên ngoài khu nhốt tù chính trị được Giám thị Trại giam Tuyến khẳng định là đất không thể trồng được rau xanh và không cho trồng. Thế nhưng Phúc và các tù nhân chính trị người dân tộc đã kiên quyết giữ lập trường là trồng được và yêu cầu được trồng. Sau khi được Phúc và các tù nhân người dân tộc ra sức canh tác thì những luống bắp cải và bí đỏ lấy ngọn đã phát triển xanh tốt. Giám thị Tuyến có thừa nhận sai nhưng không xin lỗi. Sách , tập vở của gia đình gởi vào, Phúc đã được mượn vào buồng giam để học, giấy trắng thì mua ở căn tin cho rẻ tiền. Đĩa phim “ Bằng chứng thép “, tôi gởi vào thì đã được chiếu cho các tù nhân chính trị xem trong dịp Tết vừa rồi. Nhật ký thăm nuôi Gia đình cháu Trần Hoàng Phúc  
......

LẠC HẬU CẢ TRĂM NĂM

Fb Luân Lê Sau cả hàng trăm năm, vẫn con trâu theo sau cái cày, cái bừa một cách thô sơ để đi vỡ đất trước mỗi mùa vụ. Nông dân nước Mỹ phun thuốc sâu bằng máy bay, trồng rau, củ, quả và thu hoạch bằng các loại máy cơ giới tự động. Hòa Lan thu hoạch hoa, quả bằng những chiếc máy mà thậm chí không cần tới sự có mặt của con người tại những vườn hoa, rãnh đất. Đất nước nhỏ bé Israel sau mấy chục năm lập quốc trở lại, đã biến sa mạc, các vùng diện tích rộng lớn cằn cỗi, sỏi đá thành những vùng đất sống màu mỡ và phát triển nông nghiệp rực rỡ. Nhật Bản áp dụng công nghệ cao vào và xây dựng một hệ thống nông nghiệp sạch, an toàn và có thể canh tác mọi thời gian trong năm, khiến thế giới còn phải học hỏi và ngưỡng mộ. Mặc dù ta được thiên nhiên ưu đãi cho tài nguyên trù phú, đất đai phì nhiêu, biển đảo rộng lớn, sông ngòi kênh rạch chằng chịt và điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi, nhưng cả hàng trăm năm trôi qua vẫn hiển hiện tình trạng cái cày đi trước con trâu và con người mặc chiếc áo tơi lẽo đẽo theo sau cuối cùng. Con trâu, cái cày vẫn là biểu tượng của nông nghiệp; cái loa vẫn là biểu trưng tuyên bố của công nghệ; dây rợ nặng trĩu giăng mắc lủng lẳng trên đầu với các cây cột yếu ớt cắm đầy mặt đất vẫn là phương tiện truyền dẫn điện, thì bao giờ mới có nền tảng khoa học công nghệ? Các ông nên ngồi lại với nhau và bắt đầu bằng những chính sách vĩ mô thiết thực và cụ thể, đừng để người dân xây cái chòi vịt bị cưỡng chế phạt lên phạt xuống; trồng cái cây cái que, nuôi mấy con gia cầm, súc vật cũng củ hành củ tỏi, vòi vĩnh đủ thứ, kiểm tra ráo riết, phạt vạ đủ đường; làm cái thủ tục đăng ký hoạt động cũng lên bờ xuống ruộng vì mấy cái dấu chấm, phẩy, đẩy hết cơ quan này tới ban ngành khác, tổ chức nọ; một quả trứng gánh 14 loại thuế, phí hay một cái kẹo cao sao phải chịu tới 13 loại phí, thuế; nhà khoa học thì không có dụng cụ thí nghiệm; đề tài khoa học nghiên cứu xong vứt vào ngăn kéo; trí thức từ nước ngoài về nước thì thất nghiệp, từ trong nước thì tìm mọi cách ra đi... Nếu các vị lãnh đạo cao cấp cứ mỗi mùa vụ lại mặc áo nâu rồi thủng thẳng đi sau cái cày và con trâu, đất nước sẽ tụt lại trước những hố sâu rãnh cày của các ông đấy.
......

Ngân sách 2019 có ‘thu cùng diệt tận’ được như dự toán?

Một cách cầm chắc như niềm tin vào chủ nghĩa xã hội của ‘Tổng Chủ’ Nguyễn Phú Trọng không suy xuyển và ‘đất nước ta có bao giờ được như thế này không’ của cùng tác giả, Quốc hội đã cắm mặt gật đầu với dự toán thu ngân sách năm 2019 với số thu lên đến 1.411 ngàn tỷ đồng để phục vụ cho số chi ngân sách, trong đó có hơn 70% chi thường xuyên cho đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức chỉ tăng không giảm với 30% trong số đó ‘sáng cắp ô đi tối cắp ô về’ – lên đến 1.633 ngàn tỷ đồng. Được đằng chân lân đằng đầu Liên tiếp trong nhiều năm qua, dự toán thu ngân sách năm sau đều được ‘quyết’ tăng hơn nhiều so với năm trước – từ 10 đến 12% vào thời kỳ kinh tế còn chưa rơi hẳn vào cơn suy thoái nhưng vẫn vống đến 8 đến 9% trong những năm gần đây, bất chấp phản ứng gay gắt của dư luận xã hội và tiếng kêu than oán ‘doanh nghiệp và sức dân đã cạn’, mà bằng chứng thảm thiết nhất là tỷ lệ doanh nghiệp phải ngừng hoạt động và phá sản cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới. Nhưng nếu số thu ngân sách năm 2018 vẫn cố ép thu và vẫn vượt dự toán khoảng 3%, thì số thu ngân sách năm 2019 đầy tham lam và duy ý chí sẽ rất có thể va phải bức tường kiên cố của tình trạng ‘thu không bền vững’ từ bất động sản, dầu khí và khối doanh nghiệp. Nguy biến từ ‘nguồn thu không ổn định’ Kết quả thu ngân sách năm 2018 đối với khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đã bị giảm thu từ hơn 2% đến gần 3% so với dự toán, trong khi khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài – một trong những niềm tự hào lớn nhất của ngành thuế Việt Nam trong nhiều năm qua – còn tồi tệ hơn nhiều: giảm thu đến 15% so với dự toán. Trong khi đó, một bản báo cáo của cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được công bố vào tháng Mười năm 2018 đã phải thừa nhận rằng số thu vượt dự toán năm 2018 chủ yếu từ các nguồn thu về nhà, đất và dầu thô, trong đó nhà, đất tăng 35,9%, dầu thô tăng 53,2%. Tuy nhiên, thu từ đất không ổn định còn thu từ dầu thô chủ yếu do giá dầu lập dự toán thấp hơn thực tế ($73,5/$50/thùng) và sản lượng ước tăng 450 nghìn tấn. Nỗi lo lắng của cơ quan Kiểm toán Nhà nước về nguồn thu từ nhà đất và dầu thô “không ổn định” (hay còn được xem là “cấu trúc thu không bền vững”) cũng chính là tâm trạng lo sợ không nguôi của chính thể độc đảng ở Việt Nam: nếu trong năm 2019 và những năm sau đó mà hai nguồn thu này vẫn “không ổn định” theo chiều hướng suy giảm chứ không tăng vọt ồn ào như năm 2017 và 2018 – đặc biệt đối với thu thuế buôn bán nhà đất, ngân sách nhà nước và ngân sách đảng sẽ tìm đâu ra nguồn mới để bù đắp cho cái miệng rộng ngoác như hàm cá mập của quốc nạn bội chi ngân sách, chi xài lãng phí vô tội vạ cùng quốc nạn tham nhũng mà đang nhấn chìm xã hội Việt Nam xuống tầng dưới cùng của địa ngục thời hiện đại? Và nếu quả bom bất động sản nổ, hoặc không nổ đột ngột thì sẽ phải xì hơi dần, chắc chắn mật độ thương vụ mua bán đất đai sẽ giảm dần hoặc giảm mạnh, kéo theo số thu thuế từ giao dịch đất đai sẽ giảm đáng kể trong những năm sau. Khi đó, ngân sách sẽ khó còn có nguồn thu tăng thêm từ tiền đất lên đến 60.000 – 70.000 tỷ đồng/năm, trong khi nguồn thu từ 3 khối kinh tế đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn không có gì khả quan hơn trong thời buổi kinh tế ngập ngụa suy thoái. Thế tiến công ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’ của đảng và quốc hội Việt Nam còn bị giáng cho một cú thất thần: vào cuối năm 2018, giá dầu thô thế giới lao dốc thảm hại từ mức hơn 73 USD/thùng xuống chỉ còn chưa đầy 50 USD/thùng, tức sụt đến 30%. Dự toán thu ngân sách năm 2019 về dầu thô của Việt Nam cũng bởi thế rất có thể sẽ ‘trật đường rầy’ và mất đi một khoản tiền lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Trong lúc đó, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) cho biết nhu cầu dầu thế giới vẫn được dự báo sẽ vượt hơn 100 triệu thùng/ngày vào năm 2019. Trong lúc triển vọng nhu cầu yếu hơn, OPEC và Nga vẫn tăng sản lượng, và nguồn cung tại Mỹ cũng nhảy vọt. Vào năm 2014 khi giá dầu thô thế giới còn ngất ngưởng ở vùng trên 100 USD/thùng, các cơ quan Việt Nam đã mạnh tay dự báo giá dầu sẽ còn tăng hơn nữa, hoặc có giảm cũng không đáng kể. Tuy nhiên sau khi lập đỉnh, giá dầu thô thế giới đã lao dốc không phanh, giảm đến hơn 50% và rơi về vùng 45 – 50 USD/thùng, khiến ngân sách Việt Nam bị ‘hụt thu’ đến 50.000 – 60.000 tỷ đồng/năm. Rất có thể là khi dự báo giá dầu thế giới vào năm 2017, các cơ quan Việt Nam đã căn cứ vào tình hình thực tế khi đó là giá dầu chưa tăng mạnh mà vẫn chỉ quanh quẩn ở vùng 50 USD/thùng. Nhưng họ không ngờ là vào cuối năm 2017 và sang đầu năm 2018, giá dầu thô thế giới bắt đầu tăng rồi tăng mạnh, lên đến hơn 70 USD/thùng. Còn giờ đây, dự báo về giá dầu thô của chính phủ Việt Nam lại một lần nữa phải… xuống theo thế giới. Giới quan chức ‘còn dầu còn đảng’ và ‘còn đảng còn mình’ chỉ mong ngóng giá dầu tăng để tăng thu ngân sách và do đó tiếp tục duy trì chính đảng độc trị được ngày nào hay ngày đó… có lẽ đang tràn trề thất vọng vì mất tiền. Vậy ngân sách nhà nước năm 2019 sẽ lấy đâu ra tiền để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức “còn đảng còn mình” mà có ít nhất 30% trong số đó ăn không ngồi rồi? Lại in tiền ồ ạt? Nhưng vào lúc này, ngay cả thao tác in tiền để “bù đắp khó khăn ngân sách” đang trở nên quá nguy hiểm trong bối cảnh lạm phát thực tế đã lên tới vài ba chục phần trăm mỗi năm chứ tuyệt đối không phải “được kềm chế dưới 5%/năm” như các báo cáo chính phủ bất cần biết dân chúng và dân sinh. Chỉ so sánh con số tổng dư nợ tín dụng cho vay vào thời điểm năm 2008 là 2,3 triệu tỷ đồng và vào năm 2017 lên đến khoảng 7 triệu tỷ đồng – tức gấp đến 3 lần, thì trong gần một chục năm qua Bộ Chính trị đảng và Ngân hàng Nhà nước rất có thể đã phải cho in tiền từ 400.000 – 500.000 tỷ đồng/năm, đặc biệt vào thời Nguyễn Tấn Dũng “tiền ra như nước Sông Đà”. Chỉ còn cách tăng thuế. Thuế, thuế và thuế! “Việt Nam cần thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững về các nguồn thu Chính phủ và bảo đảm rằng các nguồn lực được đầu tư một cách có hiệu lực và được sử dụng có hiệu quả. Về vấn đề này, báo cáo nghiên cứu khuyến nghị Chính phủ tiếp tục mở rộng nguồn thu trong nước từ thuế như là một nguồn thu bền vững hơn và đáng tin cậy hơn” – theo một khuyến cáo được các chuyên gia đưa ra tại Báo cáo đánh giá tình hình tài chính cho phát triển bền vững tại Việt Nam, được công bố vào chiều 11/9/2018 tại Hà Nội. Báo chí nhà nước cho biết ‘báo cáo này được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam đặt hàng và do một nhóm chuyên gia biên soạn, với mục tiêu tổng quát là hỗ trợ Việt Nam trong nỗ lực cải cách việc huy động, sử dụng và quản lý tài chính cho phát triển, nhằm thực hiện Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030’. Nhưng ai có thể tưởng tượng rằng tổ chức Liên Hợp Quốc – lấy giá trị căn bản tồn tại là phát triển bền vững và công bằng giữa các giai tầng – lại khuyến khích chính thể độc đảng ở Việt Nam đè thuế lên đầu dân càng nhiều càng tốt để bảo vệ cho chế độ chỉ còn hơi thở lụi tàn ấy? Hoặc chính là ‘các chuyên gia’ của chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam đã lợi dụng nguồn kinh phí được tài trợ từ UNDP để ‘nghiên cứu’ theo phương châm ‘lấy mỡ nó rán nó’: mở rộng diện thu thuế để tăng thu ngân sách trên danh nghĩa UNDP đứng phía sau khuyến nghị này. Các mưu đồ tăng thuế lại xảy ra trong bối cảnh dân tình Việt ngày càng khốn khó trong một nền kinh tế đã rơi vào thảm trạng suy thoái đến năm thứ 10 liên tiếp, một xã hội bị acid đậm đặc bởi căn bệnh tham nhũng không còn cách gì cứu chữa. Thuế chồng thuế, chồng lên đôi vai gầy guộc của người nghèo. Hàng triệu bệnh nhân, vốn đã bị các bệnh viện “bóp cổ bóp họng” và “không có tiền thì chỉ có chết,” sẽ phải nuốt nước mắt vào lòng với biểu viện phí chất cao như núi… Thói vô tâm, vô cảm và vô trách nhiệm của giới quan chức chính quyền đã tích tụ từ nhiều năm qua và mang tính hệ thống. Tăng giá và thuế má là một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt. Một đảng Cộng sản ‘của dân, do dân và vì dân’ nhưng đang đẩy dân chúng vào cảnh tàn mạt bởi chế độ ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’. Nhiều người dân ở các tỉnh đói nghèo ấy thốt lên: “Túi chẳng còn gì để nộp thuế nữa. Nếu nhà nước cứ tróc nã thì dân chỉ còn cách hoặc trốn đóng hoặc phản ứng tự vệ thôi”. Thực tế ít nhất 1/3 trong số 63 tỉnh thành thu ngân sách không đạt kế hoạch năm 2018 là một bằng chứng sống động về thực tế ‘trong dân chẳng còn tiền để thu’. Thậm chí ngay cả ‘con bò sữa’ Sài Gòn cũng chỉ đạt kế hoạch thu ngân sách 2018 khoảng 98%. P.C.D.  
......

Mỹ-Trung-Triều-Việt

Nguyễn Việt Nam| Câu hỏi tại sao cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ-Triều Tiên lại lựa chọn Việt Nam là nơi tổ chức đã được một số chuyên gia phân tích khá kỹ càng. Theo quan điểm của Nam thì thực chất thì nó cũng chẳng phải là vì Việt Nam thân thiện hay là nới đã từng tổ chức thành công một số sự kiện như báo chí Việt Nam đưa ra. Giữa bối cảnh căng thẳng trong mối quan hệ Mỹ-Trung, Biển Đông như hiện nay thì Trump chọn Việt Nam là có thông điệp muốn gửi đến Trung Quốc và đưa Việt Nam vào thế trung lập để trêu ngươi Trung Quốc. Triều Tiên và Việt Nam trước giờ được coi là hai nước phụ thuộc chính trị vào Trung cộng. Đặc biệt là Triều Tiên là con cờ được Trung cộng dùng như một tay chí phèo để nhằm chiếm ưu thế trong các phi vụ đàm phán với Mỹ và một số nước đồng minh như Hàn Quốc và Nhật Bản. Việt Nam thì trước giờ đỡ hơn vì chính sách ngoại giao đu dây giữa hai cường quốc này nhưng thực chất vẫn bị Trung cộng điều khiển. Đặc biệt Việt Nam đang dính trực tiếp vào vấn đề Biển Đông giữa Mỹ- Trung Quốc. Trump chọn gặp Kim ở Việt Nam vừa là khẳng định với Trung cộng rằng Triều Tiên và Việt Nam không còn là của Trung cộng nữa. Triều Tiên sẽ dần như Việt Nam mà thôi. Đặc biệt Việt Nam đã chấp nhận, hoan nghênh cuộc gặp này tức là đã chấp nhận sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông và sẵn sàng đứng trung lập giữa tranh chấp Mỹ- Trung. Và chính quyền của anh Trọng cũng bị đưa vào thế khó, chỉ được ngồi xem chứ khó mà có thể nghiêng về Trung cộng trong các chính sách cạnh tranh của Mỹ- Trung Quốc trên Biển Đông. Bởi vì ông đã đứng trung lập để giải quyết vấn đề Mỹ- Triều Tiên thì vấn đề Mỹ- Trung Quốc cũng vậy trong khi đó Trung- Việt- Triều là ba thằng cộng sản với nhau. Có lẽ đây là chính sách chia để trị của bên Trump. Kiểu như chia rẽ ngoại giao để giảm bớt sức mạnh. Còn một mục đích khác Nam nghĩ có thể Trump muốn cho Kim thấy tình hình kinh tế, vị thế, sự phát triển của Việt Nam hiện nay để Kim thấy rằng nếu Kim mở cửa, bình thường hóa quan hệ với Mỹ và thế giới thì sẽ được như Việt Nam hiện nay và Kim nên đi theo con đường của Việt Nam và vẫn giữ nguyên được sự thống trị của mình. Tuy nhiên ta vẫn phải nhắc lại rằng Việt Nam là một ước mơ với Triều Tiên nhưng còn thua xa rất nhiều so với thế giới. Có lẽ mục đích để Kim nhìn thấy Việt Nam là để tăng độ thành công của cuộc gặp và tiến trình phi hạt nhân hóa ở Triều Tiên cũng như từ bỏ vai trò làm chí phèo cho Tàu cộng. Cái khó cho bên anh Trọng là đã gật đầu ngồi xem và bị đưa vào thế cổ vũ cho Triều Tiên thoát Trung cộng. Tuy nhiên cuộc chơi này còn dài. Khả năng Triều Tiên có thể đi theo Việt Nam, bình thường hóa quan hệ, tự cởi trói cho mình là khá cao nhưng vấn đề Biển Đông còn nhiều rắc rối. Cuộc chơi giữa Mỹ- Trung không còn là thương mại mà là chiến lược toàn diện rồi. Việt Nam đang bị đưa vào thế kẹt giữa hai cường quốc này và có lẽ Trump muốn Việt Nam chỉ ngồi xem và gật để Trump và đồng minh hiện diện ở Biển Đông. Còn việc lựa chọn Đà Nẵng hay Hà Nội làm nơi tổ chức thì Nam cho rằng nó đơn giản chỉ vì nơi này từng tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế, nó có sự chuyên nghiệp nhất định trong công tác tổ chức, an ninh mà thôi chứ không có nhiều lý do hay thông điệp dài dòng gì mà Trump gửi gắm vào hai từ “Đà Nẵng” hay “Hà Nội ” cả./.
......

‘Quán’ thế nào mới không bị ‘triệt’?

Tưởng niệm chiến tranh biên giới 1979 - 2016. Trân Văn – VOA Người Việt giờ chẳng lạ gì hai chữ “quán triệt” nhưng cách nhìn, lối hành xử với Trung Quốc đầy mâu thuẫn, phức tạp và khó hiểu như vậy thì phải “quán” thế nào mới không bị “triệt”? Từ 1 tháng 2 đến 5 tháng 2, ông Vũ Mão (cựu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN – BCH TƯ đảng CSVN – suốt từ khóa 5 tới khóa 9, cựu Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam liên tục trong ba khóa 9, 10 và 11) đưa lên trang facebook của ông năm bài trong loạt bài có tựa là “Một thời Đông Bắc” (1). Ông Mão giải thích, ông viết “Một thời Đông Bắc” vì đã cận kề 17 tháng 2, thời điểm mà cách nay đúng 40 năm, Trung Quốc xua đại quân tràn sang Việt Nam để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Tuy không nhiều nhưng “Một thời Đông Bắc” có không ít chi tiết cho thấy, Trung Quốc chưa bao giờ tử tế, kể cả khi đang giúp Việt Nam đánh Mỹ. Từ khi Việt Nam “bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc” hồi đầu thập niên 1990, đây có lẽ là lần đầu tiên, một Ủy viên BCH TƯ đảng CSVN, tường thuật công khai về cuộc chiến vệ quốc, ca ngợi những cá nhân hữu công trong việc kháng cự cuộc xâm lược của Trung Quốc. *** Cũng thời điểm này, ông Nguyễn Đình Bin (một cựu Ủy viên khác của BCH TƯ đảng CSVN, đồng thời từng là Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam), cũng dùng trang facebook của mình để “Kỷ niệm 40 năm Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc”. Khác với ông Mão, ông Bin không kể nhiều, bình nhiều mà trích dẫn hai bài phát biểu của Fidel Castro. Một vào ngày 26/7/1978 – bảy tháng trước khi Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam. Một vào ngày 21/2/1979 – lúc quân đội Trung Quốc đang phá sạch, đốt sạch mọi thứ, giết sạch những người Việt cư trú sát biên giới, không kịp chạy trốn. Trước khi quân đội Trung Quốc tràn sang Việt Nam, ông Castro đã nhấn mạnh: Chẳng ai không biết, phía sau chủ nghĩa cực đoan Campuchia là chủ nghĩa Maoist và bè lũ cầm quyền Trung Quốc. Không ai không biết bè lũ cầm quyền ấy đứng sau các cuộc khiêu khích chống phá Việt Nam. Sau đó, lúc quân đội Trung Quốc đang gieo rắc đau thương trên lãnh thổ Việt Nam, ông Castro nhấn mạnh, nỗ lực “dạy cho Việt Nam một bài học” ấy của Trung Quốc là một trong những hành vi đáng tởm nhất, hèn hạ nhất, khốn nạn nhất mà chúng ta chưa từng chứng kiến và nó sẽ khó lòng bị kẻ khác vượt qua… *** Đã có không ít người hoan nghênh ông Mão, ông Bin. Một số người khác thì tin rằng, hệ thống… đèn của Ban Tuyên giáo thuộc BCH TƯ đảng CSVN vẫn còn… xanh, chưa chuyển sang… đỏ. Trung tuần tháng trước, từng có rất nhiều cơ quan truyền thông chính thức lên án Trung Quốc cưỡng đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam cách nay 45 năm. Ở Việt Nam, chỉ trích Trung Quốc, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài biển Đông, không phụ thuộc vào yếu tố có ái quốc hay không mà lệ thuộc hoàn toàn vào hệ thống… đèn tín hiệu của giới lãnh đạo đảng CSVN. Không chịu nhìn… đèn là… vỡ mặt. Cũng bởi như thế, cách nay năm năm, ông Đoàn Văn Thuận, nhân viên Đội Trật tự giao thông và giữ xe của Công ty Dịch vụ công ích Thanh niên xung phong, mới được Chủ tịch TP.HCM tặng bằng khen vì “xuất sắc trong công tác đấu tranh phòng, chống biểu tình phản đối Trung Quốc hạ, đặt giàn khoan trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố tháng 5 năm 2014” (3). Hệ thống… đèn tín hiệu lúc xanh, lúc đỏ trong việc đụng đến Trung Quốc, khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông, chưa phải là yếu tố duy nhất khiến dân chúng Việt Nam thập phần hoang mang, không biết đường nào mà lần. Thực tế cho thấy, sự… “tài tình” của giới lãnh đạo đảng CSVN nằm ở chỗ, ngay cả khi đèn đang… xanh, muốn đi tới cũng phải nhìn trước, ngó sau. *** Trung tuần tháng trước, giữa lúc mạng xã hội và hệ thống truyền thông chính thức cùng nhau tưởng niệm, bày tỏ sự tri ân 75 người Việt hi sinh tính mạng khi bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, cách nay đúng 40 năm (19/01/1974 – 19/01/2019), một số sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam như ông Hoàng Kiền, Thiếu tướng, cựu Tư lệnh Công binh của Quân đội nhân dân Việt Nam, một trong các Anh hùng Lực lượng vũ trang, đăng đàn, khẳng định, “cần lên án mạnh mẽ, vạch trần tội lỗi” của cả chính quyền lẫn quân đội… “ngụy Sài Gòn” và “ghi vào quốc sử” vì đã để mất quần đảo Hoàng Sa. Ông Kiền phê phán mạnh mẽ một số nhà sử học, nhà báo, cựu chiến binh Quân đội nhân dân Việt Nam, không chịu tìm hiểu kỹ, nhận thức chưa đúng nên “hùa theo giọng điệu” các đối tượng chống đối đảng CSVN. Việc ca ngợi những tử sĩ bỏ mình cách này 40 năm là “sai lầm nghiêm trọng, cần bác bỏ”, thậm chí “ai đòi vinh danh ‘chúng’ là phản bội tổ quốc” (4). Năm ngoái, “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử”, ấn phẩm đầu tiên hệ thống hóa những dữ kiện liên quan tới chuyện Trung Quốc cưỡng đoạt các bãi đá ngầm thuộc chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa hồi đầu năm 1988, được… in – xuất bản – phát hành một cách… hợp pháp trên… lãnh thổ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bị thu hồi cũng vì phản ứng dữ dội của một số ông tướng quân đội như ông Hoàng Kiền. Cho dù chính quyền Việt Nam từng thành lập một hội đồng cấp quốc gia để thẩm định nội dung của riêng “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử”. Sau khi nâng lên, đặt xuống nhiều lần, hội đồng này mới gật đầu, giấy phép xuất bản mới được cấp cho nhà xuất bản thứ 14 (Nhà Xuất bản Văn học) nhưng chỉ cần một số ông tướng quân đội cáo buộc, “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử”… tiếp tay cho âm mưu ‘bài Trung, phò Mỹ, lật sử, dựng cờ vàng, thay chế độ’ của các thế lực thù địch, tiến hành ‘diễn biến hòa bình’ chống phá chế độ ta” thì bất kể ai thẩm định, thẩm định kỹ lưỡng cỡ nào cũng… vô giá trị. *** Kể về “Một thời Đông Bắc”, ông Mão nhận định, dẫu Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam cả khi chống Pháp lẫn lúc chống Mỹ nhưng “nhìn sâu vào vấn đề, có thể thấy họ không muốn các thế lực đế quốc đánh thắng Việt Nam để áp sát biên giới phía Nam của Trung Quốc (6)”. Rõ ràng không thể bảo một người như ông Mão thiếu vững vàng về… tư tưởng và thiếu kiên định về… lập trường, song nếu ông Mão đúng và nhìn lại quá khứ, đúng là ông Mão không sai thì phải xếp những cá nhân thuộc giới lãnh đạo đảng CSVN, liên tục bày tỏ sự biết ơn vô hạn với Trung Quốc vì đã giúp đỡ Việt Nam tận tình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc vào loại nào? Tại sao giới lãnh đạo đảng CSVN luôn ca tụng Fideo Castro nhưng lại bỏ ngoài tai những cảnh báo của Castro về Trung Quốc cách nay 40 năm. Thậm chí hết ông tướng quân đội này đến ông tướng quân đội khác, đồng thanh minh định, sự tương đồng ý thức hệ (một đảng lãnh đạo) là “di sản quý báu của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc” như tướng Nguyễn Chí Vịnh. Những ông tướng như ông Vịnh còn không ngừng nhắc đi, nhắc lại, “điểm tương đồng đó đã tạo ra mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc”, “chi phối cách ứng xử của hai nước” bởi “nếu có được một người bạn xã hội chủ nghĩa rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Những tuyên bố kiểu đó khác gì chửi cha Fidel Castro? *** Người Việt giờ chẳng lạ gì hai chữ “quán triệt” nhưng cách nhìn, lối hành xử với Trung Quốc đầy mâu thuẫn, phức tạp và khó hiểu như vậy thì phải “quán” thế nào mới không bị “triệt”? Chú thích (1) https://www.facebook.com/mao.vu.98 (2) https://www.facebook.com/dinh.nguyen.94009841/posts/2189146294481024 (3) https://nghiepdoanbaochi.org/2018/10/14/tang-bang-khen-cho-nguoi-co-thanh-tich-xuat-sac-dan-ap-nguoi-bieu-tinh-chong-trung-quoc-xam-luoc/ (4) https://www.facebook.com/photo.php?fbid=681480635582194&set=a.134555203608076&type=3&theater (5) https://thienhasu2018.com/2018/08/27/gac-ma-vong-tron-bat-tu-chong-lai-the-luc-doi-thieu-huy/ (6) https://www.facebook.com/mao.vu.98/posts/1192081874278658  
......

Đại diện Việt Tân SYDNEY vận động KÝ THỈNH NGUYỆN THƯ gửi Thủ tướng Úc

Đại diện Việt Tân SYDNEY vận động KÝ THỈNH NGUYỆN THƯ gửi Thủ tướng Úc trong đêm văn nghệ Hội Chợ Tết do CĐNVTD NSW tổ chức Kính thưa ông chủ tịch CĐNVTD/NSW, Kính thưa quý đại diện hội đoàn, đoàn thể, các tổ chức. Kính thưa quý đồng hương. Thay mặt cho toàn thể anh chị em Việt Tân tại NSW xin cảm ơn ông Paul Huy Nguyễn, Chủ tịch CĐNVTD tại NSW và BCH đã cho tôi lên đây để chia sẻ cùng quý vị về sự kiện liên quan đến ông Châu Văn Khảm, người hoạt động đấu tranh tại Úc châu bị nhà quyền CSVN bắt giữ vào ngày 13/1/2019, cho đến nay vẫn chưa được trả tự do. Kính thưa quý vị, Ông Châu Văn Khảm là ai? Ông là cựu sĩ quan quân lực VNCH đã đến Úc hơn 30 năm, Kể từ những ngày đầu bỡ ngỡ trên xứ lạ, phải vật lộn với đời sống mới, rồi trở thành một doanh nhân bận rộn với mưu sinh, nhưng Ông Châu Văn Khảm không lúc nào nguôi ngoai ấp ủ ước mơ Tự Do-Dân Chủ cho đất nước Việt Nam , Ông Châu Văn Khảm là khuôn mặt rất quen thuộc và rất tích cực trong các công việc đấu tranh và hỗ trợ trong cộng đồng NSW. Ông Khảm là thành viên và là trưởng cơ sở của Đảng Việt Tân tại Sydney. Kính thưa quý vị, Trong chuyến công tác trên đường trở về Việt Nam với mục đích là tìm hiểu và kiểm định tình hình thực tế nhân quyền tại Việt Nam, Nhưng không may ông đã bị CSVN bắt giữ tại Sài Gòn, cùng với một thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ là ông Nguyễn Viễn. Sau khi chúng tôi biết được ông Khảm bị bắt. Chúng tôi và gia đình ông Khảm đã thông báo cho Bộ Ngoại Giao và Tòa đại sứ Úc tại Việt Nam biết và yêu cầu TĐS Úc liên lạc với nhà cầm quyền CSVN xác nhận đã bắt giữ ông Khảm và vào tù để thăm ông Châu Văn Khảm. Trong việc vận động trả tự do cho ông Châu Văn Khảm. Việt Tân đã gửi thông cáo báo chí cho nhiều cơ quan truyền thông và hãng thông tấn ngoại quốc và việt ngữ. Khi nhận được thông tin trên hầu hết các tờ báo lớn tại Úc như Sydney Morning Herald, Australian, ABC và nhiều thông tấn ngoại quóc như BBC, RFA, AFP….đều đi tin và có thể nói rằng dư luận Úc cũng như các quốc gia khác quan tâm đã trở thành một sự kiện được thế giới chú ý. Ngoài ra Việt Tân và gia đình cũng đã vận động các dân biểu viết thư cho Bộ Ngoại Giao và Tòa Đại Sứ Úc tại VN yêu cầu lên tiếng đòi hỏi trả tự do cho ông Châu Văn Khảm trở về vói gia đình..các dân biểu liên bang như Chris Hayes, Jason Clare, Julian Hills, Milton Dick, …đã gửi thư cho bà Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao và chúng tôi vẫn còn đang tiếp tục vận động các dân biểu khác… Và chúng tôi được biết CĐNVTD Liên bang Úc châu, Tổng Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Úc châu và NSW, Khối 8406, gia đình thủ đức Tây Úc cũng đã viết thư gửi cho bộ ngoại giao úc nhờ can thiệp và áp lực CSVN phải trả tự do cho ông Châu Văn Khảm. Chúng tôi và gia đình ông Khảm được biết Phái đoàn của TĐS Úc đã vào tù gặp Ông Châu Văn Khảm. Và họ vẫn còn đang tiếp tục làm việc với nhà cầm quyền CSVN về trường hợp của ông Khảm. Hiện nay Việt Tân đang nỗ lực xin chữ ký của các đồng hương khắp nơi để gửi đến Thủ tướng Úc và yêu cầu thủ tướng Úc lên tiếng về trường hợp bắt phi lý một công dân Úc. Chúng tôi rất mong quý đồng hương hãy lên tiếng bằng cách ký vào thỉnh nguyện thư để gửi Thủ tướng Úc yêu cầu áp lực CSVN phải trả tự do cho ông Châu Văn Khảm Một lần nữa chúng tôi xin chân thành cảm ơn CĐNVTD Liên Bang Úc Châu và NSW, Tổng Hội CQN quân lực VNCH Úc Châu và NSW, Khối 8406, Gia đình Thủ Đức Tây Úc cũng như quý đồng hương đã quan tâm và vận động trả tự do cho ông Châu Văn Khảm trong thời gian qua. THÀNH THẬT CẢM ƠN! Le Anh Bấm vào link ký THỈNH NGUYỆN THƯ https://www.change.org/p/scott-morrison-prime-minister-scot…
......

Một Trịnh Xuân Thanh thứ hai?

Mặc Lâm -  VOA Những ngày này cộng đồng mạng bàn tán nhiều về sự mất tích cuả nhà báo, blogger Trương Duy Nhất với nhiều giả thiết căn cứ trên những thông tin từ nhiều phía. Tuy nhiên câu hỏi ai bắt Trương Duy Nhất và tại sao lại bắt anh là câu hỏi lửng lơ không ai có thể giải mã được ít nhất là trong lúc này. Trương Duy Nhất vắng bóng tại Việt Nam hơn 1 tháng về trước, nhiều người tin rằng trong thời gian đó anh đã bí mật chạy sang Campuchia bằng con đường bất hợp pháp và ít lâu sau anh tiếp tục theo đường dây đưa người sang Thái Lan, bắt đầu cho cuộc chạy đua với an ninh Việt Nam để cuối cùng anh gõ cửa Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn (United Nations High Commissioner for Refugees, UNHCR) chính thức nộp đơn xin tỵ nạn chính trị. Nhiều nguồn tại Thái Lan xác nhận trong đó có cả sự xác nhận của UNHCR về lá đơn của anh nộp tại đây. Và vào chiều tối ngày 26 tháng 1 năm 2019 trong khi đến Future Park, thuộc quận Rangsit ngoại ô Bangkok anh biến mất không để lại chút tăm tích nào. Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan được thông báo về vụ việc và họ nói không hay biết gì về sự mất tích của anh. Từ đó, người ta lần tới một giả thiết khác: Có lẽ lực lượng an ninh Việt Nam đã theo dõi Trương Duy Nhất từ khi anh bắt đầu rời Việt Nam và bắt anh tại Thái Lan, nơi người Việt sinh sống bất hợp pháp khá nhiều, rồi sau đó mang anh về Việt Nam. Câu hỏi đặt ra, lý do gì làm cho Trương Duy Nhất trở thành một phạm nhân mang trọng tội đến nỗi phải trốn tránh sang đất Thái và tại sao an ninh Việt Nam bắt anh mà không phải là cảnh sát Thái Lan? Nhiều người cho rằng Trương Duy Nhất dính líu đến vụ án Vũ Nhôm, vì anh từng làm việc cho báo Đại Đoàn kết và có thời gian đại diện chính thức tại Đà Nẵng, trong khi báo này chuyển nhượng Văn phòng đại diện ở miền Trung, mà tờ báo xin mua theo diện công sản nhà nước vào năm 2004, cho Công ty Xây dựng 79 của Vũ “nhôm” vào năm 2011 để Vũ biến nơi đây thành nhà riêng của mình, trong thời gian này Trương Duy Nhất có chấm mút gì tới Vũ Nhôm hay không vẫn lại nằm trong giả thiết khiến anh phải bỏ trốn. Nhưng nhìn kỹ lại chi tiết này thì Trương Duy Nhất không phải là một chuyên gia về móc nối cho Vũ Nhôm khuynh đảo đất đai tại Đà Nẵng mặc dù trong thời gian Nguyễn Bá Thanh còn hét ra lửa tại đây thì Trương Duy Nhất là người có thể quàng vai bá cổ “anh Thanh” với tính cách nhà báo thân thiết cho tới khi Nhất bỏ bút không làm báo nữa mà về nhà viết Blog. Nếu Trương Duy Nhất chịu làm ăn với Vũ “nhôm” thì anh không buông bút và chịu 2 năm tù về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Bởi lý do dễ hiểu khi đã viết bài chống lại chế độ thì anh không thể làm ăn phi pháp núp bóng người của chế độ mà anh đang phản biện mạnh mẽ như trang “Một góc nhìn khác” của blogger Trương Duy Nhất. Vậy anh còn giữ bí mật nào khác đối với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, là đồng hương của anh và anh cũng từng phê phán ông này cật lực sau khi mãn hạn tù về sinh sống tại Đà Nẵng? Giả thiết này cũng không đứng vững vì Trương Duy Nhất không phải là một “ngôi sao” trong làng báo chí Việt Nam để có trong tay những câu chuyện thâm cung bí sử, hay bí mật cá nhân của tứ trụ triều đình. Sau hai năm tù tội, thật khó thể cho rằng anh nắm được bí mật của bất cứ ai trong những chiếc ghế cao nhất nước, vì làm sao anh tiếp cận được với những nhân vật sau lưng hậu trường để có được những thông tin mà một nhá báo thường thường không thể nào nắm được? Vậy thì một lần nữa: Ai bắt Trương Duy Nhất và tại sao? Lần theo dấu vết của câu chuyện từ khi anh trình báo xin tỵ nạn với UNHCR cho tới khi mất tích anh đã xuất hiện nhiều lần tại một khách sạn ở ngoại ô Bangkok với giấy tờ tùy thân không hợp lệ vì anh không dùng hộ chiếu Việt Nam để vào Thái Lan. Một người Việt đang sống ở Thái đã giúp anh đăng ký khách sạn và vì vậy cảnh sát Thái không thể có dữ liệu về sự xuất hiện của anh ngoại trừ chính người giúp anh lên tiếng. Tuy nhiên không ai dám lên tiếng việc này nếu không muốn vào nhà giam của Thái. Trương Duy Nhất trước khi mất tích đã gọi vài cuộc gọi cho người thân, bạn bè tại Thái nhưng do sử dụng điện thoại không an toàn anh bị nghe lén và đã có người gọi cho anh một cách lơ lửng như thăm dò sự nghi ngờ của họ. Trương Duy Nhất đã cho người quen biết về hiện tượng này trước khi anh bị bắt. Đặc vụ Việt Nam rất giỏi về tiếp cận con mồi thông qua tay chân, cảm tình viên và ngay cả sự vô tình của nhân viên nước sở tại. Vụ án Trịnh Xuân Thanh trước đây so với việc bắt giữ Trương Duy Nhất phức tạp hơn nhiều, tuy nhiên nó cùng chung một bản chất nếu thực sự do Tình báo Việt Nam chủ mưu. Nếu Trịnh Xuân Thanh là chìa khóa mở chiếc tủ sắt bằng chứng phạm tội của đường dây tham nhũng thì Trương Duy Nhất không là gì so với đệ tử ruột của Nguyễn Tấn Dũng là Đinh La Thăng. Nếu Việt Nam dám một lần nữa lập lại vết xe cay đắng Trịnh Xuân Thanh thì chắc chắn Trương Duy Nhất phải có bí mật gì ghê gớm lắm đáng để người ta hy sinh “khủng hoảng ngoại giao” một lần nữa. Nhưng cũng không ngoại trừ giả thiết rằng Việt Nam đánh giá Thái Lan thấp hơn Đức nhiều vì chế độ của Thủ tướng Prayuth Chan-ocha tuy được tiếng là một thể chế dân chủ nhưng vấn đề đối phó với thành phần đối kháng không thua gì Việt Nam. Từ hiện thực này Việt Nam có quyền nghĩ rằng Thái sẽ dễ dàng phớt lờ cho hành động bắt người trên đất nước của mình, nếu có cũng không đáng ngại như phản ứng quá mạnh mẽ của chính phủ Đức. Nhưng dù sao, giả thiết vẫn là giả thiết cho tới khi truyền thông quốc tế khui ra sự thật. Chỉ mong rằng nhà báo, blogger Trương Duy Nhất không dính sâu vào bí mật thâm cung bí sử, nếu dính tới Vũ Nhôm thì may ra anh còn thấy ánh sáng bên trong song sắt nhà tù, bằng ngược lại người ta sẽ không từ bỏ một hành động nào để trừng phạt anh, hoặc bịt miệng anh trước khi bí mật ấy bị phơi bày.    
......

Sự cần thiết của một “Chương trình nghị sự”

Nguyễn Việt Nam| Trong ý kiến dư luận xã hội có một câu: Liệu chế độ khác lên thay có làm tốt hơn cộng sản được không? Đây là câu hỏi không ít người đã hỏi và chính câu hỏi này đã gây ra tâm lý lưỡng lự trong quần chúng nhân dân. Nó cũng là một trong những rào cản dân tộc đi đến dân chủ đa nguyên. Chúng ta phải thừa nhận một điều rằng hầu hết chúng ta đang đấu tranh chỉ dừng lại ở mức phản biện chứ chưa hề có giải pháp lật đổ cộng sản chứ chưa nói đến giải pháp giải quyết các vấn đề hậu cộng sản. Riêng cá nhân tôi là chưa thấy điều này kể cả từ các tổ chức chính trị đối lập lớn nhỏ cho đến các cá nhân có tiếng tăm. Theo cá nhân tôi nghĩ rằng là chúng không nên giấu các chính sách thay đổi, phát triển đất nước của mình “nếu có”. Cái gì có lợi cho dân, cho nước thì nên cho nhân dân biết. Chẳng hạn như chúng tôi sẽ cho các bạn nhân quyền, tự do, dân chủ như thế nào hay các chính sách để thay đổi kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế …hay phúc lợi xã hội như thế nào nếu chúng tôi đắc cử. Vậy có gì mà phải giấu? Tôi thấy có nhiều cá nhân, tổ chức công khai hoạt động cả ở trong lẫn ngoài nước, có Website, có địa chỉ liên lạc, có ban bệ đàng hoàng. Tổ chức còn công khai thì cớ gì mà phải giấu những điều có lợi cho dân cho nước? Sợ cộng sản họ ăn cắp hay sợ họ cho truyền thông phản biện mà phải giấu? Tôi nghĩ rằng cộng sản họ thừa hiểu những điều có thể giúp đất nước phát triển theo kiểu tư bản hay đột phá nhưng do chủ trương, đường lối đặc trưng, cốt lõi của cộng sản họ như vậy nên họ không thể làm theo chứ không phải là họ không biết. Còn chuyện sợ họ phản biện thì theo tôi đó không phải là dân chủ. Ông đã khoác cái áo dân chủ lên người thì phải chấp nhận hứng chịu và sẵn sàng bảo vệ quan điểm của mình từ những ý kiến trái chiều. Cuối cùng người chấm điểm vẫn là nhân dân cơ mà. Nếu ông tốt thì cộng sản họ chẳng làm gì được. Có một số người nói với tôi là cứ lật đổ được cộng sản đi rồi tính tiếp, sẽ có tất cả kiểu như trời sinh voi ắt sinh cỏ. Tôi cho rằng không phải. Ngày xưa cộng sản vào cái cõi An Nam này cũng vẽ đủ các chương trình để lấy tín nhiệm của nhân dân, từ đó họ mới có được lòng dân ở thời đó. Nhìn sang Venezuela cũng vậy vì đây là sự kiện gần nhất cũng thấy rằng ông Guaido cũng phải có một chương trình nghị sự đàng hoàng, ngay cả Mỹ và một số nước cũng đã xem xét và ủng hộ. Và xét ngay tổng thống Mỹ muốn ứng cử cũng phải vạch ra một chương trình để kiếm phiếu kèm với những cam kết thực hiện. Chứ làm gì có chuyện hô hào dân là các người cứ lật đổ cộng sản đi, chúng tôi sẽ cho các người những điều tốt đẹp. Họ hỏi là tốt đẹp thế nào thì lại bảo rằng chúng tôi chưa nói được, đang giấu. Ai biết rằng các ông sau khi lật đổ cộng sản lại đưa đất nước đi theo thể chế quân chủ lập hiến hay phát xít. Thế nên họ lưỡng lự là phải và cũng chính cái lý do này là một trong những lý do mà khiến lòng dân chưa thể quy tụ thành sức mạnh dân tộc. Theo cá nhân tôi là như vậy. Một chương trình nghị sự là rất cần. Và chúng ta cũng không thể đưa cho nhau một thái độ ngoạc mồm ra cười khi người khác đóng góp ý kiến bằng cả cái tâm hay ông là người nếu ra vấn đề thì ông tự đi mà trả lời. Đất nước, dân tộc là trách nhiệm chung của mỗi chúng ta. Chứ ông nào cũng đắp chăn chờ độc lập hoặc cơm no rượu say lên giường ngáy khò khò rồi bảo mình chẳng làm cũng chẳng sao, đầy người người ta làm thì e rằng đất nước còn tăm tối lâu dài. Đừng trông chờ hay phát biểu rằng cộng sản nó tự sinh tự diệt, nó sụp đổ là sự hiển nhiên, quan trọng là bao giờ thôi. Đừng như vậy. Nếu chúng ta không cố gắng mà cứ trông chờ, ỉ lại cho sự tất yếu đó thì e rằng cộng sản lại thành công thêm một bước nữa trong chính sách ngu dân để trị./.
......

DIỄN CẢNH LAO CÔNG

Fb Luân Lê Ông Tổng bí thư đảng cộng sản kiêm Chủ tịch nước đang lì xì cho hai cô “diễn viên đóng thế” những cô lao công đêm đông quét rác đích thực rồi. Hiện tại, một trong hai cô gái mặc quần áo mới tinh không vết bẩn hay bị nhàu nhĩ, nhem nhuốc với da dẻ, mái tóc, phong thái rất tiểu thư này được cư dân mạng tìm ra là đang làm việc tại một cửa hàng bán điện thoại di động (tên Hương, 20 tuổi) ở Hà Đông. Những người lao công thực sự thì cực nhọc và vất vả dọn sạch môi trường với điều kiện thiếu thốn, mất vệ sinh, đáng ra là bộ mặt của xã hội thì lại bị đưa ra làm trò hề cho bọn làm trò lố bịch để lừa cả ông Tổng bí thư. Chợt lại nhớ đến truyện ngắn Bên Kia Bờ Ảo Vọng của Dương Thu Hương, khi dân ở một vùng gặp thiên tai đói khổ, mất mùa do hạn hán, thì tay nhà báo được giao viết về vùng này bắt buộc phải bỏ qua những tình trạng khốn khổ đó của người dân mà phải mô tả cảnh sống sung túc, được mùa để báo cáo lãnh đạo về tình hình sản xuất nơi đây nhằm lãnh thưởng và thăng tiến. Ông Tổng nên cho kiểm tra lý lịch của hai cô gái mặc áo trong hình mà Ông đã gặp mặt và lì xì cho họ để biết sự thực của những con người này và những kẻ bày trò để che mắt, gian trá với Ông. Một chuyện nhỏ chúng có thể diễn cảnh với Ông thì những chuyện lớn chúng sẽ thế nào?  
......

Không có tượng đài nào bằng tượng đài trong lòng dân

Phuong Anh Le TRỜI SINH DU SAO CÒN SINH LƯỢNG Sống mỗi người một kiểu mà chết mấy ai giống ai . Có người sống trong xa hoa nhung lụa như các vị quan chức tham nhũng . Có người sống kiếp nghèo nàn , lây lất xin ăn . Có người sống lương thiện . Có kẻ sống thiệt ác nhân . Hết sống thì lại chết . Có những cái chết làm người ta tiếc . Có những cái chết làm người ta bàng hoàng . Có những cái chết làm người ta hụt hẫng . Có những cái chết làm người ta đớn đau . Có những cái chết làm người ta ray rứt . Có những cái chết làm người ta hả hê . Đổ Phủ đã từng viết , Nhân sinh thất thập cổ lai hi . Người sống đến tuổi 70 xưa nay hiếm . Thế nên những người đã thất thập hoặc trên thất thập có qua đời thì con cháu chỉ thương chứ không tiếc . Già quá rồi , sống chỉ làm khổ cho bản thân mà cũng là gánh nặng cho con cháu và xã hội . Những người tóc còn xanh , tuổi đời còn phơi phới , giấc mộng chưa thành thì cái chết của họ để lại bao tiếc thương. Hôm nay qua FB , tôi được biết facebooker Trương Quang Thi vừa mới qua đời. Cả cộng đồng mạng đều nhỏ giọt lệ tiếc thương . Thi có trên 20 ngàn người theo dõi . Điều đó không hề đơn giản , ngay cả những nhà báo chuyên nghiệp có lương tâm , viết hay , phản biện giỏi cũng không có số lượng người theo dõi đông đảo như vậy . Tôi không kết bạn với Thi , nhưng vào trang của em , đọc bài em viết mới hiểu đuọc vì sao nhiều người đã nhỏ nước mắt khi em ra đi . Đối với những kẻ thủ ác , cướp của giết người không gớm tay phải chịu án tử hình như Lê văn Luyện , Nguyễn Hải Dương hay những kẻ độc tài như Saddam Hussein , Gaddafi thì cái chết của họ đuọc xem như là 1 sự trừng phạt , sự đền tội đối với những gì họ gây ra . Cái chết cũng mỗi người mỗi kiểu . Chết vì đói . Chết vì no . Chết vì tình . Chết vì tiền . Chết vì uống thuốc quá liều . Chết vì lạnh . Chết vì nóng . Chết vì tai nạn giao thông . Chết vì đột quỵ . Chết vì uất như Chu Du với câu nói để đời , trời sinh Du sao còn sinh Lượng .Chết đã vậy mà cách chôn cũng không giống nhau . Ở Tây Tạng người ta thường Thiên táng hay còn gọi là Điểu táng . Xác người chết đuọc cắt nhỏ thành từng miếng rồi đem bỏ trên núi cao để cho kền kền đến rỉa . Người thân chỉ khóc khi kền kền không chịu rỉa vì điều đó có nghĩa là người chết không siêu thoát . Thật là 1 kiểu mai táng lạ đời . Đa phần người chết đuọc chôn xuống đất . Kiểu chôn này gọi là địa táng . Ngày nay đất chật , không đủ cho người sống thì lấy đất đâu dành cho người chết ? Ngày mồng một tôi thăm mộ chồng ở Đà Nẵng . Ngày mồng hai lại đi thăm mộ cha mạ tôi ở Huế . Đường lên mộ mỗi năm mỗi khó khăn do mộ mỗi lúc mỗi nhiều . Tôi đã dặn con cháu sau này hỏa táng cho tôi rồi rải tro xuống sông Hàn . Thiên táng . Địa táng . Hỏa táng và giờ có thêm Thủy táng . Táng kiểu gì cũng đuọc mà đừng giành đất của dân , xây lăng đắp mộ thật to như ai kia để lòng dân phải ta thán . Mộ táng càng to thì càng dễ làm mồi cho trộm cướp . Những ngôi cổ mộ của các vua chúa Ai Cập là một điển hình . Năm ngoái khi chính phủ duyệt chi 1.400 tỷ để xây nghĩa trang cán bộ cao cấp thì nhiều người rất phản đối bởi họ muốn số tiền đó được dùng để xây bệnh viện , trường học , cầu cống… những thứ mà dân mình vẫn còn thiếu lắm. Nhìn hình ảnh những bệnh nhân chen nhau dưới gầm giường ở bệnh viện Ung Bướu thành phố HCM và bác sĩ phải ngồi xuống để tiêm . Hình ảnh những bệnh nhân nghèo sắp hàng chờ xin cơm từ thiện ở bệnh viện Ung Bướu Quận Bình Thạnh , hình ảnh những em bé ở vùng cao đi học trong giá rét với cái bụng xẹp lép vì đói và cũng những em bé đó phải lội qua sông , qua suối ,áo quần và sách vở đội trên đầu để đi tìm con chữ mà lòng ai cũng thắt và để thấy nghĩa trang trên nghìn tỉ thiệt tình là rất vô nghĩa . Có thể nói Lênin là linh hồn của chủ nghĩa xã hội . Vậy mà ngày nay , tượng đài của ông đã bị giật sập ngay trên quê hương của ông . Thế mới biết , không có tượng đài nào bằng tượng đài trong lòng dân . Khi còn sống , có khi nào ông Chavez, lãnh tụ cộng sản của Venezuela nghĩ rằng có ngày tượng đài của mình bị người dân đập nát không ?  
......

Trạm BOT hút tiền người đi đường: Cháy nhà ra bạc tỷ...

Fb Trần Đình Dũng Thông tin gây "xúc động" đầu năm là vụ hai tên cướp tấn công Trạm BOT và CA vào cuộc đã lòi ra thông tin chấn động về số tiền ---(thu khoảng 6,6 - 7,5 tỷ đồng mỗi ngày)---. Nhiều Nhà báo chia sẽ thông tin: Sau khi xảy ra vụ cướp tiền ở BOT Long Khánh - Dầu Giây theo thông tin truyền thông ban đầu của Cty đường cao tốc VN ( VEC) thì bị mất có 300 triệu. Báo cáo thu một ngày của BOT này chưa đến 1 tỷ đồng. Công an vào cuộc điều tra vụ án thấy theo sổ sách thì số tiền bị cướp lên đến 2,2 tỷ đồng. Nhưng đây chỉ là tiền của ca thứ 3 trong 1 ngày. Vậy là VEC và trạm thu phí BOT này đã gian dối trong tổng hợp, báo cáo tài chính. Theo nguồn tin riêng thì tổng số tiền thu hàng ngày khoảng 6,6 - 7,5 tỷ đồng. Theo thông tin này (nếu chính xác), chỉ một ngày thu khoảng 6,6 - 7,5 tỷ đồng, suy ra một tháng thu khoảng 200 tỷ đồng và suy ra một năm số tiền thu khoảng 2.400 tỷ đồng, một con số khủng. Nếu chỉ lấy tròn 2.000 tỷ cho một năm thì 10 năm là 20 ngàn tỷ đồng. Kinh phí đầu tư đường để thu trạm BOT là bao nhiêu? Nếu thu 10 năm được 20 ngàn tỷ thì tiền chảy vào đâu? Kinh phí đầu tư có con số khả tín theo lời giải thích của ông Nguyễn Hồng Ninh - Giám đốc Công ty CP đầu tư phát triển hạ tầng IDICO (chủ đầu tư trạm BOT An Sương) với báo chí như sau: "Kinh phí nâng cấp đoạn đường 12 km quốc lộ 1 và 4 cây cầu trên gần 2.500 tỷ đồng. Thời gian thu phí được tiếp tục thực hiện từ 2/1/2017 đến 31/1/2033, theo quy định của Nhà nước” ! Tức kinh phí chỉ 2.500 tỷ nhưng đòi thu tới 16 năm !. Nếu chúng ta nối ráp con số giữa hai trạm BOT Dầu Giây và An Sương để dự đoán con số thì mức thu tiền lớn quá so với đầu tư, chỉ cần 2 năm thu đã đủ vốn (chưa kể quyết toán vốn có chính xác hay không?). Nhưng thời gian thu kéo đến hàng chục năm. Khắp đất nước có 67 trạm BOT rãi khắp nơi để hút tiền người đi đường. Đầu năm Kỷ Hợi, cũng "may" có mấy tên cướp loại giặc cỏ mà lòi ra "bọn cướp loại giặc lớn". Cháy nhà ra bạc tỷ...  
......

230 năm chiến thắng Đống Đa

Ngô Đồng  - Việt Tân XUÂN ĐẾN! NHỚ LẠI MÙA XUÂN KỶ DẬU ĐẠI THẮNG QUÂN THANH CỦA VUA QUANG TRUNG!!! Cách đây đúng 230 năm, mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung – Nguyễn Huệ đã lãnh đạo quân Tây Sơn đánh tan 29 vạn quân Thanh tại Ngọc Hồi – Đống Đa và giải phóng kinh thành Thăng Long. Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa là chiến công oanh liệt nhất, có ý nghĩa to lớn trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với chiến thuật thần tốc, chớp nhoáng, chỉ trong 5 ngày, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ, đã bất ngờ tiến về kinh thành Thăng Long. Sáng mùng 5 Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn tấn công đồn Ngọc Hồi với thế trận mạnh như vũ bão, đánh tan quân Thanh, phá hủy toàn bộ chiến lũy, trận địa phía Nam và biến đồn Ngọc Hồi thành mồ chôn đại quân Thanh. Theo sử sách ghi lại thì “xương chất thành núi, máu chảy thành sông.” Khi đó, tiếp tục thế tiến công, quân Tây Sơn đã nhanh chóng giải phóng kinh thành Thăng Long. Thái thú Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự vẫn, còn tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy lên phía Bắc, tàn quân nghe tin chủ tướng bỏ chạy cũng tan rã chạy theo, tranh nhau qua cầu. Cầu sập, tàn quân Thanh rớt xuống sông chết đuối làm tắc nghẽn cả dòng sông. Trận Ngọc Hồi – Đống Đa đã khẳng định nghệ thuật quân sự lỗi lạc của Hoàng đế Quang Trung. Đó là nghệ thuật chuyển quân thần tốc từ Phú Xuân ra Bắc, nghệ thuật xây dựng nhanh lực lượng, mưu lược trong đánh trận, tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân sĩ… Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa mãi là niềm tự hào dân tộc, là một chiến công oanh liệt vô tiền khoáng hậu, là biểu tượng lừng lẫy nhất trong lịch sử bảo vệ tổ quốc trước các thế lực xâm lược từ phương Bắc. Đồng thời, khẳng định truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường và sức sống bền bỉ ngàn đời của dân tộc ta. Chiến thắng này càng hiển hách khi đúng dịp đầu xuân và đúng vào thời thịnh trị của Càn Long. Mặc dù hơn hai thế kỷ đã trôi qua, nhưng trang sử về chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa vẫn mang ý nghĩa biểu dương lòng yêu nước, ý chí chiến đấu phi thường vì nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Sau chiến thắng vang dội đó, ngày mùng 5 tháng Giêng hàng năm trở thành ngày kỷ niệm của người dân Việt Nam, tưởng nhớ người anh hùng Nguyễn Huệ. Ông được coi như là một biểu tượng kiệt xuất của tinh thần dân tộc Việt Nam. Bước vào xuân Kỷ Hợi 2019, một năm đặc biệt với nhiều dấu mốc quan trọng của lịch sử, 230 năm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, và 40 năm chiến tranh biên giới phía Bắc. Đây là dịp người dân Việt Nam tưởng nhớ, khắc ghi công ơn của các bậc tiền nhân đã không tiếc máu xương để giữ gìn non sông gấm vóc. Cho đến nay, những cuộc chiến trong quá khứ này vẫn chứa đựng phần nào không khí thời sự. Những năm gần đây, Trung Quốc không ngại ngần xâm lấn, cưỡng chiếm trên đất liền cũng như trên biển, bồi đắp và xây dựng các căn cứ quân sự trên các bãi đảo đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Đưa tên lửa, ra đa và các loại vũ khí đến thành những pháo đài quân sự, đặc biệt có cả sân bay. Với chiến lược cắt lát Salami họ cứ gặm nhấm dần dần chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Bên cạnh đó, Trung Quốc lợi dụng nền chính trị độc tài mục nát được cai trị bởi đảng cộng sản Việt Nam để dùng các tập đoàn kinh tế bình phong cấu kết với các quan chức cộng sản tán tận lương tâm mua bán đất tại khu vực trọng yếu dưới danh nghĩa dự án kinh tế để nhằm mục đích dùng kinh tế mở đường cho chính trị. Những hậu quả của chiến lược này có thể kể đến như hàng loạt các dự án: Formosa (Hà Tĩnh), dự án giấy Lee & Man (Hậu Giang), dự án nhiệt điện Vĩnh Tân tràn ngập người Trung Quốc. Đồng thời nhiều vị trí phòng thủ chiến lược dọc bờ biển tại các tỉnh Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Thuận… đã bị các doanh nghiệp Trung Quốc hiện diện và chiếm cứ. Nguy hiểm hơn, trong bối cảnh lợi ích kinh tế và chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông đang bị Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng, nhà cầm quyền Việt Nam dự định mở ba đặc khu kinh tế tại các địa điểm hiểm yếu đang tạo cơ hội cho các “tô giới của Trung Quốc” công khai mọc trên đất Việt Nam. Chưa dừng lại ở đó, Trung Quốc còn xâm lược Việt Nam bằng những thủ đoạn kiểu mới như tuồn hàng giả, hàng độc hại, hóa chất gây ung thư, thực phẩm bẩn… nhằm hủy hoại sức khỏe và suy thoái giống nòi tương lai của người Việt. Đồng thời, các gian thương Trung Quốc còn có mặt tại khắp các tỉnh thành, dưới danh nghĩa thu mua nông sản “lạ” để phá hoại kinh tế Việt Nam. Tóm lại, mỗi trận chiến trong lịch sử giữ nước của cha ông là một bài học quý giá. Người dân Việt Nam, nhất là lớp người trẻ cần phải thức tỉnh lòng yêu nước và luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước một mối đại họa mang tên Trung Quốc. Bởi dã tâm thôn tính Việt Nam của Trung Quốc từ ngàn đời nay vẫn không đổi. Và các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của của dân tộc này luôn quyết thực hiện cho bằng được.  
......

Ý dân

Thảo Vy – VNTB | Trong những ngày xuân Kỷ Hợi, khách hành hương viếng Đền Trần (Nam Định) sẽ thấy ngay tại cổng Ngũ Môn ghi khắc câu đối: “Dân vi bang bán thiên niên sách, Công tại nhân tâm vạn cổ trường” (Lấy dân làm gốc, đó là sách lược ngàn năm; Công lao ở lòng người sẽ ghi tạc muôn thuở). Tự tin hay đang tự huyễn hoặc? Sáng 1-2, tại Phủ Chủ tịch, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chúc Tết các vị lão thành cách mạng, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cán bộ lãnh đạo của các cơ quan Trung ương và Hà Nội. toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại buổi chúc Tết được báo Nhân Dân đăng tải toàn văn (http://bit.ly/2WGcteX) So với bài viết: “Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn” mà các báo đăng tải hôm trước đó 30-1 cũng của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, thì mức độ tự tin về chuyện “Đảng vững mạnh” của ông Nguyễn Phú Trọng kém hẳn (http://bit.ly/2UyEpiW). Nếu như ở bài viết hôm 30-1, ông Nguyễn Phú Trọng khẳng định rằng “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”, thì trong bài phát biểu hôm sáng 1-2, khẩu khí đã chùng hẳn xuống khi ông Nguyễn Phú Trọng kêu gọi, “Chúng ta cần quyết tâm, tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, gắn với thực hiện có chiều sâu việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hoá”. Câu hỏi đặt ra, để có câu trả lời thuyết phục cho nhận định phải thật là “Đảng vững mạnh”, ông Nguyễn Phú Trọng có thể ‘nhờ’ Quốc hội cho tổ chức cuộc trưng cầu ý dân theo Luật Trưng cầu ý dân, đã có hiệu lực từ 1-7-2016. Trưng cầu ý dân là việc không mới. Rất nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện việc này từ lâu. Cách đây hơn 7 thế kỷ, đã có một cuộc trưng cầu ý dân mà bất cứ người Việt nào cũng biết: Năm 1285, Thái tử nhà Nguyên là Thoát Hoan được phong làm Trấn Nam Vương, dẫn một đội quân 50 vạn người xâm lược Việt Nam lần thứ 2. Vua Trần Nhân Tông đã cho mời bô lão của các làng xã trên cả nước về điện Diên Hồng. Nhà vua nêu câu hỏi: Tổ quốc lâm nguy. Thế giặc rất mạnh. Xin các cụ cho ý kiến, ta nên hòa (tức đầu hàng) hay nên đánh? Hàng ngàn phụ lão đã nhất tề hô: Xin bệ hạ cho đánh. Ý chí đó đã củng cố thêm quyết tâm của nhà vua và triều đình. Trước mặt các bô lão, nhà vua hạ chiếu: Đánh. Kết quả là đạo quân 50 vạn người của giặc đã bị đánh cho không còn mảnh giáp, đến nỗi chủ tướng phải chui vào ống đồng cho quân khiêng chạy mới thoát chết. Hội nghị Diên Hồng sống mãi trong lòng dân tộc, vì nó đã nói lên một chân lý bất biến, rằng “ý dân là ý trời”. Thuận ý dân Trở lại với câu chuyện hôm nay. Trong sáng 30 Tết, nhằm ngày 4-2, ông Lê Văn Vĩnh, chủ tịch hội đồng quản trị Công ty TNHH BOT Xây dựng Đồng Tháp, đơn vị thu phí cầu sông Cái Nhỏ và cầu Tân Nghĩa, cho biết báo chí biết rằng công ty đã ngừng thu phí 2 cầu từ chiều 3-2. Công đoạn tháo dỡ trạm thu phí tiến hành gấp rút tạo điều kiện thông thoáng để người dân đi lại trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019. Trước đó, việc thu phí cầu sông Cái Nhỏ kéo dài đã vấp phải sự phản ứng của người dân. Đỉnh điểm vào cuối tháng 9-2018, hàng trăm người dân đã tập trung phản đối. Tương tự ở cầu Tân Nghĩa cũng bị người dân phản ánh nhiều lần về thời gian thu phí. Trước phản ứng có cả tình và lý của người dân, ông Nguyễn Văn Dương, chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp đã quyết định dùng ngân sách tỉnh để mua lại trạm BOT này với giá hợp lý nhất. Theo thẩm định, nếu không mua lại thì cầu sông Cái Nhỏ dự kiến sẽ kết thúc thu phí vào tháng 8-2024, tức thời gian thu phí là 12,8 năm. Tương tự, cầu Tân Nghĩa thời gian thu phí cũng là 12,8 năm tức chấm dứt vào tháng 10-2020. Ông Vĩnh cho biết sẽ nhận khoản tiền vốn mua lại 2 dự án này của chính quyền tỉnh là 14,8 tỉ đồng. Tương tự, trạm thu phí BOT đường bộ Tân Đệ ở tỉnh Thái Bình bị người dân phản ứng vì đặt nhầm chỗ tương tự như BOT Cai Lậy, Tiền Giang cũng đã được chính quyền tỉnh Thái Bình yêu cầu phải phá dỡ ngay trước Tết nguyên đán 1 tuần lễ, và nhà đầu tư phải đặt trạm thu phí đúng với nơi đã mà dự án đã đầu tư. Có thật là người dân đang phấn khởi tin tưởng đảng cộng sản? Nhìn rộng hơn, quan sát trên mạng xã hội và các trang báo điện tử, có thể thấy rằng người dân Việt Nam đang ủng hộ việc xóa sổ nền chính trị độc tài ở Venezuela. Thể chế xã hội chủ nghĩa ở quốc gia này đang đứng trước bờ vực sụp đổ, và người dân Việt Nam lại hồ hỡi trước những thông tin về khủng hoảng chính trị ấy. Câu hỏi đặt ra, liệu người dân Việt Nam có phải thực sự mang tâm thế như lời của ông Nguyễn Phú Trọng: “Không phải ngẫu nhiên mà một không khí phấn khởi, tin tưởng ngày càng lan toả sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, tác động tích cực mạnh mẽ trên khắp cả nước và được nhiều bạn bè quốc tế ghi nhận”? (http://bit.ly/2WGcteX) Ghi nhận thực tế là không hề có “một không khí phấn khởi” như nhận định đầy chủ quan của ông Nguyễn Phú Trọng. Đơn cử, thưởng Tết Kỷ Hợi trong ngành bất động sản ở Sài Gòn, theo đánh giá sơ bộ là ở mức thấp nhất kể từ năm 2014. Nhiều công ty kinh doanh địa ốc nói rằng năm 2018 vừa qua họ có doanh số rất thấp, nên thưởng Tết chỉ mang tính tượng trưng. Giám đốc bộ phận kinh doanh ở một doanh nghiệp bất động sản khá có tiếng tại Sài Gòn, ngậm ngùi kể trong bữa tiệc tất niên đạm bạc với báo chí: “Trong năm vừa qua công ty chỉ có đúng một dự án với hơn 400 căn nhà để bán ra thị trường, mà nhân viên môi giới cũng đã lên gần 2.000 người nên áp lực lương bỗng khá căng. Một số nhân viên kỳ cựu cũng phải bỏ công ty mà ra đi, như tôi đây vẫn bám trụ được là mừng chứ không mong gì nhận lương thưởng”. Ông cho rằng ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế, và niềm tin vào những nhà quản trị quốc gia cũng vì thế mà ngày càng tuột giảm, chứ không hề đúng như tự tin về “đất nước phát triển” như lời tựa của bài báo ký tên Nguyễn Phú Trọng hôm 30-1-2019. Trưng cầu dân ý là một quyền dân sự được hiến định. Nếu quả tình ông Nguyễn Phú Trọng tự tin “Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn”, và ông cũng tự tin là đảng cộng sản Việt Nam không hề theo đuổi nền chính trị độc tài như Venezuela, thì ông hãy thử một lần dùng quyền là Chủ tịch nước để yêu cầu Quốc hội thực hiện một cuộc trưng cầu ý dân, về mức độ tín nhiệm sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam trong vai trò quản trị quốc gia. Vàng thiệt không sợ lửa. Ông bà mình nói như vậy./.
......

Trung với Đảng nào?

  Huỳnh Ngọc Chênh| Người ta đang bắt đảng viên trung với đảng, quân đội, công an trung với đảng, và tuy không nói thẳng ra, nhưng cũng bắt quốc hội, tòa án, các đoàn thể quần chúng trung với đảng, rồi hoang tưởng bắt cả toàn dân trung với đảng!!! Nhưng tại sao trung với đảng, khi đảng ấy luôn diễn biến, luôn thay đổi, luôn cơ hội chạy theo thời cuộc? Đảng của thời Hồ Chí Minh khi chưa cướp và mới cướp được chính quyền phải năn nỉ dân theo, phải hô hào đa đảng để lôi kéo, lừa mị, lợi dụng nhiều thành phần, nhiều tổ chức yêu nước, rất khác với đảng của thời Trường Chinh, sau khi đã giành được chính quyền phát động đấu tranh giai cấp tiêu diệt hết tinh hoa của dân tộc thời bấy giờ là tầng lớp phú nông, địa chủ, tiểu tư sản thành thị và trí thức. Đảng của thời Lê Duẩn chống Mỹ đế quốc tư bản bằng mọi giá, tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng mọi giá, làm kinh tế chỉ huy, tiêu diệt hết tinh hoa của đất nước là giai cấp tư sản công thương miền Nam, rồi chống Tàu cộng bằng mọi giá, đuổi ra biển gần hết người Việt gốc Hoa sống bao đời ở VN, hiền lành và tài năng… rất khác với đảng thời xét lại của Trường Chinh và Nguyễn Văn Linh, trở lại với kinh tế thị trường, mon men làm thân với tư bản, càng khác với đảng thời Nguyễn Văn Linh về sau và tiếp theo của thời bần cố nông ngu muội Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, cam tâm thờ Tàu cộng bằng mọi giá, rước bọn tư bản đỏ Tàu cộng vào giày xéo quê hương, dung túng giai cấp tư bản đỏ nội địa mới, bóc lột sức dân, tài nguyên, khoáng sản, môi trường, đất đai để làm giàu bằng mọi giá. Tùy vào cá nhân nắm quyền, tùy vào thời thế mà đảng thay đổi xoành xoạch, nay đúng mai sai, nay chôn xuống mai đào lên, lại bám cứng vào cái phao chủ nghĩa lỗi thời đã bị nhân loại vứt vào sọt rác làm bung xung mà bắt mọi người phải trung với đảng thì trung như thế nào? Chưa nói đảng của các ông ngu muội nói trên lại càng khác xa với đảng của một lực lượng đảng viên trí thức và tiến bộ khác. Đó là đảng của các ông Hoàng Minh Chính, Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyên Ngọc, Tương lai, Chu hảo, Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Trung, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn Kiệt… là những đảng viên kỳ cựu, có trí tuệ, có tư duy tiến bộ, chấp nhận đa đảng, chấp nhận tam quyền phân lập để đất nước nhanh chóng thoát ra khỏi lạc hậu tối tăm. Rồi đảng của hàng triệu người đã hy sinh, đảng của bà Cát Hạnh Long, của vô số tư sản, địa chủ yêu nước khác, của Trần Đức Thảo, của Nguyễn Mạnh Tường, của Nguyễn Hữu Đang, của Phan Khôi, của Phùng Quán, Trần Dần… của bao trí thức thành thị miền Nam, của Lê Hiếu Đằng, của Hạ Đình Nguyên, của Huỳnh Tấn Mẫm… vì nghĩ rằng lý tưởng của đàng là lý tưởng của họ là mang độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, quyền bầu cử, quyền lên tiếng nói, quyền làm người đến cho toàn dân. Chắc chắn đảng của những người đó nghĩ sẽ trở thành không bao giờ giống như đảng ngày nay của Nguyễn Phú Trọng đang cầm đầu. Vậy đảng viên, quân đội, công an… phải trung thành mù quáng vào đảng nào?  
......

DÂN TỘC KHÔNG BIẾT TỰ CỨU

Fb Đỗ Văn Ngà Dân tộc Việt Nam đang bị nhốt trong cái lồng cai trị của ĐCS. Với số lượng lên đến 100 triệu người, lẽ ra dân tộc Việt Nam có sức mạnh vô biên, nhưng cuối cùng chỉ là bầy cừu ngoan ngoãn. Với sức mạnh đó, họ dư khả năng tự phá bỏ xiềng xích để giải thoát cho mình thay vì cầu thánh thần đến mở cho. ĐCS như là cái lồng nhốt cả dân tộc này vào đấy. Nhân dân đói nghèo cũng bởi sự cai trị của ĐCS; doanh nghiệp chân chính bị o ép, bị làm khó bởi luật, bị vòi vĩnh tiền do hối lộ cũng bởi sự cai trị của ĐCS; cuộc sống người dân phải chịu vô số những rủi ro như tai nạn giao thông cao, chết vì ung thư nhiều, thuế má nặng nề vv.. Tất cả đều bởi sự cai trị của ĐCS mà ra cả. Đứng trước những khó khăn như thế, dân tộc nào sáng suốt họ đã chọn cách bày tỏ thái độ chính trị để đi đến giải quyết rốt ráo nguyên nhân làm cho 100 triệu người phải cơ cực, cuộc sống bất ổn. Nhưng dân tộc Việt Nam lại cầu thánh thần. Cái tử huyệt của dân tộc Việt Nam là tính cá nhân đến cực đoan, nhưng tính tập thể thì gần như không có. Với người Việt, khi bị bế tắc, đa phần là họ cầu thánh thần chỉ ban riêng cho họ sự giàu có mà quên rằng, nếu đất nước thịnh vượng thì tất cả mọi người, trong đó có họ con cháu của họ sau này cũng được hưởng. Khi người Việt đứng vào tổ chức, họ nghĩ ngay đến cách đấu người này, đè người kia để họ ngoi lên, cho nên hầu hết các tổ chức hoặc không thể lớn mạnh, hoặc bị mục rữa và giải tán. Sức mạnh của một dân tộc không chỉ nằm ở sự thông minh mà con phụ thuộc vào tính hy sinh vì cộng đồng và tinh thần trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng đó, với tổ chức đó. Theo tôi, tính tổ chức cao quyết định thành công nhiều hơn sự thông minh tính toán lợi hại cho riêng mình. Thông minh kiểu như thế, nếu gộp lại thì chỉ là một cộng đồng yêu, chắc chắn là vậy. Trăm triệu dân, nếu biết sức mạnh của mình và sử dụng đúng, thì đủ để bẻ gãy xiềng xích CS như bẻ củi mục. Nhưng cuối cùng thì hoàn toàn thất vọng, cả dân tộc chỉ biết quỳ lạy khóc lóc van xin thánh thần cởi xiềng xích cho mình. Với một dân tộc như thế, thánh thần nào cởi xích cho? Lúc đó thánh thần sẽ nói "các ngươi dư sức bẻ gãy xiềng xích sao lại cầu đến ta?". Và chắc chắn, thánh thần sẽ để cho dân tộc ấy chết trong cái xiềng xích đó mà thôi. Chuyện kể rằng, một anh chàng bị ngã xuống nước. Hoảng quá anh ta vẫy vùng la hét kiêu cứu, nhưng chẳng ai nghe thấy. Và cuối cùng anh ta chết chìm. Khi vớt anh ta lên, người ta lội xuống ao kéo anh ta vào bờ một cách dễ dàng, vì đơn giản, cái ao chỉ sâu đến vai. Vâng! Anh ta chết vì anh ta không hề biết, chính anh ta có thể tự cứu được mình. Dân tộc Việt Nam réo gọi thánh thần cầu cứu cho mình trong khi chính mình không biết tự cứu trong tường hợp như thế. Muốn được cứu, phải thay đổi nhận thức và tìm cách tự cứu, đó là bài toán cho dân tộc Việt Nam, không có cách giải khác.    
......

Có phải Trương Duy Nhất đã bị TC2 bắt ở Thái Lan?

Fb Thanh Hieu Bui Hình ảnh Nhất đến cao uỷ Tị Nạn trước đó. Khoảng 8 giờ tối ngày 26 tháng 1 năm 2019. Trương Duy Nhất bị đám gồm 10 người của tổng cục 2 trùm túi lên đầu và đưa lên xe đi, trước khi đi Nhất còn xin thay quần áo. Ai tiếp tay cho tổng cục 2 tình báo quân đội bắt Trương Duy Nhất ? Điều này rất tiếc chưa thể nói trong bài viết, những chi tiết ấy hãy để cho cảnh sát quốc tế biết thì tốt hơn. Chỉ có điều phải nói rằng trong vụ bắt cóc này có những '' thành phần Việt '' đang sinh sống ở Thái Lan dưới cái nhãn hiệu là người '' tốt '' theo đánh giá của đám đông tị nạn bên đó. Cộng sản Việt Nam có những đặc tình, cơ sở thế này. Đặc tình của chúng hết lòng giúp đỡ A, khiến A nghĩ rằng đó là người tốt, vì nếu không thì A đã bị gì đó. Nhưng A không bao giờ nghĩ rằng tên đặc tình đó muốn qua A để tìm hiểu thông tin nhằm triệt hạ B. Cái bản chất của con người Việt là vậy, dù cho đấu tranh đi nữa, họ nghĩ ai tốt với mình là được, họ không cần phải đau đầu để tính đến chuyện kẻ kia lợi dụng mình để hại B. Hành vi của tổng cục 2 tình báo quân đội bắt Trương Duy Nhất ở Thái Lan đáng được gọi là bắt cóc, mặc dù họ có lệnh bắt Nhất về tội liên quan đến kinh tế, mặc dù họ có làm việc với .... nào đó ở Thái Lan. Nhưng tất cả đều vô giá trị, vì việc họ đưa Nhất trở về không qua con đường chính thức. Lẽ ra sau khi Nhất đã trình diện ở Cao Uỷ Tị Nạn, việc đưa Nhất trở về phải qua một quá trình xem xét về pháp luật của Thái Lan. Nếu không có những quy trình đó, đương nhiên hành vi của tổng cục 2 đưa Nhất về là bắt cóc xuyên quốc gia, có tổ chức. Bây giờ Thái Lan cũng khẳng định không biết gì về Nhất sau khi Nhất đến Cao Uỷ Tị Nạn, có nghĩa người Thái sẵn sàng phủ nhận hoàn toàn việc dính dáng đến tổng cục 2 tình báo quân đội Việt Nam trong vụ bắt Trương Duy Nhất. Nếu như vậy, hiển nhiên việc tổng cục 2 bắt Nhất về hoàn toàn là một vụ bắt cóc người. Hình ảnh Nhất vào ngày 25 tháng 1 lúc chiều tối ở Thái Lan. Hình ảnh Nhất đến cao uỷ Tị Nạn trước đó. Ngày 26 khi Nhất cắt bỏ điện thoại, anh vào siêu thị Futurepark tìm mạng intent để liên lạc tìm sự giúp đỡ của đồng hương. Có 3 đồng hương biết vị trí của Nhất lúc đó là Bạch Hồng Quyền, Cao Lâm và Kami. Ngay sau đó thì Nhất bị bắt !!! Trong mấy ngày Nhất ở Thái Lan, một người Việt tên là Huân liên tục dò hỏi chỗ ở của Nhất với lý do muốn mời đến nhà bà Sương ( người Đà Nẵng ) để nhậu. Bà Sương xác nhận không hề quen Nhất và cũng không hề có ý mời Nhất đến nhà. Cao Lâm là một người được cộng đồng tị nạn người Việt ở Thái Lan đánh giá là người tốt, vì Cao Lâm có nguồn tiền bên Mỹ gửi về giúp đỡ cho người tị nạn, Cao Lâm cũng giúp đỡ những người tị nạn rất nhiều. Nhưng có một điều là ngay cả những vấn đề liên quan đến sứ quán Việt Nam, Cao Lâm cũng giúp đỡ được. Nhắc đến nhân vật Cao Lâm này, rất nhiều người tị nạn sẽ phản ứng cho rằng Cao Lâm bị vu khống. Vì lẽ đó mà đầu bài viết phải nhấn mạnh đến các đối tượng đặc tình và những người đấu tranh A, B. Kami, một bút danh quen thuộc, tỏ ra thông thạo mọi nguồn tin nội bộ, những việc trời ơi tận đâu Kami cũng đề cập đến vẻ thông thạo. Nhưng giờ phút mà Kami biết Nhất ở đâu, mất tích thế nào thì không thấy Kami đả động. Anh ta đang là cây viết bình luận cho đài RFA !!! Bạch Hồng Quyền là nhân vật quá nhiều người Việt Nam biết, anh ta đang tị nạn ở Thái Lan vì cùng vụ với Hoàng Bình. Quyền được nhiều người biết là đệ tử của tôi ( Người Buôn Gió ). Từ khi sang Thái, Nhất gặp Quyền để nhờ việc đi lại, ăn ở. Đây là 3 người biết vị trí của Nhất trước khi Nhất bị bắt. Cả ba người này đều quen biết nhau. Nhiều người tị nạn ở Thái Lan mang ơn của Cao Lâm, chất vất tôi rằng tại sao không đưa tên của Bạch Hồng Quyền vào bài viết của mình mà chỉ nhắc đến Cao Lâm và Kami. Nay tôi xin chiều họ, đưa lên cho sòng phẳng. Hiện nay Bộ Ngoại Giao Đức đang chú trọng quan tâm đến vụ bắt cóc này, bởi nó giống như vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Trên cơ sở những gì người Đức thu thập được, họ sẽ làm việc với cơ quan cảnh sát quốc tế. Khi ấy sẽ còn nhiều điều sáng tỏ.  
......

Vì sao ‘tống’ đến 47.500 tỷ đồng vào thị trường sát tết 2019?

Con số 47.500 tỷ đồng mà Ngân hàng Nhà nước ‘tống’ vào thị trường trong khoảng thời gian cận tết nguyên đán 2019 đã khiến dấy lên dư luận về tốc độ in tiền phi mã của cơ quan này – một nguồn cơn rất hữu hình và trực tiếp phục vụ cho cơ chế đẩy vọt tỷ lệ lạm phát thực tế, chứ không phải là tỷ lệ lạm phát báo cáo ‘chỉ 4%’, có thể lên đến vài ba chục phần trăm. Lại in tiền mới? Nhưng chưa hết, và còn lâu mới hết. Câu chuyện Ngân hàng Nhà nước đẩy hàng núi tiền vào thị trường không chỉ xảy ra vào những ngày cận tết nguyên đán là lúc mà ‘kiều bào ta’ thường gửi đô la về Việt Nam với tần suất dày đặc và ‘béo bở’ hơn hẳn, mà còn diễn ra đều đặn vào một số thời điểm trong năm và trong hàng chục năm trở lại đây, đặc biệt từ năm 2011 khi ngân sách trung ương bắt đầu phải thắt lưng buộc bụng và tìm kế thu gom ngoại tệ trôi nổi ở thị trường tự do và các ngân hàng thương mại để trả nợ nước ngoài – lên đến hàng chục tỷ USD hoặc hơn mỗi năm. Hiện nay, con số nợ nước ngoài của Việt Nam (chỉ tính riêng nợ của chính phủ và do chính phủ bảo lãnh mà chưa tính đến số tự vay tự trả của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) đã lên đến 105 tỷ USD, xấp xỉ 50% GDP. Vào dịp tết nguyên đán 2018, Ngân hàng Nhà nước cũng ‘tống’ một núi tiền ra thị trường, nhưng lên đến 93.000 tỷ đồng – nhiều một cách bất thường so với nhu cầu ‘bình ổn giá’ thông thường cần khoảng vài chục ngàn tỷ. Đó cũng là thời gian mà một chiến dịch thu vét đô la trôi nổi được cơ quan này âm thầm tiến hành, để đến gần giữa năm 2018 thì cả Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng lẫn Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc đều hào hứng khoe rằng quỹ dự trữ ngoại hối đã tăng vọt đến 63 tỷ USD. Những lời có cánh trên lại hiện ra trong bối cảnh mà chỉ mới qua nửa đầu năm 2018, nhà máy In Tiền Quốc Gia ở Việt Nam đã đạt mức lợi nhuận sau thuế gần 60,4 tỷ đồng, tăng gần gấp rưỡi so với con số 41,8 tỷ đồng cùng kỳ năm ngoái và đã hoàn thành kế hoạch lợi nhuận cả năm 2018. Khẩn cấp gom đô trả nợ nước ngoài Ít nhất từ năm 2016 đến nay đã xảy đến một trùng hợp mà khó có thể xem là ngẫu nhiên: cùng với kế hoạch vay trả nợ được chính phủ phê duyệt hàng năm, trong đó phần trả nợ lại ít hơn nhiều phần đi vay để “bù đắp khó khăn ngân sách”, mà có thể hiểu là một hình thức ‘vay đảo nợ’ – lấy nợ mới trả nợ cũ và làm cho nợ chồng nợ, luôn hiện ra thông tin Ngân hàng Nhà nước đã mua từ thị trường trong nước nhiều tỷ USD để “tăng quỹ dự trữ ngoại hối.” Cũng từ đầu năm 2016 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã phải tung ra thị trường một lượng tiền đồng khá lớn – lên đến nhiều trăm ngàn tỷ đồng – để mua vào ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại và từ các nguồn trôi nổi tự do. Chính núi tiền đồng mà Ngân hàng Nhà nước đổ ra đã khiến trong những năm qua đã khiến xuất hiện tình trạng dư thừa tạm thời tiền đồng của các ngân hàng thương mại, do vậy nhiều ngân hàng đã phải tìm cách “đẩy” tiền ra kênh cho vay, kể cả cho vay để đầu cơ chứng khoán và bất động sản có độ rủi ro rất cao, và bất kể rủi ro thường trực khó hoặc không thể thu hồi vốn. Nhưng sau lần khoe thành tích ‘quỹ dự trữ ngoại hối đạt đến 63 tỷ USD’ vào gần giữa năm 2018, trong nửa cuối năm đó lại có hiện tượng Ngân hàng Nhà nước bị giảm số mua đô la từ các ngân hàng thương mại cổ phần và thị trường tự do. Hiện tượng này, cộng hưởng hiện tượng giới quan chức nhà nước không dám nêu cụ thể lượng ngoại tệ của quỹ dự trữ ngoại hối, đã cho thấy lượng đô la trôi nổi không còn nhiều như trước và đang có khuynh hướng xuống thấp hơn cứ sau mỗi năm. Vào đầu năm 2019, có thêm một hiện tượng lạ là trong cả hai báo cáo phô trương thành tích kinh tế và hoạt động ngành ngân hàng năm 2018 của Thủ tướng Phúc và Thống đốc Hưng đã không hề phát ra con số cụ thể nào về quỹ dự trữ ngoại hối. Dấu hỏi rất lớn bật ra là thực chất quỹ dự trữ ngoại hối hiện thời là bao nhiêu? Hoặc còn lại bao nhiêu sau khi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã phải dùng một phần của quỹ này để đảo nợ nước ngoài, trả nợ nước ngoài, tiêu xài cho ngân sách chi thường xuyên của một đội ngũ công chức viên chức mà có đến “30% không làm gì cả nhưng vẫn lãnh lương,” hoặc cho những nhu cầu khẩn thiết khác, kể cả chi phí quốc phòng mua vũ khí của Ấn Độ, Israel, Mỹ… để đối phó với nguy cơ Trung Quốc? Xét theo logic bắt buộc phải trả nợ nước ngoài hàng năm của chính phủ Việt Nam, quỹ dự trữ ngoại hối hiện thời không thể là 63 tỷ USD mà có thể chỉ vào khoảng 30 tỷ USD như cái thời bị giảm nghiêm trọng vào năm 2015 do Việt Nam phải trả nợ nước ngoài đến 20 tỷ USD cho năm đó. Rồi đến đầu năm 2019 lại xuất hiện một hiện tượng đáng mổ xẻ khác… Tăng vọt tỷ giá trung tâm! Sau một thời gian bình lặng, từ đầu năm 2019 đến nay tỷ giá trung tâm bất thần tăng nhanh, tăng vọt và tăng không ngừng nghỉ, bất chấp thị trường ngoại hối trong nước và quốc tế vẫn khá ổn định và trong thực tế là chẳng có ý do xác đáng nào đẻ giải thích cho cú tăng này. Cơ chế tỷ giá trung tâm được Ngân hàng Nhà nước chuyển sang áp dụng từ đầu 2016 để thay cho cơ chế tỷ giá liên ngân hàng. Tỷ giá trung tâm được xem là thước đo tham chiếu cho tỷ giá của các ngân hàng và của cả.. chợ đen. Đến ngày 21/1/2019, tỷ giá trung tâm của VND với USD do Ngân hàng Nhà nước công bố đã lên mốc 22.870 VND, cao nhất kể từ đầu 2016 – thời điểm tỷ giá này ra đời. Diễn biến trên xảy ra trong bối cảnh tỷ giá USD/VND thực trên các kênh giao dịch liên ngân hàng, giữa ngân hàng với các tổ chức và dân cư, trên thị trường tự do giảm mạnh vào cuối 2018 và ổn định từ đầu 2019, chứ không hề biến động mạnh. Diễn biến trên cũng có nét tương đồng với khoảng thời gian đầu năm 2018, khi Ngân hàng Nhà nước cũng từng bước đều đặn nâng tỷ giá trung tâm trong bối cảnh thị trường và tỷ giá USD/VND ổn định, và đặc biệt là trong điều kiện cung ngoại tệ dồi dào và nhà điều hành mua vào lượng lớn. Diễn biến tăng vọt tỷ giá trung tâm lại trùng với một thông tin rất đáng chú ý và so sánh: vào đầu năm 2019, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào lượng khá lớn ngoại tệ, ước tính đã lên tới 4 tỷ USD từ đầu tháng 1/2019. Đã rất rõ là chính sách cho tăng vọt tỷ giá trung tâm là nhằm vét đô, trong bối cảnh dù một lượng tiền đồng lớn đã được Ngân hàng Nhà nước tung ra nhưng vẫn khó mua USD do giá mua đô vẫn chưa hấp dẫn người bán. Song cái gì cũng có giá của nó. Tiền đề lạm phát của Venezuela? Cơ chế in tiền ồ ạt tất yếu sẽ kéo theo một danh nghĩa mới: “kiến tạo lạm phát”, dẫn đến lạm phát thực tế và cơn bão giá cả trên thị trường và khiến nền kinh tế mất thăng bằng nghiêm trọng. Tại nhiều chợ đầu mối ở Sài Gòn và Hà Nội, giá thịt thà và rau củ cứ tăng đều đặn 30-40% mỗi năm, chưa kể tăng gấp đôi vào những sự kiện tăng lương, tăng giá xăng dầu, tăng giá điện tăng giá vàng… Người nghèo và công nhân ngày càng ăn uống kham khổ, trong lúc số tỷ phú đô la và số quan chức có tài sản trên 100 triệu USD ở Việt Nam vẫn tăng tiến không ngừng và thuộc nhóm tăng mạnh nhất trên thế giới. Một khi chủ đích của chính quyền là in tiền ồ ạt và dùng loại tiền giấy có nội lực yếu ớt ấy đổi lấy ngoại tệ mạnh là đồng đô la, sẽ chẳng mấy chốc lượng đô la trong dân và tại các ngân hàng giảm mạnh, đẩy nhanh tình trạng khan hiếm và tất yếu làm tăng mạnh lạm phát. Đó chính là tình trạng mà Venezuela đang phải đối mặt. Tuy nhiên, tại đất nước Nam Mỹ này còn tệ hơn so với Việt Nam: Thậm chí không còn tiền để in tiền và đang phải bán vàng để trả nợ. Khúc quanh bi thảm của những mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa thị trường cũng vì thế đang hiện rõ. Không chỉ là khủng hoảng kinh tế, mà sẽ là vực thẳm xã hội! Nguồn: VOA  
......

Năm Kỷ Hợi: cần dung dưỡng sự tự chủ của dân tộc

Nguyễn Hiền – VNTB| - Việt Nam chính thức bước vào năm Kỷ Hợi, năm theo cách tính âm lịch của người Việt.   Cách đây 1080 năm về trước, vào năm 939 – Ngô Tiên Vương (tức Ngô Quyền) đã đánh đuổi tan giặc Nam Hán, tạo ra nhà nước Việt Nam độc lập và tự chủ. Sự độc lập, tự chủ không chỉ đến từ việc xưng vương, mà ngay cả trong việc chọn kinh đô là Cổ Loa (thuộc Phong Châu - nay là Đông Anh, Hà Nội). Theo nhiều nhà nghiên cứu, chọn Cổ Loa thay vì Đại La xuất phát từ 'ý thức dân tộc trỗi dậy, tiếp nối quốc thống xưa của nước Âu Lạc xưa, biểu hiện ý chí đoạn tuyệt với Đại La do phương Bắc khai lập'.   Điều đó cho thấy rằng, sự dung dưỡng ý thức quan trọng là tối quan trọng, là nền tảng của nền tảng trong đoạn tuyệt với 'ý chí' của phương Bắc.   Sau 1080 năm, ý chí đoạn tuyệt với phương Bắc nhiều lần được vun đắp ngầm và biểu lộ công khai (hiếm hoi) trong các lần biểu tình của người dân Việt nhằm thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền Biển Đông trong những năm gần đây. Tuy nhiên, sự đoạn tuyệt với 'ý chí' của phương Bắc luôn là một câu hỏi lớn, không có lời giải đáp đối với nhóm người cai trị hiện nay.    Trong xã hội hiện tại, khi đề cập đến Trung Quốc, người dân hiểu ngay đó là sự bá quyền và tham vọng,... Việt Nam với Trung Quốc là láng giềng, như sự khoản đãi trên tinh thần hữu hảo anh em chưa bao giờ được duy trì quá vài thập niên, thậm chí ngay trong thời kỳ của những người Cộng sản (vốn cùng ý thức hệ). Những lục đục giữa lãnh đạo cấp cao hai quốc gia sau Hiệp định Geneva 1954 cho đến cuộc chiến Biên giới 1979 thực chất là biểu hiện sống động cho mối quan hệ đầy bất ổn, nấp dưới những ngôn từ hữu hảo. Chính vì vậy, dung dưỡng lòng yêu nước, dung dưỡng một thái độ tự chủ trong dân tộc là điều cần thiết và cốt yếu trong xây dựng một nền phản vệ quốc gia trước mọi yếu tố gây hấn, xâm lăng đầy bất ngờ từ phương Bắc. Đây không phải là một 'thuyết âm mưa' hay sự 'lo ngại đầy viển vông', mà bởi, những tham vọng Biển Đông của Trung Quốc đã hiện thực hóa bằng dàn tên lửa, các căn cứ quân sự,... và sự mở rộng không ngừng nghỉ ảnh hưởng của nước này trên tuyến hàng hải thương mại quan trọng bậc nhất của thế giới. Nơi có sự tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia Đông Nam Á với Trung Quốc, trong đó Việt Nam là quốc gia đòi hỏi yếu tố chủ quyền nhiều nhất, gay gắt nhất trước Bắc Kinh.    Năm 2019, tình hình biển Đông có thể nguy cấp hơn, bởi trong một bài viết ngày 2.2.2019 trên The Diplomat, có đề cập đến thất bại của Mỹ trong việc chống lại chiến thuật khu vực xám của Trung Quốc tại vùng Biển Đông, mà nguyên nhân không bắt nguồn từ sự thiếu ý chí, mà là từ sự thiếu các lựa chọn (nhượng bộ, mạo hiểm chiến tranh). Kết quả, Mỹ chọn sự nhượng bộ trong hàng tá năm trở lại đây, họ không sẵn sàng thách thức trực tiếp sự kiểm soát đối với khu vực này, và bởi bản thân 'tự do an ninh hàng hải' chưa phải là lý do để Mỹ chọn lựa sự mạo hiểm. Bản thân Tập Cận Bình cũng sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh ở Biển Đông với tuyên bố, 'phản ứng thích hợp với các xáo trộn ở Biển Đông' [2].   Những sự kiện nêu trên đã dẫn đến một viễn cảnh 1979, nhưng sự ngoan cường và chính nghĩa của Việt Nam sẽ phụ thuộc vào cách mà lòng dân Việt Nam hưởng ứng như thế nào. Để thực thi tinh thần ái quốc, và sự bảo vệ không giới hạn của người dân đối với quốc gia dân tộc, thì phải đến từ sự tự chủ của cả dân tộc. Nó không phải là sự tự chủ của ban phát bằng tuyên truyền hay nghị quyết đảng, mà phải cho phép người dân có những quyền biểu đạt của mình - cái quyền vốn được ghi nhận trong Hiến pháp.   Nói cách khác, nếu chính quyền muốn tính chính danh của thể chế tiếp tục duy trì, và yếu tố chủ quyền không ảnh hưởng quá sâu đậm tới sự tồn tại hay không tồn tại của chính đảng, thì bản thân những nhà lãnh đạo (gắn phù hiệu ĐCS) phải dung dưỡng và cổ vũ sự tự chủ của dân tộc bằng cách nhanh luật về biểu tình. Một dự luật bị treo nhiều năm, do lo ngại sự hình thành 'cách mạng màu' trong nhóm cầm quyền tại Hà Nội. Trong khi đó, khi biểu tình nổ ra, mặc dù là biểu tình chống Trung Quốc, bảo vệ chủ quyền, những người biểu tình đã bị đáp trả bằng bạo lực, mặc dù họ hoàn toàn ôn hòa. Điều này khiến cho sự nghi ngờ về quyết tâm bảo vệ chủ quyền của ĐCS, về sự tự chủ của ĐCS trong người dân gia tăng, đi kèm sự phẫn nộ.   Ra Luật biểu tình trước hiểm họa Biển Đông, không chỉ vì sự tồn vong của chính ĐCS, mà vì sự tồn vong của quốc gia và dân tộc. Nó là khởi nguồn của mùa xuân độc lập và tự chủ như cách mà Ngô Tiền Vương từng thiết lập, trước họa phương Bắc. Nó là cách ứng xử đầy kiêu hãnh để đảm bảo giá trị của một quốc gia ngàn năm đứng vững trước nhiều lần họa xâm lăng phương Bắc. Là kết tinh của trí tuệ và sự hợp thể giữa chính quyền và nhân dân. -   Đoạn tuyệt ý chí với Trung Quốc trên vùng Biển Đông, đó là chuyện cần làm.   Tham khảo   [1] https://thediplomat.com/2019/02/what-the-berlin-airlift-can-teach-us-about-the-south-china-sea/ [2] https://nationalinterest.org/feature/what-causing-chinas-recent-war-words-washington-42947  
......

TÂM SỰ ĐẦU NĂM

  Tuy bị tước mất giấy phép hành nghề luật sư, chưa ngày nào tôi không hành nghề luật kể từ lúc bước chân ra khỏi nhà tù đến nay. Và tương lai vẫn vậy, tôi sẽ tiếp tục là một luật sư đúng với danh vị và niềm tự hào của nghề nghiệp cao quý này. Fb Luật sư Lê Công Định     Ngày 6/2 hôm nay là tròn 6 năm kể từ ngày tôi bước ra khỏi nhà tù cộng sản. Quãng thời gian gần 4 năm tù đày thật sự là giai đoạn khắc nghiệt song quý giá để đào luyện bản thân, đặc biệt khi tôi đã dám bỏ lại sau lưng tất cả sự nghiệp, tiền tài và danh vọng mà không nuối tiếc. Bất kể ai đàm tiếu gì, tôi thấy mình đã DÁM.   Sau khi ra tù hầu như tôi quay trở lại nghề luật sư ngay lập tức, tuy không còn ở trong cộng đồng luật sư nữa, bởi nhiều khách hàng cũ và mới vẫn tin tưởng kinh nghiệm nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên trong 3 năm đầu tiên, tôi chỉ làm việc một mình ở nhà, tự khảo cứu, tự soạn thảo, mà không có đồng nghiệp trẻ nào hỗ trợ.   Từ năm 2016, kết thúc gian đoạn quản chế 3 năm, tôi tham gia văn phòng luật chuyên nghiệp của luật sư Trần Vũ Hải. Thật ra tôi có nhiều bạn bè thân hơn anh Hải trong giới luật sư, nhưng người duy nhất chìa bàn tay tương trợ tôi vào lúc khó khăn chỉ có luật sư Trần Vũ Hải. Thật là ơn tri ngộ mà tôi luôn trân trọng và mong có dịp đáp đền anh và gia đình anh mai này.   Gần 3 năm qua tôi đã dốc sức giúp anh Hải xây dựng chi nhánh Sài Gòn của VPLS Trần Vũ Hải với tên gọi EZLAW, tên do con trai anh Hải là luật sư trẻ Trần Đức Hoàng đặt. Ban đầu chỉ có tôi và luật sư Hoàng làm việc với nhau.   Sau gần 3 năm, công việc phát triển, chúng tôi đã có một đội ngũ 10 luật sư trẻ tại Sài Gòn, cùng với khoảng 20 luật sư ở Hà Nội. Sở trường của tôi vẫn là tư vấn luật lệ kinh doanh cho giới đầu tư và thương mại trong nước và quốc tế.   Bất kể trở ngại bị cấm xuất cảnh đi nước ngoài, một công việc khác của tôi là gặp gỡ giới học giả và luật sư quốc tế để thuyết trình và trao đổi quan điểm về hiến pháp và luật pháp Việt Nam, trong góc nhìn đối chiếu với hiến pháp và luật pháp ngoại quốc.   Khác với giới học giả và luật sư Việt Nam hiện tại, giá trị từ những bài thuyết trình mà tôi mang đến cho đồng nghiệp quốc tế là ở chỗ tôi không tự kiểm duyệt mình và luôn đưa ra các nhận định đúng bản chất vấn đề, dựa trên kiến thức và kinh nghiệm vốn có của mình.   Đối với tôi, học thuật là tự do và không có vùng cấm dẫu ý thức hệ khác biệt. Hơn nữa tôi không phục vụ cho hoặc nhận lợi ích từ bất cứ đảng phái chính trị nào. So với thời gian trước lúc bị bắt giam, mối quan hệ quốc tế của tôi lại rộng mở và phát triển hơn nhiều, dù tôi vẫn chỉ ngồi tại Sài Gòn. Tất cả đều nhờ vào vụ án chính trị lớn mà nhà cầm quyền hiện nay đã tạo ra cho tôi 10 năm trước.   Tuy bị tước mất giấy phép hành nghề luật sư, chưa ngày nào tôi không hành nghề luật kể từ lúc bước chân ra khỏi nhà tù đến nay. Và tương lai vẫn vậy, tôi sẽ tiếp tục là một luật sư đúng với danh vị và niềm tự hào của nghề nghiệp cao quý này.
......

Số phận Trương Duy Nhất và băng đảng truyền thông Nguyễn Xuân Phúc.

Người Buôn Gió| Bắt đầu vào tháng 12 năm 2018 Trương Duy Nhất đã cảm thấy sự đe doạ bủa vây quanh mình, Nhất  chạy vào trong Nam để né tránh Huỳnh Đức Thơ. Ở trong Nam, Nhất nghĩ rằng việc của mình chỉ nằm trong phạm vi Đà Nẵng, cứ lánh im một thời gian là sẽ qua. Huỳnh Đức Thơ thấy Nhất đã thoát khỏi địa bàn ảnh hưởng của mình, liền báo cáo lên đàn anh Nguyễn Xuân Phúc. Phúc tất nhiên biết rõ Nhất là người từng ở bên Nguyễn Bá Thanh, những việc gì xảy ra ở Đà Nẵng Nhất đều nắm rõ. Từng giữ những chức vụ ở Đà Nẵng như giám đốc sở kế hoạch, giám đốc sở du lịch của tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng ( hồi chưa tách tỉnh) những dấu vết đen của Phúc không thể một người như Nhất không biết. Trong những năm tháng đấu đá trước thềm đại hội 12, Nhất là một trong những nhà báo tấn công Nguyễn Tấn Dũng nhiều nhất cùng với Osin. Hầu như những cây bút nào có tên tuổi như là nhà văn, nhà báo bị bắt thời Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng đều được Osin rỉ tai thủ phạm bắt chính là Nguyễn Tấn Dũng. Vì thế Osin hay có mặt với những thân nhân gia đình này hay lúc họ được ra khỏi tù như Trương Duy Nhất, Nguyễn Quang Lập. Mục đích của Osin là kích động những người này tấn công Nguyễn Tấn Dũng trước thềm đại hội  12 giúp cho Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Xuân Phúc có lợi thế. Chính vì thế, khi thời của Phúc và Trọng rất nhiều người bị bắt với mức án khủng khiếp hơn ông Lập và ông Nhất đến mười lần những không thấy Osin rỉ tai thông tin bắt là do ai như trước kia. Thời của Phúc và Trọng nhà báo Osin không còn phải đảm nhận việc rỉ tai ai là thủ phạm của những vụ bắt bớ nữa. Vì thủ phạm chính là những kẻ mà Osin đang phụng sự ( hoặc vì thời thế phải phụng sự để tồn tại  chứ chưa hẳn Osin thích chế độ cộng sản, có thể nếu thể chế cộng sản này sụp đổ, Osin Huy Đức lại là một cây bút sắc bén góp công lớn kết thúc chế độ để có chỗ đứng về bên thắng cuộc). Trái lại Osin ca ngợi Phúc là người có khả năng kỹ trị, người cải cách bao nhiêu thủ tục hành chính giúp các doanh nghiệp  mà đời Dũng đã không làm được, là người kiến tạo và vì dân. Còn Nguyễn Phú Trọng là người liêm khiết, người chí công vô tư, người luôn nặng lòng với đất nước, người có thái độ '' rõ ràng '' với Trung Quốc. Trương Duy Nhất tấn công Nguyễn Tấn Dũng miệt mài, nhưng Nhất không phò hẳn về bên thắng cuộc như Osin. Nhất vẫn tiềm chứa những điều mà Nguyễn Xuân Phúc không ưa, nói cách khác Nhất với Lê Nguyễn Hương Trà là cái gai trong mắt Phúc. Phải nói Phúc là bậc thầy về sử dụng truyền thông, Phúc sớm nhận thấy truyền thông mạng xã hội đóng vai trò quan trọng trong tác động chính trị tại Việt Nam, nhất là một tổng bí thư như Nguyễn Phú Trọng lại là một người háo danh đến mê muội thì càng cần đến tác động của truyền thông. Bởi vậy Phúc để cho Thân Đức Nam đảm nhiệm việc mua chuộc những cây bút, tờ báo phụng sự cho sự nghiệp chính trị của mình. Hầu hết các tờ báo, nhà báo, cây viết trên mạng đều bị phe Nguyễn Xuân Phúc mua chuộc, riêng có Nhất và Lê Nguyễn Hương Trà cùng một số hiếm hoi nhà báo khác không chịu về làm '' môn khách '' cho nhà Phúc. Khi Phúc làm thủ tướng, ông nhà báo kiêm  nguyên chủ nhiệm văn phòng báo chí chính phủ, hàm vụ trưởng Dương Đức Quảng là bố của nhà báo Dương Đức Đà Trang đã có bài viết thể hiện sự sung sướng khi đời ông đã từng được phụng sự thủ tướng Phúc và nay đến đời con ông cũng vinh dự được theo hầu thủ tướng Phúc. Dương Đức Đà Trang là sếp lớn ở báo Tuổi Trẻ, qua đây có thể thấy Phúc khéo sử dụng truyền thông đến thế nào. Đến tầm cỡ như bố con nhà họ Dương Đức còn phải bày tỏ như vậy, những loại nhà báo khác tự hiểu ý mà thần phục về với Nguyễn Xuân Phúc. Sở dĩ phải nhắc đến những sự thần phục này, để thấy trong làn sóng quy thuận Nguyễn Xuân Phúc thì những nhà báo có tên tuổi không chịu nghiêng về tất nhiên sẽ gặp phải sự trả thù hèn hạ của Phúc như Nhất và Lê Nguyễn Hương Trà.  Nhưng so với Nhất thì Trà nhẹ hơn, bởi Trà không phải là người cắm rễ sâu ở Quảng Nam - Đà Nẵng như Nhất để nắm rõ về phe cánh Nguyễn Xuân Phúc. Các thần dân truyền thông của Nguyễn Xuân Phúc trong hai năm vừa qua hết sức mình phụng sự Phúc qua những bài viết ca ngợi Phúc hoặc tấn công những đối thủ của Phúc. Đứng đầu chủ sự tấn công là Hoàng Hải Vân ( tức Huỳnh Kim Sánh ).   Sánh đầu tiên kết hôn với bà  Mai Nhung tổng biên tập báo Nông Thôn Ngày Nay. Nhờ thế mà tạo được mối quan hệ để nhảy sang làm báo Thanh Niên dưới sự giúp đỡ của Nguyễn Công Khế. Băng truyền thông Quảng Nam khá mạnh cho đến tận bây giờ, Nguyễn Công Khế khi ấy nhận thấy Sánh có thể dùng để phụng sự truyền thông lợi ích nhóm, nên đã tác động để Sánh lên cao trong báo Thanh Niên. Khi có uy thế, Sánh bỏ bà Mai Nhung để kết hôn với Thu Uyên đài truyền hình Việt Nam. Cặp đôi này đã dựng lên công ty sản xuất truyền hình cung cấp sản phẩm '' Như chưa hề có cuộc chia ly ''. Thu Uyên dẫn chương trình, còn Sánh thì tận dụng cương vị tổng thư ký báo Thanh Niên lăng xê dày dặc chương trình này. Đây là thời gian kiếm bộn tiền của cặp rổ giá cạp lại Thu Uyên và Kim Sánh. Dương Đức Quảng từng kể rằng Sánh ( Hoàng Hải Vân ) và con trai ông là Dương Đức Đà Trang từng nằm trong danh sách các nhà báo đề nghị bắt mà tướng Nguyễn Văn Hưởng trình lên cho Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng nhờ có Nguyễn Xuân Phúc khi đó làm chủ nhiệm văn phòng nói đỡ cho Đà Trang, rồi tiếp đó Sánh kể rằng doTrần Quốc Vượng đứng đầu viện kiểm sát đã không chịu ký lệnh bắt nên Dũng, Hưởng không thể làm gì. Nói thế để thấy băng đảng truyền thông Quảng Nam đã hình thành mạnh từ nhiều năm trước và Nguyễn Xuân Phúc đã có ý đồ xây dựng những bồi bút phục vụ mình từ rất sớm.
......

Pages