Con ngựa và con người

Để có thể đưa con ngựa vào cỗ xe, người chủ thường bịt mắt chúng rồi nhẹ nhàng mơn trớn đưa chúng vào vị trí. Sau khi con ngựa yên vị trong chiếc xe kéo, người chủ còn ràng buộc hàng loạt sợi dây qua đầu, qua miệng của chúng. Có một số con ngựa phản ứng bằng cách quầy quả, lắc đầu cho có theo bản năng nhưng đa số ngoan ngoãn làm theo. Sau khi mọi việc đây vào đấy, ông chủ nhảy lên xe, tay giật cương, tay phất roi da. Con ngựa chỉ còn cách gồng sức kéo cỗ xe và người chủ của nó. Trên là việc thuần ngựa kéo xe. Trong thực tế có nhiều dân tộc bị một nhóm nhỏ thuần phục và cai trị như vậy. Ban đầu nhóm cai trị dỗ ngon ngọt hứa hẹn nhân dân nhiều điều tốt đẹp (thường là ảo vọng hạnh phúc, cuộc sống sung túc kiểu làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu). Rồi họ nại một số lý do để đưa ra một số bộ luật, bên ngoài nghe hay nhưng thực chất không khác gì miếng bịt mắt và dây cương như con ngựa trên. Nếu mọi việc thành công thì lớp cai trị tha hồ giật dây cương và vung roi da để điều khiển nhân dân đi đâu mà chúng muốn. Đã vào tròng, vào ách thì biết ngày nào ra? Thủ đoạn đơn giản nhưng nhiều dân tộc đã sập bẫy, nhiều dân tộc khôn ngoan hơn trong đó người Hồng Kông. Hồng Kông là thành phố có 7 triệu dân nhưng mỗi năm thu nhập đến hơn 300 tỷ USD, tầm gấp đôi số tiền mà 90 triệu người VN kiếm được cùng thời gian. Không thấy dân Hồng Kông đi làm vợ hay đi làm osin cho các nước. Cách đây hai năm, những gã chăn dân chuyên nghiệp ở Bắc Kinh muốn bịt mắt một phần dân Hồng Kông với chương trình giáo dục nhồi sọ nhưng đã thất bại khi có tới hơn 120.000 người đứng lên phản kháng. Thủ lĩnh là cậu bé 15 tuổi. Thua keo này, bày keo khác, một thủ đoạn mới được đưa ra; mới đây lãnh đạo Bắc Kinh lấy chiêu bài cần bầu người yêu nước họ qui định người dân Hồng Kông chỉ có thể chọn người lãnh đạo cho mình trong số người người do trên đưa xuống. Nôm na là kiểu đảng cử dân bầu như ở ta. Là con người chứ không phải con ngựa, người Hồng Kông không thể bị bịp dễ đến vậy. Họ đã nhất loạt đứng lên phản đối, họ quyết liệt, rất quyết liệt, vì họ biết rằng một khi dây cương đã tròng vào đầu thì rất khó gỡ.   Thủ lĩnh của họ không phải là cây đa cây đề mà chỉ là cậu bé 17 tuổi. Dân trí cao, họ nghe tiếng nói của lẽ phải, của lương tri thay vì câu nệ ai là người nói. Người Hồng Kông đã sống với kiếp người, trong khi nhiều dân tộc khác còn sống dưới dây cương, roi da và tấm màn che mắt của kiếp ngựa.    
......

Nghĩ về Joshua Wong và tuổi trẻ Việt Nam

Trong đêm thứ sáu ngày 26/09/14 vừa qua tại Quảng trường Dân sự (Civic Square), tuổi trẻ Hồng Kông đã chứng tỏ sự dũng cảm của mình khi đứng cùng nhau, kiên định đấu tranh vì một nền dân chủ thực sự cho Hồng Kông. Lời nhắn gởi của lãnh đạo sinh viên 17 tuổi Joshua Wong khi anh bị cảnh sát lôi kéo đi đã làm rung động trái tim người Hồng Kông và thế giới. Những thanh niên sinh viên khác đã cùng hát to, hô vang những khẩu hiệu và cố giành giật để cứu anh thoát khỏi tay cảnh sát nhưng vô hiệu. Tôi tin nhiều bạn trẻ Việt Nam cũng đã xúc động khi đọc lời nhắn gởi của Joshua Wong: "Tương lai của Hồng Kông tùy thuộc vào bạn, bạn và bạn".   Cảnh sát đã xịt hơi cay vào người biểu tình. Một số sinh viên bị thương, khi bị dẫn ra ngoài, họ bật khóc. Hàng trăm những sinh viên trẻ khác cùng đứng khoác tay, khóa vào nhau khi cảnh sát vây quanh họ bằng khiên chắn kim loại, một số đã hô vang "bất tuân dân sự". Những ngày sau đó, hàng ngàn, chục ngàn, trăm ngàn người dân Hồng Kông đã kéo đến cùng biểu tình để hỗ trợ các sinh viên này. Quang cảnh tràn ngập người trên các đường phố của Hồng Kông đã gợi lại nỗi khát khao về một nền dân chủ của các sinh viên Thiên An Môn 25 năm về trước. Nỗi khát khao này được ghi trong bản tuyên ngôn của sinh viên, trí thức và người lao động đã tham gia phong trào Thiên An Môn: Dù những đôi vai của chúng ta vẫn không đủ sức mạnh, dù cái chết đối với chúng ta sẽ rất khắc nghiệt, chúng ta phải chấp nhận hy sinh cuộc sống, chúng ta không có chọn lựa nào khác khi lịch sử đòi hỏi chúng ta phải làm điều đó… Với vong linh của người đã khuất - chúng ta đấu tranh để được sống. Với sự tuyệt vọng để cứu lấy cái đất nước ích kỷ và không có nhuệ khí này - chúng ta dâng hiến bản thân mình. Nếu chúng ta không sẵn sàng để hy sinh thì còn ai sẽ làm điều đó đây?   Joshua Wong và tuổi trẻ Hồng Kông làm chúng ta nhớ đến hoàn cảnh đất nước mình, nhớ đến những người trẻ Việt Nam với một niềm hãnh diện xen lẫn một chút xót xa. Xót xa vì những người trẻ của chúng ta, những Nguyễn Đình Hà, Huỳnh Phương Ngọc, Đinh Nhật Uy, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên, Đỗ Thị Minh Hạnh… vẫn còn rất đơn độc. Chúng ta chưa có được hàng ngàn những người trẻ cùng đứng khoác tay nhau trên đường phố như những người bạn của Wong. Chúng ta cũng chưa có được con số hàng ngàn người đổ ra đường để hỗ trợ các bạn trẻ này đòi dân chủ, dù nỗi khát khao dân chủ, nỗi khát khao được sống với những phẩm chất của tự do và quyền con người của chúng ta cũng cháy bỏng không thua gì người dân Hồng Kông. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang có vô số điều để hãnh diện về tuổi trẻ Việt Nam. Giữa lao tù, giữa cô đơn, giữa những trấn áp hung bạo, những người trẻ Việt Nam vẫn âm thầm làm phần nhiệm vụ mà lịch sử giao phó cho họ. Dù những đôi vai ấy vẫn chưa đủ sức mạnh, nhưng các bạn đó đã cho chúng ta thấy rõ sự kiên định về điều họ đã chọn lựa. Họ nhận trách nhiệm với chính thế hệ của mình. Tôi muốn được nói đến những hành động đấu tranh bền bỉ của các thanh niên Công giáo và Tin lành. Ngày 3/9/14 vừa qua, chúng ta lại nhận được tin tù nhân lương tâm Nguyễn Đình Cương đã tuyệt thực để phản đối các vi phạm của quản giáo trại giam. Theo gia đình anh Cương cho biết anh bị kỷ luật và bị cùm chân là do đã lên tiếng để bảo vệ một tù nhân cùng phòng đã bị quản giáo đánh đập. Suốt từ năm 2011 cho đến nay, từ khi các bạn trẻ này bị bắt giam, chúng ta vẫn không ngừng nghe nói về cách hành xử và những hoạt động đấu tranh của họ, xin đơn cử một vài trường hợp:     - Sau nhiều năm bị bắt giam, tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu vẫn không chấp nhận mặc áo tù.     - Ngày 21/6/13 anh Trần Minh Nhật tuyệt thực để phản đối cán bộ trại giam Nghi Kim liên tục xúc phạm nhân phẩm và tính mạng đối với chính anh.     - Tháng 8 năm 2013, anh Trần Hữu Đức bị ban giám thị trại tù K3 Phú Sơn 4, tỉnh Thái Nguyên “vô cớ còng tay, còng chân và biệt giam suốt 9 ngày đêm”. Hay tin này, 4 tù nhân lương tâm khác gồm các anh Hồ Văn Oanh, Trần Minh Nhật, Nguyễn Văn Thanh và Chu Mạnh Sơn đã đồng loạt tuyệt thực để phản đối. Nhờ vậy, Trần Hữu Đức mới hết bị còng và biệt giam.     - Tại trại giam Nam Hà, do không cúi chào cán bộ, Paulus Lê Sơn đã bị hai quản giáo dùng dùi cui đánh đến gãy chân. Tù nhân Vi Đức Hồi đã phản đối hành vi dã man này của công an khiến ông bị kỷ luật rồi bị biệt giam. Tuy nhiên, sau đó cũng chính Lê Sơn là người đã xin cho viên quản giáo hành hung anh khỏi bị kỷ luật.     - Và cách đây không lâu, hai sinh viên Trần Minh Nhật và Trần Hữu Đức đã tuyệt thực để đòi quyền được thực hành niềm tin tôn giáo của tù nhân trong trại tù. Trong một xã hội mà sự tử tế trở nên khan hiếm, người ta chợt tìm thấy niềm an ủi và hy vọng từ những tù nhân trẻ tuổi này. Họ gồm có mười bảy người, bị bắt gần như đồng loạt, chỉ cách nhau trên dưới một tháng. Họ là những thanh niên đi cứu trợ đồng bào lũ lụt, góp nhặt ve chai gây quỹ, đi lượm nhặt các thai nhi bị vất bỏ, vận động các bà mẹ không nạo phá thai, giúp đỡ những thanh niên cai nghiện, v.v… Vậy mà những người trẻ này đã và đang phải gánh chịu những bản án bất công, có người phải chịu đến 13 năm tù như trường hợp hai anh Hồ Đức Hoà và Đặng Xuân Diệu. Những thanh niên Công giáo và Tin lành này là hiện thân của những giá trị mà chúng ta muốn vực dậy. Điều đáng nói ở đây là chúng ta có đang thờ ơ với những hy sinh và nỗ lực của họ hay không? Một nhà văn đã nói: nhân cách của một con người được nhìn thấy rõ hơn khi họ bị xô ngã. Chúng ta đã bị xô ngã, tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam cũng đã bị xô ngã đến xấp mặt, chúng ta đã làm gì để vực dậy chính mình? Trong buổi biểu tình ngày 29/9 vừa qua ở Hồng Kông, một tài xế lái taxi 55 tuổi, ông Edward Yeung đã nói với hàng rào cảnh sát chống bạo động rằng: “Nếu tôi không đứng lên hôm nay, tôi sẽ ghê tởm bản thân mình trong tương lai. Ngay cả khi phải bị khép tội hình sự vì hành động này thì đó sẽ là một điều vinh quang”. Joshua Wong, tức Hoàng Chi Phong, không chỉ làm rung chuyển Hồng Kông, mà có lẽ anh còn đánh thức cả thế giới, bao gồm luôn giới trẻ Việt Nam và tầng lớp thống trị Cộng Sản. Lãnh tụ hay minh chúa đâu nhất thiết phải là người cực kỳ "tài cao hiểu rộng", không nhất thiết phải có một "thành tích lẫy lừng", ... chỉ cần có "thiện tâm & quyết tâm" trong tinh thần trách nhiệm với chính mình và lòng yêu thương lẽ phải. Có lẽ những yếu tố trên đã đem hàng vạn người Hồng Kông đến đứng sau lưng chàng sinh viên 17 tuổi này. Trở lại với những người trẻ của chúng ta, không lâu trước khi được phóng thích, tù nhân lương tâm Đặng Ngọc Minh đã có dịp gặp anh Đặng Xuân Diệu trong trại giam. Anh Diệu lúc đó rất xanh xao vì vừa trải qua một giai đoạn tuyệt thực dài. Khi chào từ giã nhau, Đặng Xuân Diệu đã nói với bà Minh rằng anh tin đất nước anh sẽ phải thay đổi trong vòng hai năm trước mặt. Liệu niềm tin của Đặng Xuân Diệu có trở thành sự thật không? Xin được gởi giúp những người trẻ bất khuất đầy “thiện tâm & quyết tâm” này một lời nhắn. Một niềm hy vọng thiết tha mà tôi tin rằng họ muốn nhắn gởi đến các bạn trẻ và người dân Việt Nam trên khắp đất nước: “Tương lai tổ quốc Việt Nam tùy thuộc vào chính bạn và tôi”.
......

NHỮNG KỊCH BẢN LẠC HẬU CỦA NHÀ NƯỚC CSVN

Những vở diễn lạc hậu   Càng ngày, các vở diễn, kịch bản vu khống và bắt người của công an Cộng sản Việt Nam nhắm vào người yêu nước càng dày đặc. Trong đó, những vụ nổi trội như vụ blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, luật sư Lê Quốc Quân, luật sư Cù Huy Hà Vũ, luật sư Lê Công Định… Đều là những vụ bắt bớ đầy kịch tính và hết sức buồn cười. Nếu như đa phần các vụ bắt bớ đều viện lý do về hộ khẩu, hộ tịch, tạm trú… thì những vụ còn lại, những kịch bản dành cho nó khá buồn cười, ví dụ như trốn thuế, sử dụng bao cao su. Trong đó, nổi trội nhất là vụ luật sư Cù Huy Hà Vũ bị bắt vì lý do sử dụng hai cái bao cao su, và tang chứng, lý do duy nhất để bắt ông Vũ là hai cái bao cao su đã qua sử dụng. Buồn cười hơn nữa là sau khi bắt ông Vũ, cơ quan công an mới trưng ra hàng loạt bằng chứng vu cáo ông phạm tội lợi dụng quyền tự do ngôn luận để chống phá nhà nước và kết án tù ông. Câu chuyện ông Vũ đấu tranh trong tù, tuyệt thực như thế nào, thiết nghĩ không cần bàn thêm. Mà vấn đề muốn bàn ở đây là cái vở kịch, hay nói cách khác là kịch bản bao cao su rất ư thô thiển và lạc hậu mà nhà nước Cộng sản đã dùng để làm cái cớ bắt người. Điều này cho thấy tư duy của cơ quan hành pháp, chấp pháp Cộng sản Việt Nam có vấn đề trầm trọng. Người ta không có đủ sự thông minh hoặc sự tỉnh táo để viện dẫn luật pháp nhà nước (vì trên thực tế, mọi điều khoản luật Việt Nam hiện tại đều có chung mục đích là bảo vệ đảng Cộng sản, mọi cử chỉ, lời nói đụng chạm đến đảng Cộng sản đều có thể phạm vô số điều luật?!) mà phải dùng đến những trò bẩn thỉu. Không chừng, họ lại nghĩ rằng làm như thế sẽ bôi nhọ hình ảnh của đối phương và khi bị bắt, đối phương rơi vào cô thế. Như trường hợp luật sư Cù Huy Hà Vũ, rất may là ông có người vợ tỉnh táo, hiểu chồng và hơn hết là biết hy sinh cho chồng con, hy sinh cho đại cuộc. Chuyện trắng đen chưa cần bàn, một người vợ nghe chồng mình bị bắt trong lúc đêm khuya, trong một phòng khách sạn với sự có mặt của một người phụ nữ khác, lại có hai bao cao su đã sử dụng… Máu tam bành nổi lên, cơn ghen nổi lên, có khi lại làm lộ hết mọi bí mật của gia đình, cuối cùng rơi vào bẫy của kẻ khác. Nhưng luật sư Dương Hà đã không bị rơi vào bẫy, bà hết sức tỉnh táo để chia sẻ với ông Vũ, không ngoại trừ việc sang nước ngoài vận động đưa ông Vũ ra khỏi tù. Kết quả là ông Vũ được đi Mỹ “chữa bệnh”. Hay ho hơn nữa, càng ngày, vở diễn và kịch bản bắt người của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam càng lộ liễu và lạc hậu, diễn đi diễn lại một bài, từ Bắc chí Nam đều chung khuynh hướng dựng một chuyện gì đó để vu khống, bắt nóng và sau đó dẫn qua chuyện liên quan đến điều 258, nếu không dựng chuyện trốn thuế thì cũng dựng chuyện gây rối trật tự công cộng (như chuyện nhà đấu tranh Bùi Thị Minh Hằng bị bắt ở Long An chẳng hạn) rồi sau đó cho báo chí trong nước dựng chuyện, lăng mạ người bị bắt. Cái kịch bản và vở diễn này lạc hậu, vô văn hóa đến mức những người yêu nước, đấu tranh dân chủ nhân quyền đều tin chắc rằng khi họ bị bắt, trước tiên, họ cũng phải xem một vở kịch như thế. Thậm chí, các nhà đấu tranh dân chủ, nhân quyền Việt Nam phải thốt lên rằng sao lại cứ dùng mãi một cái kịch bản quá lạc hậu và vô văn hóa như vậy để bắt người, chẳng lẽ không có kịch bản nào khác, mới mẽ hơn sao? Chí ít cái kịch bản mới đó cũng “an ủi” phần nào người bị bắt, không tạo ra bối cảnh quá lếch thếch, quá nhếch nhác và thiểu năng như đang thấy. Bởi dù sao cái kịch bản mới trong chuyện bắt bớ cũng đỡ làm bẽ mặt người Việt Nam, cho thấy người Việt không đến nỗi ngu ngốc và lạc hậu đến mức hành xử chẳng khác nào súc vật với nhau, mà hơn nữa đây là hành xử của nhà nước đối với công dân, một kiểu hành xử mang tính mẫu mực và phản ánh dân tộc tính! Nhưng, có vẻ như cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có kịch bản nào mới trong việc buộc thế, bắt bớ, vu tội cho các nhà đấu tranh yêu nước. Và cho đến thời điểm bây giờ, chắc chắn, trong số hàng triệu nhà đấu tranh dân chủ, nhân quyền đang có mặt tại Việt Nam, nếu có ai bị bắt, họ lại phải xem một vở kịch “bổn cũ soạn lại” của nhà cầm quyền. Đây là điều mà ai cũng có thể nhận ra và lâu ngày, nó trở thành câu chuyện rất quen thuộc, giống như chuyện thường ngày ở huyện, không có gì đáng bàn. Nếu gặp, người ta sẽ bảo: “Ở đây vốn vậy!”. Cò một điều cũng cần nói thêm là một khi mọi trò khỉ của nhà cầm quyền trở nên nhàm chán, trơ trẽn, không những không làm cho người khác sợ mà còn biến thành trò hề trước công luận quốc tế cũng như công dân trong nước thì e rằng, thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa khó mà kéo dài thêm! Chỉ cầu mong sao sự chấm dứt của nó diễn ra có tính người một chút, đừng quá khỉ! Nguồn : http://www.rfavietnam.com
......

Sự tồi tệ của tâm lý bầy đàn

Tôi chưa được thấy ở đâu một định nghĩa chính xác về tâm lý bầy đàn. Nhưng tôi đoán, cụm từ này có thể được hiểu theo hai cách. Thứ nhất là giống như “tâm lý đám đông”, tức là tâm lý chung của một đám người, với những “hiệu ứng” của nó, nhưng nghiêng về kiểu không có suy nghĩ, gần với bầy đàn động vật. Thứ hai là tâm lý của những cá thể, luôn muốn sống giữa đám đông, sợ những khoảng thời gian đơn độc, và làm gì cũng đều nhìn đám đông mà làm theo, gần như không suy nghĩ, không có quan điểm và sở thích riêng.   Trong bài này, chúng tôi nói về tâm lý bầy đàn theo cách hiểu thứ hai.   Mỗi một con người đều cần đến những người chung quanh: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, đoàn thể,… Cần vì nhiều lý do. Thứ nhất là vì có những nhu cầu trong cuộc sống mà có sự phối hợp tập thể thì việc đáp ứng sẽ dễ dàng hơn. Thứ hai, quan trọng hơn, là nhu cầu tình cảm: người thân là chỗ dựa tinh thần cho chúng ta. Và thứ ba là nhu cầu nhận thức: việc trao đổi, bàn bạc, học và dạy lẫn nhau là vô cùng quan trọng đối với việc thu nhận và sàng lọc kiến thức, chắt lọc lấy chân lý. Tuy nhiên, nhận thức và thế giới nội tâm của một con người chỉ có thể hoàn thiện (theo nghĩa tương đối) nếu người đó có khả năng ở một mình trong những khoảng thời gian khá dài (có thể là nhiều ngày). Việc đó vừa thể hiện năng lực tự giải quyết những vấn đề riêng tư, vừa thực sự cần thiết cho việc suy tư, nghiền ngẫm để đạt tới tri kiến sâu sắc, thứ mà người ta khó có thể nhận được khi ở trong đám đông ồn ào, dù là đám đông tụ tập để thảo luận những vấn đề nhận thức, như hội thảo khoa học chẳng hạn. Nhà khoa học không thể lúc nào cũng ở trong hội thảo; người đó cần có những lúc ngồi một mình để ý nghĩ và trí tưởng tượng phát huy hết tác dụng. Nhà văn khi viết cũng cần ngồi một mình. Đối với một vài tôn giáo, việc “luyện hồn” càng cần đến sự đơn độc, thậm chí là sự cô độc. Có thể nói, nhu cầu và khả năng sống đơn độc là thước đo sự trưởng thành của con người. Ngược với nhu cầu và khả năng sống đơn độc, khả năng suy ngẫm để chắt lọc chân lý, là tâm lý bầy đàn. Đó là hiện tượng tồi tệ, với nhiều hệ lụy. Ở đây chỉ xin nêu hai hệ lụy của tâm lý bầy đàn, một liên quan đến đời sống xã hội, và một liên quan đến đời sống cá nhân. Khi trong xã hội có quá ít người không thoát khỏi tâm lý bầy đàn thì xã hội đó sẽ gặp phải rất nhiều vấn đề nhức nhối. Trong xã hội đó, chân lý không tìm được chỗ đứng. Mỗi thành viên trong xã hội đều sẽ trông chờ có người đem “chân lý” đến cho họ. Khi đó, dù là cái gọi là “chân lý” thực ra là “giả lý”, họ cũng sẽ tiếp nhận một cách hào hứng, và tôn sùng cái nhân vật đem “giả lý” đến cho họ như một vĩ nhân, một vị cứu tinh. Rồi một nhóm người ham quyền lực sẽ quàng cái thòng lọng vào cổ họ, kéo họ đi bất cứ đâu mà nhóm người này muốn. Để giữ an toàn, nhóm người này tiếp tục gieo rắc và khuyến khích tâm lý bầy đàn, không cho mọi người tiếp cận chân lý thực sự. Trong một xã hội như vậy, luân lý, đạo đức sẽ suy đồi. Đạo đức chân chính sẽ bị thế chỗ bởi sự trung thành với những kẻ cầm thòng lọng. Ai dám hé răng nói lên sự thật chẳng những sẽ bị những kẻ cầm thòng lọng thít cổ cho đến chết, mà còn bị đồng loại ghét bỏ. Con người sẽ trở nên dối trá, và coi dối trá là lẽ sống. Trong cuộc sống cá nhân (và gia đình), tâm lý bầy đàn làm người ta không thể phấn đấu vì những gì thực sự có ích lợi cho bản thân. Những kẻ không giàu, thậm chí rất nghèo, cũng thi nhau vung tiền, kể cả tiền vay mượn, vào những việc lễ lạt, thủ tục vô bổ, để rồi sau đó sống trong nghèo túng và cắn xé lẫn nhau. “Con gà tức nhau tiếng gáy” chính là một biểu hiện của tâm lý bầy đàn. Một biểu hiện khác là “miếng giữa làng bằng sàng xó bếp” – xô xát, tranh cướp nhau chỉ để được một “miếng” không đáng gì, để sau đó sống trong thù hằn, mệt mỏi. Có những kẻ thấy người khác ở trong tổ chức này nọ có vẻ oai và có “màu”, cũng cố “phấn đấu” để lọt được vào cùng “đội ngũ” với những ông bà oai oách đó, cuối cùng chỉ làm rào chắn để các ông bà đó yên tâm mà “ăn” của thiên hạ. Có kẻ thấy người ta có chức tước, được trọng vọng, cũng cố chạy chọt chỉ để cũng có được tí chức sắc, dù hữu danh vô thực. Có kẻ thấy người ta là giáo sư, tiến sỹ, được xưng tụng rổn rảng tại chốn đông người, cũng cố bỏ tiền để kiếm lấy cái chữ “tiến” hay “thạc” chi đó cho đỡ kém cạnh, mà không biết trước được rằng cái giá phải trả lớn hơn nhiều so với cái thu được, trong khi nhận thức thuần túy cũng chẳng tăng thêm được tí nào. Về lâu dài, muốn tiến tới một xã hội lành mạnh, còn trước mắt là tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn cho chính mình, con người ta buộc phải thoát khỏi tâm lý bầy đàn. Đã có cái đầu riêng của mình, hãy dùng nó để suy nghĩ! (Tất nhiên, tôi biết có hàng ngàn người nghĩ giỏi hơn tôi, và vì vậy những lời tôi nói đây là lời tâm sự với những người không ở trong hàng ngàn người đó.) NGUYỄN TRẦN SÂM Nguồn: daohieu.wordpress.com
......

Từ Thiên An Môn đến bãi khoá ở Hong Kong

Những ngày này, các trang mạng xã hội ở Việt Nam liên tiếp đưa hình ảnh về phong trào bãi khoá của sinh viên, học sinh Hong Kong. Điển hình là trường hợp thanh niên đấu tranh dân chủ Hong Kong Joshua Wong, 17 tuổi kèm lời bình được trích từ nguồn CNN, "Tôi chưa đủ tuổi hợp pháp để lái xe nhưng đủ lớn để thay đổi cả thế hệ." “Bãi khóa phải xảy ra. Bất tuân lệnh và hãy nắm bắt vận mệnh của bạn”, đó là một trong những biểu ngữ được trương lên trong cuộc bãi khóa dự kiến kéo dài một tuần nhằm tập dượt cho cuộc biểu tình được cho là quy mô hơn vào ngày 1.10 tới của sinh viên Hong Kong. Ông Tập sẽ làm gì? Theo dõi cao trào đấu tranh dân chủ này, giới quan sát đặt ra câu hỏi. Một khi lực lượng dân chủ, dẫn đầu là giới trí thức và sinh viên thực hiện ý tưởng chiếm khu trung tâm tài chánh Đặc khu Hong Kong thì ông Tập Cận Bình có ra tay đàn áp đẫm máu như ông Đặng Tiểu Bình đã làm ở Thiên An Môn không? Không khó để tìm thấy tinh thần bất diệt từ sự kiện Thiên An Môn đang lưu truyền cuộc đấu tranh vì một nền dân chủ thật sự cho tương lai Hong Kong. Không khó để thấy giới lãnh đạo Trung Nam Hải đang chuẩn bị mọi biện pháp để bắt nhân dân Hong Kong phải tuân lệnh chuyên chế. Sau sự kiện Thiên An Môn, năm 1989, nhiều thập niên qua, vị thế kinh tế Trung quốc đã có nhiều thay đổi nhưng bản chất chuyên chế của chế độ Bắc Kinh vẫn không thay đổi. Năm 1997, Hong Kong được Vương quốc Anh trao trả về Trung Quốc, nhưng giá trị dân chủ mà người dân Hong Kong thấm nhuần cũng không thay đổi. Nếu hiệu ứng dân chủ Hong Kong truyền tới lục địa Trung Quốc, hẳn nhiên ông Tập Cận Bình sẽ không sợ lịch sử kết tội và sẽ như trường hợp ông Đặng Tiểu Bình ở Thiên An Môn, ông Tập sẽ thẳng tay đàn áp. Các lãnh tụ cộng sản ở mọi thời không có kiểu sợ bản án lịch sử. Vì sinh mạng của đảng cầm quyền họ sẽ bất chấp. Nhưng công dân Hong Kong vẫn không từ bỏ quyền đấu tranh đòi mở rộng quyền dân chủ vì một nền dân chủ thật sự. Phản ứng trong ôn hoà của các tổ chức xã hội dân sự và công dân Hong Kong với thể chế Bắc Kinh không phải là cuộc đối đầu vì lợi quyền kinh tế, chính trị nhất thời. Chính vì muốn chứng minh phẩm chất quyền con người trong một nền dân chủ thật sự, họ từ chối cái lồng son chính trị trong hình thức "dân chủ hiệp thương" kiểu Bắc Kinh. Chính vì sự khao khát chứng minh phẩm chất này mà hàng ngàn sinh viên Thiên An Môn đã phải trả bằng máu. Và dòng máu bất khuất của họ đã làm nên động lực cho mỗi trái tim trí thức học sinh Hong Kong hôm nay. Sự kiện này ảnh hưởng thế nào đối với Trung Quốc lục địa, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cu Ba? Dư luận cho rằng văn hoá bất tuân lệnh độc tài không có trong đại đa số người dân ở các nước nêu trên. Sẽ ảo tưởng nếu cho rằng cuộc đấu tranh dân chủ của công dân Hong Kong đang diễn ra sẽ thành công. Hong Kong là nơi duy nhất có triển lãm về thảm sát Thiên An Môn 1989   Nhưng nếu các công dân Hong Kong đáng kính trọng thành công trong việc buộc Bắc Kinh thực hiện lời hứa để người dân Hong Kong ứng cử và bầu cử trực tiếp đặc khu trưởng thì sao? Qua trường hợp trưng cầu dân ý về độc lập ở Scotland. Việc xứ Scotland tiếp tục là một phần của Vương quốc Anh, phe đa số chọn ở lại và phe thiểu số chọn độc lập đều cùng làm nên chiến thắng tôn vinh tinh hoa giá trị dân chủ. Dù chính thể Bắc Kinh có quay lưng lại với việc cải cách chính trị thì giá trị dân chủ cho hôm nay và tương lai của Hong Kong cũng đã chiến thắng. Từ Hong Kong, hiệu ứng bất tuân sự áp đặt chuyên chế sẽ là hiệu ứng văn hoá dân chủ dây chuyền, trở thành nguồn sáng mới cho các xứ chuyên chế còn lại của thế giới chính là điều được dự đoán. Nguồn: bbc.co.uk/vietnamese/forum
......

Còn ai tin được người Cộng Sản?

Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm. Trên tờ South China Morning Post có bài viết về quan hệ Trung Quốc - Đài Loan trên cách nhìn "một quốc gia, hai hệ thống" http://www.scmp.com/news/china/article/1601307/one-country-two-systems-r... Tổng Thống Đài Loan Mả Anh Cửu - Tập Cận Bình   Nội dung bài viết: Tập Cận Bình hôm qua làm sống lại ý tưởng thống nhất Đài Loan và Trung Quốc theo công thức "một quốc gia, hai chế độ". Ông Tập nhắc lại, không bao giờ Bắc Kinh bỏ mục tiêu để đạt được sự thống nhất quốc gia ở hai bờ eo biển. Tuy nhiên, Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu thẳng thừng bác bỏ ý tưởng đó, nói rằng "không thể chấp nhận" bởi vì nó sẽ làm Đài Loan mất chủ quyền. "Một quốc gia, hai chế độ" là một công thức của Đặng Tiểu Bình để đối phó với thách thức chính trị chưa từng có ở Hồng Kông, một khi nơi này được trả lại cho Trung Quốc 1997. (*) Trong khi ông Tập nhấn mạnh đến hòa bình thống nhất đất nước và công thức "một quốc gia, hai hệ thống" là cách tốt nhất để thu hẹp khoảng cách chính trị hai bờ eo biển, ông cũng ám chỉ vận dụng nó linh hoạt. Ông nói rằng, trước khi áp dụng công thức, Bắc Kinh sẽ "xem xét đầy đủ tình hình thực tế tại Đài Loan, ý kiến đề xuất từ các thành phần khác nhau của hai bên eo biển, và chú ý đến những đặc quyền và sắp xếp thuận lợi cho người dân Đài Loan". Trong một tuyên bố chỉ một giờ sau đó, Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu đã từ chối chấp nhận đề nghị của Tập Cận Bình, nói rằng Đài Loan - nước Cộng hòa Trung Quốc - đã là một quốc gia có chủ quyền từ 103 năm... Hai bên là đối thủ cho đến khi kết thúc cuộc nội chiến năm 1949, nhưng mối quan hệ đã được cải thiện đáng kể từ ông Mã trở thành tổng thống vào năm 2008 và đã chấp nhận một chính sách nỗ lực cải thiện của Bắc Kinh. Các nhà phân tích cho biết diễn biến gần đây tại Hồng Kông và Đài Loan đã cảnh báo Bắc Kinh, họ đã để mất niềm tin công chúng ở cả hai nơi đối với thể thức "một quốc gia, hai hệ thống". Hàng ngàn người Hồng Kông đã xuống đường trong những tháng này để phản đối những gì họ xem như là một vi phạm lòng tin của Bắc Kinh về lời hứa của mình với 50 năm tự trị cho thành phố, theo thoả thuận với Anh quốc, bằng cách thắt chặt kiểm soát đối với quá trình bầu cử của Hồng Kông. Các cuộc biểu tình đã làm nâng cao mối lo ngại và sự chỉ trích mạnh mẽ Bắc Kinh tại Đài Loan. (*) Đặng Tiểu Bình đề xuất công thức "một quốc gia, hai hệ thống" vào năm 1978 để cho phép Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan duy trì hệ thống của mình (khu tự trị đăc biệt) như một con đường để thống nhất đất nước. Năm 1983, ông đã hứa Đài Loan sẽ duy trì quyền tự trị và lực lượng vũ trang riêng. ----- Lời bàn: Những gì xảy ra ở Hồng Kông cho thấy bộ mặt lừa đảo của chính quyền cộng sản Trung Quốc. Họ hứa hẹn tự trị để thống nhất, nhưng sau đó họ lũng đoạn, đồng hoá đến xoá sổ những gì khác họ, đó là những quyền dân chủ mà người dân được hưởng trước khi thống nhất. Đài Loan không đến nỗi không có mắt khi nhìn tình trạng Hồng Kông. Họ không đến nỗi tự chui đầu vào thòng lọng của Bắc Kinh. Cho dù Tổng thống Mã Anh Cửu bị coi là người thân Bắc Kinh, nhưng lòng tự hào dân tộc của ông ta chưa mất. Nhưng, ở một nơi, phía Nam của Quảng Tây, Quảng Đông, cũng có một nước đã là một nước hoàn toàn độc lập tuy ngắn ngủi dưới thời Trần Trọng Kim, nay dưới thời cộng sản lại tự chui đầu vào cái cũi của Trung Quốc qua Hội nghị Thành Đô với "16 chữ vàng và 4 chữ tốt". Lãnh đạo của nước đó cam nguyện làm thân khuyên mã cho Trung Nam Hải, sẵn sàng đàn áp đến giết dân mình để làm vừa lòng quan thày và hoàn thiện công cuộc bán nước   Nguồn: FB Du Minh
......

TNLT Trần Tư đã ra khỏi nhà tù Ba Sao, Nam Hà

NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT, XUYÊN THẾ KỶ TRẦN TƯ ĐÃ ĐƯỢC TRẢ TỰ DO Chí Sỹ Trần Tư "Tung Cánh Chim Tim Về Tổ Ấm" Theo nguồn tin từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đánh đi từ Washington DC hôm nay 25 tháng 12 năm 2014 thì ông Trần Tư, một tù nhân chính trị với bản án chung thân, chấp hành án tại trại giam Ba Sao, Nam Hà đã được phóng thích vào ngày 24 tháng 9 năm 2014 vừa về đến gia đình tại số nhà 23 Đường Số 10, khu phố 4, phường An Phú, quận 02, Sài gòn vào lúc 5 giờ sáng hôm nay, giờ Việt Nam.   Xin được nhắc lại rằng Ông Trần Tư sinh ngày 20 tháng 01 năm 1941 trong một gia đình Công Giáo tại làng Phủ Cam, xã Thủy Trường quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, nay là phường Phước Vĩnh, thành Phố Huế. Là cựu học sinh trường Pellerin từ năm 1952 cho đến năm 1959, là một trong những học trò cưng của ba vị Bề trên Frère Jérôme, Frère Antonin, và Frère Camille.   Năm 1960, ông Trần Tư nhập ngũ, được huấn luyện thành hạ sỹ quan thông dịch viên tùng sự trong một đơn vị thuộc Lực Lượng Đặc Biệt của Quân Đội Đồng Minh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam. Sau năm 1975, ông Trần Tư không ra trình diện ban quân quản Sài gòn để tập trung cải tạo mà trốn về Miền tây tìm đường vượt biên và ông đã bị bắt, bị đưa đi cải tạo tại trại giam K1, Cái Tàu, thuộc V 26 Bộ Công An, nằm trên địa bàn huyện U Minh, tỉnh Minh Hải từ năm 1976 cho đến năm 1981. Thầy Giáo Anh Ngữ Trần Tư lúc ở trại tỵ nạn Panatnikhorn, Thái Lan   Năm 1986 ông Trần Tư vượt biên thành công đến trại tỵ nạn Panatnikhom Thái Lan, nơi ông đã phục hoạt Liên Đoàn Hướng Đạo Sinh La Vang để trợ giúp đồng bào tỵ nạn trong trại, đặc biệt, với sự trợ giúp của tổ chức COERR, ông Trần Tư đã thành lập Trung Tâm Giảng Dạy Tiếng Anh cho người tỵ nạn tại các trại Panatnikhom, Sathu và Sikiw trước khi ông được đến định cư tại Ontario, California, Hoa Kỳ vào cuối năm 1986.   Không lâu sau khi được định cư tại Hoa Kỳ, ông Trần Tư đã thành lập công ty dịch vụ du lịch ASIA TRAVEL nhằm tạo lợi tức để giúp đỡ cho các thuyền nhân còn kẹt lại tại các trại tỵ nạn ở Thái Lan. Ông Trần Từ tại California Sau 4 năm định cư tại Hoa Kỳ, vào năm 1990 ông Trần Tư nhập nội trong vai một nhà từ thiện, về ủy lạo quần áo, thuốc Tây và sữa bột cho các bệnh nhân Phong đang điều trị tại trại phong Thanh Bình, xã An Khánh, Thủ Thiêm, bên kia sông Sài gòn. Trong chính thời gian về nước làm từ thiện này, ông Trần Tư đã xây dựng và phát triển được Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam, một tổ chức chính trị xã hội nhằm tập hợp những người yêu nước có khát vọng chấn hưng dân tộc, quang phục quê hương và đấu tranh một cách ôn hòa nhằm giành lại tự do dân chủ và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam.   Năm 1993, lần thứ hai ông Trần Tư trở về Việt Nam để tiếp tục kiện toàn tổ chức và phát triển đội ngũ của Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam cũng như để phổ biến phương hướng đấu tranh mới trong tình hình thế giới có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là sự sụp đổ hoàn toàn của các nước cộng sản ở Đông Âu. Không may là ngay sau khi về đến Sài gòn chưa hoạt động được bao lâu thì ông Trần Tư đã bị bắt giữ.   Cơ quan an ninh của CSVN tiến hành khám xét nhà của ông ở gần Giáo Xứ Thiên Thần, tại số 354 thuộc Khu An Bình, An Phú, quận Thủ Đức, và đã tịch thu một số tài liệu của tổ chức cùng số hiện kim là 195.000 Đô La Mỹ. Với chứng cứ là các tài liệu về dân chủ, nhân quyền và về phương hướng đấu tranh ôn hòa cùng với số tiền gần 200.000 Mỹ Kim được phát hiện tại nhà, ông Trần Tư bị tòa án của CSVN tại Sài gòn xét xử và kết án tù chung thân với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền.     Sau khi bị kết án tù, ông Trần Tư bị đưa ra thi hành án tại trại tù A20 Xuân Phước, ở một thung lũng Tử Thần tại huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Đến ngày 28 tháng 10 năm 1994 sau một vụ nổi dậy của các tù nhân chính trị tại đó, bộ công an CSVN đã chuyển ông Trần Tư cùng một số tù chính trị trọng phạm như Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Giáo Sư Nguyễn Đình Huy, Thượng Tọa Thích Hải Đăng, ông Trương văn Sương, ông Lê Trọng Quang, Trần Mạnh Quỳnh, Lý Tống cùng hàng trăm tù chính trị khác ra Bắc, giam giữ tại trại tù Ba Sao, Nam Hà. Với chế độ tù đày khắc nghiệt, đói khát triền miên, bệnh tật không thuốc men điều trị, trong điều kiện thời tiết quá cực đoan, không ít tù nhân đã vĩnh viễn gởi lại nắm xương tàn ở nhà tù nhỏ đó.   Một số tù nhân khác còn sống sống sót đã lần lượt đã mãn án tù và đã trở về với gia đình. Một số khác có quốc tịch Mỹ đã được sự can thiệp của chính phủ Mỹ và đã được trở về Mỹ như các anh Lý Tống, Jimmy Quỳnh. Riêng ông Trần Tư, vì mới là thường trú nhân của Hoa Kỳ, nhưng chưa nhập quốc tịch, nên không được sự can thiệp của chính phủ Mỹ, lại do tinh thần quật cường, bất khuất của một cựu quân nhân QLVNCH cùng chí hiên ngang của một tù nhân chính trị, ông Trần Tư đã không cúi đầu trước bạo quyền, không khuất phục trước chế độ cộng sản, và luôn nêu cao dũng khí của một huynh trưởng Hướng Đạo trước các tên giám thị và cán bộ quản giáo, nên ông vẫn tiếp tục bị giam cầm bị hành hạ tại nhà tù nhỏ Ba Sao, khi đến nay ông đã bước sang tuổi 72, với ngót 20 năm tù đày lao lý.   Có một điều cần được minh bạch ở đây là khi ông Trần Tư bị cơ quan an ninh của cộng sản bắt giam và kết án tù chung thân với tội danh âm mưu lập đổ chính quyền, dù không có bất cứ bằng chứng nào mang tính chất bạo lực về hoạt động lật đổ chính quyền của ông Trần Tư mà chỉ có một số tài liệu về các cuộc Cách Mang Nhung ở Ba Lan và Đông Âu và cùng với số tiền 195.000 Mỹ Kim mà cơ quan an ninh đã thu giữ như là một bằng chứng để chúng buộc tội ông âm mưu lật đổ chính quyền. Trong khi đó, những người thuộc tổ chức của ông Trần Tư ở hải ngoại thì hoàn toàn làm ngơ trước bản án tù chung thân mà nhà cầm quyền CSVN đã tuyên phạt ông, bởi trong tổ chức đã một số người đã vu cáo rằng ông Trần Tư đã biển thủ số tiền 195.000 Mỹ Kim đó để mua đất, sắm nhà cho vợ con ở Sài gòn, thật oan khuất cho một chính khách đã dấn thân, đã hy sinh tất cả mọi phúc lợi của bản thân, của gia đình khi đã định cư trên đất Mỹ, đã thành lập được ASIA TRAVEL với lợi tức hàng trăm ngàn Mỹ kim mỗi năm, để trở về xây dựng cơ sở, kiện toàn tổ chức để đấu tranh cho quê hương được tự do, cho dân tộc hưởng đầy đủ các quyền làm người.   Để minh oan cho tù nhân chính trị Trần Tư, chúng tôi đã liên lạc với các tổ chức Human Rights Watch Asia và với Amnesty International và được họ cung cấp biên bản tịch thu số hiện kim khi họ tiến hành khám xét tư gia của ông tại Sài gòn. Chúng tôi xin phép được đăng tải biên bản khám xét và tịch thu tài liệu và tiền bạc của cơ quan an ninh Việt Nam khi họ bắt giam ông Trần Tư với mong mỏi các chiến hữu của tù nhân Trần Tư xóa bỏ định kiến và những nghi hoặc về hành động biển thủ số tiền 195.000 Mỹ kim của tổ chức mà suốt cả một thời gian dài họ đã nghi oan cho ông Trần Tư. Ngay khi chưa nhận được biên bản khám xét và tịch thu tang vật này, chúng tôi đã hoàn toàn tin vào sự trong sáng của tù nhân chính trị Trần Tư, bởi một người đã từng thừa hưởng một nền giáo dục căn bản của các frère ở trường Pellerin, là một giáo dân có lòng tin kính như ông lại được trưởng thành trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa và khá thành đạt trong lĩnh vực kinh doanh du lịch tại Hoa Kỳ thì ông Trần Tư không phải là hạng người “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng” để đổi lấy cuộc đời tù ngục bằng một số tiền không bằng lợi tức hàng năm của ông như thế.   Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam hân đón mừng chí sỹ Trần Tư, một người tù xuyên thế kỷ vừa rời khỏi địa ngục trần gian, Xin chúc mừng bà Nguyễn Ngọc Hoa và đại gia đình sắp được đoàn tụ với người chồng, người cha vì đáp đền nợ non sông mà đã lụy vòng lao lý ngót phần tư thế kỷ.   Cũng theo nguồn tin từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì Tổng Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ đã đến thăm hỏi sức khỏe và đang hoàn thiện hồ sơ xuất cảnh để người tù bất khuất Trần Tư được sớm trở về Hoa Kỳ đoàn tụ với gia đình   Mong rằng các tổ chức và cá nhân đang hoạt động vì dân chủ nhân quyền cho Việt Nam, các cựu tù nhân chính trị kịp thời ghé qua thăm gặp và chúc mừng chí sỹ, người bạn tù bất khuất Trần Tư trước khi ông rời Việt Nam vào những ngày sắp tới Nguyễn Thu Trâm, 8406 nguồn: quynhtramvietnam.blogspot.com
......

Đểu cáng đã lên ngôi

Phim “Sống cùng lịch sử” phải ngưng chiếu, trong thành phố Hà Nội, vì mỗi ngày chỉ có hai, ba người mua vé vào coi. Phim mới này, của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, được mô tả là làm ra để khen ông Võ Nguyên Giáp. Cuốn phim làm tốn mất 21 tỷ đồng, tương đương với một triệu đô la Mỹ; dùng tiền nhà nước, tức là tiền của dân Việt Nam. Trước đó, năm 2010 đã có phim “Lý Công Uẩn - Ðường tới thành Thăng Long” tốn gấp năm lần, chi trên 100 tỷ; làm xong cũng đem cất trong kho. Có người chỉ cho nhà sản xuất phim, có cách khiến dân Hà Nội kéo nhau đi coi phim về Tướng Giáp: Hãy xin Ðảng Cộng Sản ra lệnh cấm phim này! Cứ cái gì bị cấm thì người thế nào dân cũng tìm coi bằng được. Vào thế kỷ thứ 19 đã có một ông vua Hy Lạp dùng kế này.   Dân Hy Lạp hồi xưa không trồng khoai tây; mà bây giờ đó là một món ăn rất được ưa chuộng. Ðó là công của vua Óthon (tên ông có khi viết là Otho , hoặc Otto ; theo lối viết của người Hy Lạp, nay viết là Óthon ). Vua Óthon (1815-1867) được các cường quốc đưa từ Bavaria sang làm vua xứ này khi mới 17 tuổi, sau khi dân nổi lên lật đổ đế quốc Ottoman . Nhưng khi trưởng thành ông rất yêu nước Hy Lạp. Nông dân Hy Lạp rất bảo thủ, không muốn trồng một thứ gì mới, kể cả khoai tây là món được đem giống từ Châu Mỹ về. Muốn nông dân trồng khoai tây, vua Óthon đã ra lệnh cấm mua bán, tàng trữ khoai tây. Bị đế quốc Ottoman thống trị bốn thế kỷ, bị bóc lột không nương tay, nông dân Hy Lạp đã nhiễm một thói quen: Hễ cái gì nhà nước cấm thì ta làm, làm lén, càng cấm càng thèm, lén lút làm càng thích! Phàm người dân nước nào cũng vậy, họ thích ăn “trái cấm,” ở đây củ khoai có thể gọi là “củ cấm.”Thế là nông dân Hy Lạp đi gây giống khoai tây, lén trồng khoai trong vườn nhà mình, đêm đêm móc củ khoai lên mà ăn, cả nhà cùng sung sướng. Cuối cùng khoai tây trở thành một món quốc hồn quốc túy! Một câu chuyện ly kì khác kể rằng vua Óthon cho người đi phao tin đồn rằng có một chiếc tàu thủy vừa cập hải cảng Piraeus , thành phố Athens , chở một đặc sản dành riêng cho hoàng cung, vì hoàng gia Bavaria đã quen món ăn chân quý đó rồi. Cấm không bán cho dân chúng, vì trình độ ẩm thực của họ còn thấp quá. Chiếc tàu thủy không cho ai canh gác, cho nên dân Hy Lạp ban đêm đã lén lên tàu lấy trộm về ăn thử. Và họ thấy quả nhiên ngon. Từ đó, họ thi đua trồng khoai tây. Có thể nói cuốn phim “Sống cùng lịch sử” làm cho cả Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam mất mặt.   Bỏ hàng triệu đô la ra làm phim mà không có ai coi. Bây giờ, họ có thể gỡ thể diện, bằng một mật lệnh, bí mật nhưng cứ cho các công an dư luận đi rỉ tai cho mọi người biết, rằng cuốn phim đã bị cấm. Lý do, cũng cứ rỉ tai mà nói, là vì Bộ Chính Trị mới nhận được lá thư của bà Vân, vợ thứ nhì của ông Lê Duẩn, lá thư dài tố cáo những tội lỗi của ông Giáp, do ông Lê Duẩn thì thầm bên gối cho bà nghe. Nhân danh là một đảng viên Cộng Sản, bà Vân đã đả kích thậm tệ việc tung hô Tướng Giáp trong đám tang của ông. Bà còn chỉ trích cả việc ông Giáp chọn chỗ đặt mồ của mình ở tuốt miền quê hương ông, xa hẳn Hà Nội. Tức là trước khi chết ông ta còn nhất định không chịu nằm chung một chỗ với đám quý tộc đỏ ở nghĩa trang Mai Dịch. Cứ nói rằng Bộ Chính Trị đã tỉnh ngộ, đánh giá cao dóng góp của đồng chí Vợ Hai Lê Duẩn, cho nên ra lệnh từ nay cấm không cho ai chiếu phim, coi phim “Sống cùng lịch sử”!          Bà Bảy Vân   Người hiến kế cho đạo diễn Nguyễn Thanh Vân có thiện trí muốn giúp ông thu được chút vốn về cho nhà nước. Nhưng kế này khó thực hiện, vì quên mất một điều: Phim Tướng Giáp không phải là khoai tây. Nông dân Hy Lạp nếm thử món khoai tây, thấy ngon thật cho nên đua nhau trồng chi, ăn chui. Còn cuốn phim “Sống cùng lịch sử” đã có người nếm thử rồi, mỗi ngày có tới hai ba người tò mò mua vé xem tại cả hai rạp hát; tổng cộng ba ngày có tới ít nhất 12 khán giả. Chắc hẳn 12 khán giả đều thấy lịch sử cuộc chiến 56 ngày đêm của ông Giáp cũng không ngon được như cái củ khoai tây, cho nên chẳng ai thèm đi xem nữa.   Có người giải thích tai nạn của phim “Sống cùng lịch sử”cũng là tai nạn của môn lịch sử tại Việt Nam hiện nay. Bà con còn nhớ mấy năm trước khi học trò biết tin môn sử học được bãi bỏ trong kỳ thi, các em đã làm lễ ăn mừng, đem tung hê hết các cuốn sách giáo khoa sử học, vứt từ trên lầu xuống đất, vui như coi pháo bông. Nhưng giải thích như vậy không đủ. Nên nhớ khi học trò lớp 12 phải học môn lịch sử thì các em toàn phải học về công ơn của Ðảng Cộng Sản. Dân Việt Nam đã phải ăn cái món ăn tuyên truyền suốt ngày đêm, từ sáng đến tối, chán ứ đến mang tai rồi. Các em học sinh phải đi thi nên phải học, chỉ học thuộc lòng thôi chứ không được nghiên cứu, tìm tòi gì thêm cả. Cho nên, khi nghe tin được tha, không phải học nữa các em phải sướng như điên, biểu diễn màn xé sách tung hê. Kết tội các em không quan tâm đến lịch sử dân tộc là oan. Các em chỉ chán nghe tuyên truyền mà thôi. Như câu ca dao thịnh hành ở ngoài Bắc từ thời Hồ Chí Minh còn sống: “Dân đói mà đảng thì no Sức đâu ủng hộ, hoan hô suốt ngày?”   Cuốn phim thất bại vì nó không phải lịch sử, nó chỉ là tuyên truyền mà thôi. Nói như một độc giả Bảo Minh ở Việt Nam sau khi đọc tin phim “Sống cùng lịch sử“ế khách trên mạng VnExpress : “Làm phim về lịch sử nếu không trung thực với lịch sử thì sẽ tiếp tục thất bại và khán giả hờ hững.” Cũng vì vậy, ông Nguyễn Thanh Vân cho biết đã liên lạc với các rạp nhà nước và tư nhân, nhưng “không phải rạp tư nhân nào cũng đồng ý” chiếu một bộ phim mà họ biết trước sẽ ế khách.             Đạo diễn Nguyễn Thanh Vân Nhưng tại sao ông Nguyễn Thanh Vân và các cấp chỉ huy của ông trong ban văn hóa tư tưởng không đoán trước được phản ứng của khán giả trước khi bỏ tiền ra làm phim? Có một độc giả đã giải thích, “Người ta đâu cốt làm phim, người ta chỉ cố rút được càng nhiều tiền thuế càng tốt.” Ðó có lẽ là lời giải thích đúng sự thật nhất. Nhưng nói vậy cũng chưa đủ. Vì muốn rút tiền thuế của dân ra chia nhau thì thiếu gì cách, đâu cứ phải làm phim? Lý do quan trọng hơn khiến người ta làm cuốn phim này, là họ đã hoàn toàn vô cảm. Vô cảm trước tâm trạng của người dân Việt Nam hiện nay. Họ không biết dân nghĩ gì, dân yêu cái gì, ghét cái gì. Hoặc biết, nhưng bất cần, theo chủ nghĩa Mặc Kệ. Cứ xem như họ tổ chức cuộc triển lãm cũng “lịch sử” về Cải Cách Ruộng Ðất thì thấy. Họ không cần biết đến những người dân đã tự thiêu vì phẫn uất khi bị đảng và nhà nước cướp đất hiến cho tư bản đỏ lấy tiền bỏ túi. Ca ngợi cuộc Cải Cách Ruộng Ðất làm mấy trăm ngàn người chết oan là khiêu khích hàng triệu các con cháu họ còn sống. Khiêu khích tất cả những người dân mất ruộng cày vì chính sách tư bản hóa các đảng viên. Khiêu khích tất cả giới nghiên cứu lịch sử, giới trí thức Hà Nội. Vậy mà họ vẫn cứ làm được. Cũng chỉ vì họ hoàn toàn vô cảm. Thêm một bằng chứng nữa về tình trạng vô cảm của các cán bộ Cộng Sản: việc đem một em bé gái tám tuổi ra tòa, xử tội vì em đã nhét hình Hồ Chí Minh vào trong quần, từ hai năm qua. Một em bé tâm thần không ổn định như vậy, chỉ đáng thương, nên đưa em đi chữa trị. Nếu có độc ác mà phạt em, thì cũng nên phạt lén lút, đừng đem ra công khai bêu rếu. Bêu xấu một em bé tám tuổi chưa đủ trí khôn, nhưng bêu rếu luôn cả già Hồ! Làm như thế nhưng họ không hề biết rằng đem ra câu chuyện hình Hồ Chí Minh nhét trong quần ra bêu là một việc làm đáng xấu hổ cho cả Ðảng Cộng Sản tử trên xuống dưới. Vì họ hoàn toàn vô vảm. Tình trạng vô cảm của các cán bộ, các lãnh tụ Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã hiển hiện từ nhiều năm qua. Thời Trường Chinh, Lê Duẩn , các cán bộ được đề bạt lên đều có ý thức về tác dụng chính trị của mỗi lời nói, mỗi hành động. Họ dối trá nhưng biết nói dối một cách khôn ngoan. Khôn ngoan tức là giữ được bộ mặt đạo đức giả, dân biết nghe nói dối mà không vạch mặt được. Làm cán bộ Cộng Sản trước đây phải biết khéo lé mồm mép, nói cho giỏi. Nói cho giỏi tức là khả năng chính trị cao! Cho nên nhà thơ Nguyễn Duy mô tả xã hội Cộng Sản với hình ảnh: “Ðiếm cấp thấp lấy trôn nuôi miệng - Ðiếm cấp cao lấy miệng nuôi trôn.” Ngày nay các cán bộ được cất nhắc không theo tiêu chuẩn khả năng chính trị nữa. Tiêu chuẩn chính bây giờ là tiền. Anh nào giỏi moi ra được nhiều tiền, có nhiều tiền để dâng lên cấp trên, thì anh ấy sẽ khá, sẽ thăng quan tiến chức, ngày càng lên cao. Cách đề bạt, tuyển chọn trong Ðảng Cộng Sản đã hoàn toàn thay đổi kể từ khi theo con đường tư bản hóa cán bộ và đảng viên. Cho nên mới đẻ ra đám cán bộ không bao giờ để ý đến tâm trạng của người dân, vì họ không cần biết đến. Cho nên nhìn chung quanh thấy bao nhiêu chuyện lợm giọng, từ trò triển lãm cướp ruộng đến trò đem hình Hồ Chí Minh nhét vào quần ra tòa. Nhà thơ Bùi Minh Quốc viết: “Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa - Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!” Dân Việt phải chứng kiến cảnh “đểu cáng lên ngôi” đến bao giờ mới được tha?
......

Cải cách điền địa ở VNCH ra sao?

Trong khi miền Bắc phóng tay Cải cách Ruộng đất tiêu diệt tầng lớp địa chủ thì chính quyền miền Nam liên tục tiến hành tư hữu hoá đất đai, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống nông dân. Qua việc thu mua đất từ các điền chủ rồi bán lại hay phát cho nông dân, trước năm 1975 mọi gia đình nông dân miền Nam đều đã thật sự làm chủ mảnh đất tư hữu của mình. Chương trình Người Cày Có Ruộng (NCCR) là một cuộc cách mạng xã hội, thay đổi tận gốc rễ nông thôn miền Nam. Chương trình được thực hiện trong ôn hòa, dựa trên tinh thần thượng tôn luật pháp, hoà giải và hòa hợp xã hội. Một mặt tôn trọng quyền lợi của chủ đất, khôi phục và bảo vệ quyền tư hữu đất đai. Mặt khác giúp tòan thể nông dân có ruộng cày.       Thành công một phần nhờ vào sự đóng góp của Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh. Nhưng chính yếu vẫn là từ hai vị lãnh đạo miền Nam: Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã thực hiện chương trình ngay khi về nước và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quyết tâm nối tiếp thực hiện chương trình.   Ông Thiệu hiểu rõ Luật NCCR không phải chỉ là thành quả của nền dân chủ nghị viện non trẻ, mà còn là một chính sách mang lại chính nghĩa cho công cuộc đấu tranh chống cộng sản. Những tài liệu phổ biến gần đây cho thấy, sau Mậu Thân 1968 số thanh niên miền Nam theo cộng sản càng ngày càng ít đi, không đủ bổ xung số cán binh cộng sản ra hồi chánh, lên đến trên 200.000 người. Chính vì lý do này cộng sản Bắc Việt đã phải mang quân chính quy từ miền Bắc vượt biên giới xâm lấn miền Nam. Tình hình ruộng đất miền Nam Khi quân Pháp xâm chiếm nước ta, miền Nam vẫn còn nhiều vùng chưa được khẩn hoang, nhiều vùng vì chiến tranh nông dân đã phải bỏ ruộng vườn. Lợi dụng cơ hội một số người Pháp và người theo Pháp đã chiếm, rồi thông đồng với nhà cầm quyền Pháp hợp thức hóa quyền sở hữu đất đai họ chiếm được. Trước 1945, theo ước tính trong số 6.530 đại điền chủ (trên 50 ha đất) có 6.316 là ở miền Nam. Miền Nam không xảy ra Cải cách Ruộng đất, không có nghĩa là cộng sản miền Nam nhân đạo hơn cộng sản miền Bắc. Từ cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa 1940, cộng sản đã thẳng tay tàn sát tiêu diệt giai cấp điền chủ. Các sử liệu cộng sản tóm tắc việc này như sau: “…lập tòa án cách mạng xét xử bọn phản động, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, xóa các khoản nợ, tịch thu đất thóc gạo của địa chủ chia cho dân nghèo và nuôi nghĩa quân.” Khi Việt Minh cướp được chính quyền năm 1945, hầu hết các đại điền chủ đều bỏ ruộng vườn về sống tại Sài Gòn hoặc các thành phố lớn. Việt Minh tịch thu ruộng đất rồi chia cho tá điền canh tác và lấy thuế. Ở các vùng thuộc Hòa Hảo và Cao Đài, nông dân cũng tự thực hiện việc chia lại ruộng đất hoặc chấm dứt nộp địa tô cho ruộng vườn mà họ đang trồng cấy. Năm 1949, khi người Pháp bắt đầu trao trả độc lập Cựu Hoàng Bảo Đại cho ban hành sắc lệnh về Cải cách Điền Địa (CCĐĐ), nhưng vì chiến tranh và thiếu thực quyền nên sắc lệnh này không mang lại kết quả cụ thể nào.   Sau hiệp định đình chiến Genève chia đôi đất nước, miền Nam đã trải qua hai cuộc CCĐĐ và một số chính sách về ruộng đất. Cải cách điền địa lần một Bước đầu của chính sách cải cách điền địa, Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho ban hành Dụ số 2 và Dụ số 7 nhằm thiết thiết lập quy chế tá canh. Địa tô được tính không quá 25% vụ lúa thu hoạch chánh. Thời gian cho thuê được quy định là 5 năm. Tá điền và điền chủ có thể xin hủy bỏ họăc tái ký hợp đồng.   Trường hợp ruộng đất bị bỏ hoang, ước lượng 500 ngàn ha, thì thuộc quyền sở hữu quốc gia. Chính quyền thu và cấp phát không cho tá điền. Các tá điền trước đây theo Việt Minh được tiếp tục canh tác trên mảnh ruộng do Việt Minh cấp phát trong thời chiến. Địa tô và quyền tá canh nay được chính phủ nhìn nhận và bảo đảm. Ngày 22-10-1956, Tổng thống Ngô Ðình Diệm cho ban hành Dụ số 57, tiến hành Chính sách CCĐĐ. Mỗi điền chủ chỉ được quyền giữ tối đa 100 ha ruộng, trong số nầy 30 ha được phép trực canh, còn 70 ha phải cho tá điền thuê theo đúng quy chế tá canh. Ðiền chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thuờng thiệt hại: 10% trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả ngay bằng tiền mặt, phần còn lại được trả bằng trái phiếu trong thời hạn 12 năm, với lãi suất là 3% mỗi năm. Ruộng bị truất hữu được bán lại cho các tá điền, mỗi gia đình được quyền mua lại tối đa 5 ha và phải trả cho nhà nước trong vòng 12 năm. Giá tiền bán bằng với giá Chính phủ trả cho chủ điền. Như vậy chủ yếu Chính phủ chỉ làm trung gian trong việc chuyển nhượng quyền tư hữu đất đai. Chiếu theo Dụ số 57, chính phủ truất hữu 430.319 ha đất từ 1.085 đại điền chủ. Một số ruộng truất hữu cũng được bán cho các cựu chiến binh, những nông dân trốn Việt Minh nay hồi hương và đồng bào miền Bắc di cư vào Nam Ngày 11-9-1958, Chính phủ còn ký kết Hiệp định Việt Pháp, truất hữu thêm 220.813 ha ruộng đất của Pháp kiều. Như vậy tổng số diện tích đất đai được truất hữu là 651.182 ha. Số ruộng được truất hữu được giao cho 123.198 tá điền. Ngoài ra còn có 2.857 tá điền khác đã trực tiếp mua lại đất của các đại điền chủ. Một số ruộng truất hữu cũng được bán cho các cựu chiến binh, những nông dân trốn Việt Minh nay hồi hương và đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Giới điền chủ đều ủng hộ chính sách CCĐĐ. Trong thời chiến ruộng đất của họ bị xem như đã mất. Nay chính phủ khôi phục lại quyền sở hữu ruộng đất, họ được quyền thu địa tô và lãnh tiền bồi thuờng thiệt hại nếu bị truất hữu. Đại điền chủ vẫn còn được giữ lại 100 ha. Các chính sách khác Nhằm giải quyết công ăn việc làm cho đồng bào miền Bắc di cư, giải quyết nạn thất nghiệp hậu chiến và đồng thời cũng để cô lập họat động du kích cộng sản, Tổng thống Ngô đình Diệm còn thực hiện chính sách xây dựng các khu dinh điền, khu trù mật và các ấp chiến lược. Đến năm 1961, chính phủ đã thành lập 169 trung tâm tái định cư, với 25 Khu Trù Mật tập trung trên đồng bằng sông Cửu Long, tiếp nhận 50 ngàn gia đình, với 250 ngàn người tái định cư. Diện tích đất trồng được khai hoang hay được tái canh đạt 109.379 ha. Tháng 4-1957, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thành lập Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho nông dân vay tiền một cách dễ dàng, nhẹ lãi và không đòi hỏi thế chấp hay người bảo lãnh. Đến năm 1963, Quốc Gia Nông Tín Cuộc đã cho vay số tiền lên đến 4 tỷ 600 triệu đồng, 85% số tiền để giúp các tiểu điền chủ hay tá điền. Nhưng vì không có thế chấp và vì chiến tranh nên rất ít nông dân chịu trả nợ. Chính phủ cũng đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẫn, giúp đỡ kỹ thuật cho nông dân. Nhờ đó năng suất lúa đã tăng từ 1,4 tấn/ha trong những năm 1950-1954, lên đến 2 tấn/ha năm 1960-1963. Thành quả và giới hạn Nhờ các chính sách nói trên, việc sản xuất, xuất cảng và lợi tức nông nghiệp đã không ngừng gia tăng. Từ năm 1955 đến 1962, mức sản xuất gạo đã tăng từ 2,8 triệu tấn đến 5 triệu tấn, còn xuất cảng tăng từ 70 ngàn tấn lên đến 323 ngàn tấn. Các điền chủ có ruộng đất truất hữu nhận các các khỏan bồi thường lớn, họ đầu tư xây dựng các nhà máy, các phân xưởng tại nông thôn, hay trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nhờ đó không chỉ riêng nông thôn, mà tòan miền Nam sống trong cảnh thái bình. Giới hạn của chính sách CCĐĐ là 74% tổng số diện tích ruộng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn thuộc 65.757 trung điền chủ (từ 5 đến 50 ha) và 6.316 đại điền chủ (trên 50 ha). Vẫn còn 795.480 gia đình nông dân chưa được làm chủ mảnh ruộng đang cày. Khi đời sống nông dân nâng cao thì ảnh hưởng của cộng sản cũng bị giảm sút. Để tồn tại cộng sản đã tiến hành bạo lực chính trị ám sát, bắt và thủ tiêu cán bộ và chuyên viên phát triển nông thôn. Cộng sản cấm tá điền làm đơn xin mua ruộng đất truất hữu, cấm tá điền ký hợp đồng với chủ điền, buộc điền chủ hủy bỏ địa tô. Một số ngừơi đã bị giết vì không tuân theo các lệnh cấm nói trên. Cùng lúc cộng sản cho trưng thu thóc lúa của nông dân, tiến hành chiến tranh du kích, khủng bố phá họai làng xã miền Nam. Sau đảo chánh 1/11 năm 1963 cho đến năm 1965, các vụ đảo chánh liên tục xảy ra, các chính phủ thường xuyên thay đổi. Chính sách CCĐĐ không được tiếp tục. Chính sách dinh điền và khu trù mật cũng bị đình chỉ. Nhiều ấp chiến lược bị phá bỏ. Cộng sản lợi dụng tình thế đưa cán bộ và quân đội từ miền Bắc vào gia tăng họat động. Sẵn cơ sở hạ tầng rộng rãi chỉ sau một thời gian ngắn cộng sản đã kiểm sóat được một phần nông thôn. Ở những vùng chiếm được cộng sản chia lại ruộng đất cho nông dân. Đến năm 1965, với sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh, an ninh tại nông thôn dần dần được vãn hồi. Ngày 3-9-1966, Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra. Ngày 1-4-1967, Hiến Pháp mới được ban hành. Ngày 3-9-1967 cuộc tổng tuyển cử tổng thống và Quốc hội diễn ra, Tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống của nền Ðệ nhị cộng hòa ra quyết định tiếp tục áp dụng Chương Trình CCĐĐ. Cải cách điền địa lần hai Cuộc tổng công kích Mậu Thân cộng sản thất bại, tại nông thôn cơ sở hạ tầng cộng sản bị cô lập, an ninh được vãn hồi. Số ruộng trước đây bị bỏ hoang nay được cấp phát cho nông dân. Đến năm 1969, có thêm 261.874 gia đình được cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số người có ruộng lên 438,004 người. Tháng 7-1969, Chương trình bình định và phát triển nông thôn được tiến hành. Chính phủ cho tổ chức lại cơ cấu hạ tầng nông thôn và đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đỡ kỹ thuật nông nghiệp cho dân. Ngày 25-8-1969, Tổng Thống Thiệu đưa dự luật Người Cày Có Ruộng ra quốc hội thảo luận. Điểm chính của dự luật là giảm số ruộng đất tối đa điền chủ xuống còn 15 ha, trưng thu và cấp (không bồi hoàn) cho hơn tãm trăm ngàn nông dân chưa có ruộng cày. Nhiều dân biểu nghị sĩ thuộc tầng lớp đại điền chủ không muốn bị truất hữu ruộng đất nên đã tìm cách ngăn cản thông qua dự luật. Mãi đến ngày 6-3-1970 đạo luật mới được Thượng viện thông qua. Ngày 16-3-1970 được Hạ viện thông qua. Ngày 26-3-1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người Cày Có Ruộng (NCCR) và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân. Tại Cần Thơ vào ngày 26-3-1970, ngày ban hành Luật NCCR Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố:"Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi.” Ông cho biết: “Tôi đã từng tham gia Việt Minh. Tôi biết rằng Việt Minh là cộng sản, họ bắn người dân, họ lật đổ các ủy ban xã, họ tịch thu đất đai”. Các ruộng đất không được trực canh bị truất hữu phát cho các tá điền đang canh tác. Mỗi tá điền được phát 3 ha ở Nam phần hay 1 ha ở Trung phần. Điền chủ trực canh được giữ lại tối đa 15 ha. Đất truất hữu được trả 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu với 10% lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng suất thóc (hay lợi tức) từ khoảnh đất đó. Trong vòng 3 năm, 1970-1973, đã có 51.704 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770.105 mẫu. Trong thời chiến đa số ruộng đất bị ảnh hưởng, nên đa số các điền chủ bị truất hữu đều không bất mãn. Để đền đáp chính phủ cho phổ biến rộng rãi các bích chương: “Người Cày có ruộng ghi ơn tinh thần hy sinh của điền chủ.” Nhìn chung ông Thiệu thu phục được nhân tâm của giới cựu điền chủ miền Nam. Luật NCCR cũng quy định nông dân lãnh ruộng do cộng sản cấp cũng được nhận bằng khoán chính thức sở hữu số ruộng. Cho đến ngày 28-2-1973 Chương trình CCRĐ coi như đã hòan tất. Đã có 858.821 tá điền được hữu sản hóa 1.003.323 ha ruộng đất. Mọi nông dân miền Nam đều có ruộng cày. Chương trình NCCR đã tạo ra một tầng lớp tiểu và trung điền chủ lên đến 1,3 triệu người. Chỉ còn chừng 10% là có từ 5-15 ha đất, với 10% diện tích trồng trọt và họ cũng phải tự chăm sóc cho đất đai. Đại điền chủ không còn và việc tá canh coi như đã chấm dứt. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, thêm cán bộ xây dựng nông thôn, khuyến khích nghiên cứu và áp dụng phương pháp canh tác mới với kỹ thuật mới thúc đẩy gia tăng năng suất. Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn được thành lập. Với bằng khóan đất, nông dân được vay lãi nhẹ để đầu tư sản xuất. Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp được đưa về nông thôn. Nông dân bắt đầu trang bị cơ giới để canh tác, sử dụng phân bón hóa học, cải tiến giống lúa, trồng lúa Thần Nông, tăng gia sản xuất gia súc lai giống… Cơ sở hạ tầng phát triển nông dân hăng say học hỏi và sản xuất. Năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Năm 1974, sản lượng gạo sản xuất đã tăng đến 7,2 triệu tấn với viễn tượng xuất cảng. Nhờ đó đời sống của nông dân được cải thiện một cách rõ ràng. Số điền chủ có ruộng bị truất hữu, cũng được chính phủ giúp đỡ sử dụng vốn kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, dịch vụ lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, dịch vụ chế biến thực phẩm nông sản, hướng đến việc xuất cảng bán thành phẩm nông nghiệp, giúp nền kỹ nghệ miền Nam khởi sắc đóng góp xây dựng nền kinh tế quốc gia. Thể chế đi ngược lòng dân rồi cũng sẽ bị thay đổi. Bài học từ Chương trình Người Cày Có Ruộng của Việt Nam Cộng Hòa là phải trao lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Chính phủ tương lai ở Việt Nam cần thực hiện chương trình bán trả góp đất cho dân để có ngân sách đầu tư xây dựng lại nông thôn. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Nông dân sẽ luôn là tầng lớp chính của dân tộc Việt Nam và lịch sử đã chứng minh họ luôn là nền tảng trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân có giàu thì nước mới mạnh. Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn riêng của tác giả Nguyễn Quang Duy từ Canberra, Úc. Nguyễn Quang Duy gửi tới BBC từ Úc Nguồn: bbc.co.uk
......

NGƯỜI THANH NIÊN TRẺ ĐÁNG NỂ PHỤC!

Joshua Wong, người thanh niên 17 tuổi, đang làm rung chuyển Hong Kong.   Anh là một trong những nhà hoạt động cứng rắn. Truyền thông nhà nước Trung quốc gọi anh là một ngươi "cực đoan". Joshua còn rất trẻ, thậm chí, anh chưa đủ tuổi để lái xe. Chàng thanh niên gầy, đeo kính, nhìn hiền hòa này đã xây dựng một phong trào thanh niên ủng hộ dân chủ tại Hồng Kông trong hai năm qua. Lập lại ý chí của tuổi trẻ TQ từng tràn ngập Thiên an Môn năm 1989.   Anh muốn kích động một làn sóng bất tuân dân sự trong giới học sinh ở Hồng Kông. Mục tiêu của anh ? Để gây áp lực bắt Trung Quốc phải chấp nhận cho Hồng Kông được bầu cử tự do. Phong trào của Joshua Wong xây dựng sau những năm tháng thất vọng vì bị dồn nén ở Hồng Kông. Năm 2011 mới 15, anh đã phẫn nộ với chương trình ủng hộ cộng sản TQ trong các trường công lập ở Hồng Kông. Cùng với vài người bạn, Wong bắt đầu hình thành một nhóm sinh viên chống đối. Sau đó, phong trào đã tăng lên quá giấc mơ ngông cuồng nhất: vào tháng 9 năm 2012, phong trào mang tên Scholarism của anh tụ họp được 120.000 người biểu tình - trong đó có 13 người tuyệt thực - chiếm trụ sở chính quyền Hồng Kông, buộc các nhà lãnh đạo thành phố phải rút lại chương trình giáo dục thân cộng.   Đó là khi Wong nhận ra tinh thần bất khuất của tuổi trẻ Hồng Kông. "Năm năm trước, không ai tưởng tượng là học sinh Hồng Kông sẽ quan tâm đến chính trị," anh nói. "Nhưng đã có sự thức tỉnh khi vấn đề giáo dục quốc dân xảy ra. Giờ đây, tất cả chúng tôi bắt đầu quan tâm đến chính trị." Tuần này, nhóm thanh niên học sinh do anh lãnh đạo đồng loạt bước ra khỏi lớp học- một hành động quan trọng trong thành phố có tiếng là tôn trọng việc học - để gửi thông điệp ủng hộ dân chủ đến Bắc Kinh. Cuộc bãi khóa đồng loạt này của sinh viên học sinh nhận được ủng hộ rộng rãi. các ban Quản trị đại học và giảng viên đã cam kết tha thứ cho sinh viên bỏ giờ học, giáo viên và công đoàn lớn nhất của Hồng Kông ra kiến nghị tuyên bố "Không bỏ rơi các em học sinh sinh viên" Phản ứng của Trung Quốc là ngược lại: truyền thông trong đại lục xem tổ chức Scholarism của anh là nhóm "cực đoan". Wong nói rằng anh bị xem là kẻ gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia, đe dọa đến ổn định nội bộ của Đảng Cộng Sản. Tuy nhiên, anh và các bạn trẻ không lùi bước. "Mọi người không nên sợ chính quyền", anh nói, trích dẫn bộ phim "V for Vendetta", "Chính phủ nên sợ hãi người dân." Nguồn: FB Lê Quốc Tuấn
......

NHẮC LẠI CUỘC NỔI DẬY CỦA DÂN QUỲNH LƯU

(NGÀY 13-11-1956)   Võ thị Linh 14-9-2014 Cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu được nhân dân Sài Gòn biểu tình tuần hành ủng hộ và lên án gắt gao nhà cầm quyền CSVN trong việc đàn áp nhân dân Quỳnh Lưu, xin mời xem clip Video lịch sử nầy:     Năm 1956, cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 cuộc đấu tranh đẫm máu chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo CSVN, mà qua đó, chính sách Cải Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính làm bùng nổ cơn phẫn nộ của người dân. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì tầm mức ảnh hưởng nguy hiểm của nó; trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ trong biến cố Nhân Văn Giai Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời bấy giờ, với những tư liệu lịch sử rất giá trị.   Nhưng không vì thế mà cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên của những nạn nhân đã chết. Một số nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết lại để các thế hệ tiếp nối hiểu được những gì xảy ra dưới chế độ XHCN. Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể đếm băng số người dân đã chết. Tầm mức [mục đích] của tội ác đã đi ra khỏi giới hạn suy nghĩ của loài người. Bài hát của người dân Quỳnh Lưu trong ngày nổi dậy   Anh đi giết giặc lập công Con thơ em gửi mẹ bồng Ðể theo anh ra tiền tuyến Tiêu diệt đảng cờ Hồng Ngày mai giải phóng Tha hồ ta bế ta bồng con ta Trung ương đảng CSVN đã trao cuộc đấu tranh Cải cách ruộng đất cho Trường Chinh lãnh đạo và Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương đảng, phụ trách điều hành. Dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới cấp đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho từng xã. Các đoàn và đội đều nhận lệnh trực tiếp từ trung ương mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương. Thành phần trong các đoàn, đội được tuyển lựa đều là thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã chiến đấu trong bộ đội. Càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín, được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp, căm thù thật sự. Vì thế, trong năm 1956, riêng đợt cải cách ruộng đất Ðiện Biên Phủ đã đưa số nạn nhân bị tàn sát lên đến 10.000 người. Ðội cải cách ruộng đất đã trở thành công cụ giết người ghê rợn của chế độ. Sự tàn sát lên cao vì chính sách kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của CSVN. Thí dụ : cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%), nếu hơn thì càng tốt. Trong 5 gia đình này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai cấp, công tác kém cỏi. Nghe 1 đoạn thơ tuyên truyền của thi sĩ Tố Hữu, ta sẽ thấy sự dã man ra sao: Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ, Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong, Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng, Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.   Cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu 13-11-1956-(Nghệ An) Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt CCRĐ đất đẫm máu Mục tiêu cuộc Cải cách ruộng đất còn là cơ hội để đảng CSVN mở cuộc thanh trừng quy mô những đảng viên trong nội bộ hoặc trong hàng ngũ kháng chiến cần bị đào thải vì không thuộc thành phần vô sản, những người có thể trở thành nguy hiểm cho đảng vì đã trau giồi những kinh nghiệm đấu tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy tín, nắm vững tình hình đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và có thể phản đảng. Chính CSVN đã thú nhận khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này có đến 23.000 đảng viên trung kiên bị chết oan; còn hàng ngàn đảng viên không trung kiên bị chết một cách đích đáng thì chưa thấy tài liệu nào của đảng công bố cả. Rất nhiều cán bộ cao cấp có công với kháng chiến cũng bị kết tội cường hào ác bá, hoặc tham gia trong các tổ chức phản động như VN Quốc Dân Ðảng chẳng hạn. Theo hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền Bắc, trước kia đã từng tham gia nhiều vụ Cải cách ruộng đất, cho biết 1 cuộc đấu tố chụp mũ như sau : “...Cuộc đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu tố ông Nguyễn Văn Ðô, Bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội. Nạn nhân Nguyễn Văn Ðô là Bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Ðảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông lợi dụng chức vụ của Ðảng để hoạt động cho Quốc Dân Ðảng. Người đứng kể tội là 1 nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Ðộ. Một cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương và cô con cái của ông lên đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả 177 lần. Ðến khi ông Ðô được phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi trả lời : Ông không phải là Quốc Dân Ðảng, ông chỉ làm việc cho Bác, cho kháng chiến mà thôi. Ông trả lời cô con gái là : "Thưa bà, bà còn quên đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà nữa”. Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu “Ðả đảo tên Ðô ngoan cố” để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g trưa mới xong". CS ĐÀN ÁP DÃ MAN CUỘC NỔI DẬY  Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt Cải cách ruộng đất đẫm máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đảng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của đảng bị sụp đổ, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.   Ở nông thôn, các đảng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuê. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức, dùng báo chí lên tiếng chống đảng, thì cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã làm đảng CSVN rất lo sợ. Toàn thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo những chính sách cai trị tàn ác của chế độ. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân. Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau : - Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm, - Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêu, - Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công, - Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.   Cán bộ VC rất căm tức những lời kết án của dân chúng. Lúc đầu họ nhất định không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi : Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, Hồ Chí Minh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến. Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của CSVN để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Geneva. Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9-11-1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợi. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chận xe lại. Sáu thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần. Sau đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diễn Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước. Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm đó, CS đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS, trở thành 1 vòng bao vây thứ tư. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghê An là quê quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. CS cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời : “Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là nhà tu hành”. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS. Ðêm 11 rạng ngày 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3. Rạng ngày 13-11-1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát “Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa” đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục :   Anh đi giết giặc lập công Con thơ em gửi mẹ bồng Ðể theo anh ra tiền tuyến Tiêu diệt đảng cờ Hồng Ngày mai giải phóng Tha hồ ta bế ta bồng con ta   Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty Công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: “Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân”, “Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu”, “Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt”… Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế. Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng tính này. Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC.   Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực, tính kế trường kỳ đấu tranh. Ngày 14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi : Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc. Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi, đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt được ai, VC đành thả bà con ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói: “Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân”, nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội. CS bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật. Dù nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do. Người CS rồi sẽ không thể nào dùng những bàn tay giết người che lấp nổi mặt trời. Những việc làm của họ rồi sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Ðòi cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt một tội danh là gieo nỗi oan khuất cho cả một dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh. Nói về những nỗi oan sống dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể. Với những nỗi oan của những người đã chết, oan khiên đeo nặng những người còn sống, đảng CSVN đã giải quyết ra sao? Chỉ là sự im lặng. Thời gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân VN có thể sẽ tự trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do dân chủ tới hồi chín muồi. Tiếng trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 60 năm về trước vẫn còn vọng về thúc giục người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng ta. Bài hát vang trong bầu trời Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can trường đi tìm chân lý của cuộc sống : con người sinh ra phải được tự do (trích bài viết của tác gỉa Cẩm Ninh). Dù nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do./.
......

CHẾ ĐỘ NGỤC TÙ Ở TÂY VÀ Ở TA

Ở đâu cũng vậy, khi một công dân vi phạm luật pháp thì họ sẽ bị trừng phạt vì lỗi lầm của chính họ và hình phạt cũng là để răn đe những người khác trong xã hội. Song cách thức áp dụng luật pháp, mức độ trừng phạt và phương cách thực thi bản án ở mỗi quốc gia thì khác nhau. Điều này chính là một trong những thước đo mức độ văn minh và tính nhân bản của chính quyền từng quốc gia. Trong thời gian qua, ở Đức và ở Việt Nam, mỗi nơi có một bản án được sự chú ý đặc biệt của công luận trong nước và cả thế giới. Cả hai bị cáo là người có tiếng tăm trong xã hội, dù là mỗi người nổi tiếng theo cách riêng. Cả hai người chịu bản án nặng gần bằng nhau. Nhưng hai cách xử án và thụ án khác nhau có thể xem như biểu hiệu cho hai chế độ pháp luật khác nhau.   Từ bản án “ba năm sáu tháng tù giam“ của Uli Hoeneß ở Đức... Uli Hoeneß là một người rất nổi tiếng ở Đức. Ông từng là một cầu thủ đá bóng có hạng của đội tuyển quốc gia thời trai trẻ. Sau này ông đã là chủ tịch hội đồng quản trị của đội bóng Bayer München (Bavaria Munich), một đội bóng danh tiếng nhất nhì thế giới, từng nhiều năm vô địch nước Đức, vô địch giải Champions League, chiến thắng những đội bóng hàng đầu ở Âu Châu. Đội bóng này cũng đã cung cấp phần lớn cầu thủ cho hội tuyển Đức, đội đã dành ngôi vô địch túc cầu thế giới ở Brazil năm nay.   Sở dĩ dài dòng giới thiệu như trên để nhìn thấy vị thế cao của Uli Hoeneß trong thể thao Đức nói riêng và thanh danh của quốc gia Đức nói chung trên trường quốc tế. Uli Hoeneß còn là triệu phú do tài mua bán chứng khoán. Ông đã kiếm hàng triệu Euro từ những vụ mua bán cổ phiếu. Và rồi “lỗi lầm lớn nhất của đời ông“(nguyên văn lời Uli Hoeneß) là giấu sở thuế số thu nhập kếch sù, không khai thuế thu nhập. Nhưng rồi mọi chuyện cũng phải lòi ra. Uli Hoeneß bị kết án ba năm sáu tháng tù về tội trốn thuế 28,5 triệu Euro. Tháng sáu vừa qua ông khăn gói vào nhà tù, sống như hàng ngàn phạm nhân khác, chịu những ràng buộc trong trại giam như những phạm nhân khác, làm việc trong kho quần áo của nhà giam với tiền lương quãng hơn 1 Euro/giờ, không hơn các pham nhân khác. Nhân việc lao tù của Uli Hoeneß có thể nói sơ lược về chế độ tù ở Đức: Sau khi người phạm nhân bị phán quyết tù giam của tòa án, rất hiếm khi người tù phải hoàn toàn ở trại giam suốt thời gian bị kết án. Bình thường là họ chỉ ở tù quãng 2/3 hay có thể chỉ một nửa thời gian bị kết án. Thời gian còn lại được chuyển thành tù treo. Mười tám tháng trước khi ra tù, phạm nhân có thể xin chỉ ở tù ban đêm. Ban ngày phạm nhân có thể rời trại giam để làm việc ở ngoài như những thường dân khác. Sau giờ làm việc, phạm nhân trở về trại giam để ngủ. Lúc phạm nhân làm việc ở ngoài trại giam, không có nhân viên trại giam đi theo để giám thị (gọi là Freigang) nếu tội phạm là những trường hợp tội bình thường. Cũng có trường hợp có nhân viên trại giam đi theo giám sát (gọi là Außenbeschäftigung) Những phạm nhân được hưởng những qui định trên phải hội đủ một số điều kiện, đặc biệt là phạm tội không có nguy hại tới an ninh của xã hội. Ngoài ra người tù cũng được rời trại giam,đi phép thường niên (Urlaub), thường là để về thăm nhà (1). Trở lại bản án của Uli Hoeneß, báo chí Đức (2,3,4) trong mấy ngày nay đã cho rằng có khả năng ông sắp được phép rời trại giam ban ngày, chỉ ở trại giam ban đêm trong mười tám tháng tới đây, khi một nửa án tù của ông được hoán chuyển thành án treo. Mọi phạm nhân khác có đủ điều kiện đều được hưởng những qui định đó, không riêng gì Uli Hoeneß. Được đãi ngộ này không phải vì ông là người có tiếng tăm.   Tới bản án “ba năm tù giam“ của Bùi Thị Minh Hằng ở Việt Nam.... Bà Bùi Thị Minh Hằng cũng là một phụ nữ có tiếng tăm ở Việt Nam, không phải vì bà là triệu phú trốn thuế như Uli Hoeneß, nhưng vì những hoạt động nhân quyền cổ vũ dân chủ, chống đối nhà nước độc tài. Ngày 26 tháng 8 vừa qua, tòa án đã xử phạt bà ba năm tù giam, người đồng hành Nguyễn Văn Minh hai năm sáu tháng tù và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh hai năm tù vì tội “cản trở lưu thông, rối loạn trật tự công cộng“. Bà Hằng bị bắt hồi tháng Hai trên đường tới thăm ông Nguyễn Bắc Truyển, một nhà bất đồng chính kiến ở tỉnh Đồng Tháp. Cùng đi với bà Hằng còn có hàng chục người khác, trong đó có bà Quỳnh, một nhà hoạt động trẻ khác và ông Minh, một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Theo cáo trạng buộc tội, bà Hằng và nhóm thân hữu đã đi xe máy hàng ba làm cản trở lưu thông. Vụ bắt bớ ngay trên đường phố gây tụ tập đám đông dân chúng làm ách tắc giao thông trên 2 tiếng đồng hồ. Bản án “cản trở lưu thông“ thực ra là hành động nham hiểm nhằm trả thù các hoạt động nhân quyền của bà. Ai cũng biết. Cả thế giới cũng quan tâm, đã lên án sự kiện này (5,6,7,8,9). Song còn gì để nói thêm? Còn có gì để nói thêm ? Điều đáng nói thêm thứ nhất là bà Hằng khó lòng mong chờ là nhà cầm quyền chuyển án của bà thành án treo sau một năm rưỡi ngồi tù, hay là bà chỉ phải ở trại giam ban đêm như trong chế độ giam giữ ở Đức. Đó là những điều huyền-hoặc, mơ tưởng, không thể có ở Việt Nam, mặc dù tội danh chính thức của bà “cản trở lưu thông“ không thể ảnh hưởng tới an ninh xã hội. Cái mà bà Hằng phải tính đến, là khi bản án gần mãn hạn họ lại bịa ra một tội danh nào đó phạt tù bà thêm dăm năm nữa, như trường hợp của bà Mai Thị Dung, Phật tử Hòa Hảo (10), hay có khi bà chết trong tù vì.... “tự tử“, mặc dù thi thể người “tự tử“ đầy thương tích như những vụ công an giết người trong tù mà những tổ chức nhân quyền thế giới đã báo động (11), hay chết vì lây những chứng bệnh hiểm nghèo, như trường hợp tù nhân Huỳnh Anh Trí. Điều đáng nói thêm thứ hai là bà Hằng bị ba năm tù vì “cản trở lưu thông“. Vậy án tù nào dành cho nhà nước khi nhà nước huy động hàng trăm công an nổi công an chìm để cố tình “cản trở lưu thông“ ngăn chặn khoảng 200 người không cho đến tham dự phiên tòa xử bà Hằng cũng như hành hung khoảng 40 blogger khác? (5,12) Điều đáng nói thêm thứ ba là với kiểu cách “hèn với giặc, ác với dân“ của nhà nước như hiện nay, họ chỉ làm nhân dân thêm phẫn uất, biến những người dân hiền lành thành những nhà chống đối. Rồi ra lại xuất hiện thêm hàng chục hàng trăm bà Bùi Thị Minh Hằng khác nữa. Họ có bỏ tù cả nước được không?   Chúng ta không thể so sánh luật pháp ở Đức với luật pháp ở Việt Nam. Bởi vì, như một thành ngữ Đức nói, người ta không thể so sánh một quả lê với một quả táo. Nhưng qua các bản án này người ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy thế nào là tôn trọng nhân phẩm con người, dù là phạm nhân, và thế nào là khinh rẻ nhân dân, là phương pháp tà đạo để trấn áp những đòi hỏi nhân quyền chính đáng. T.K.T Tham khảo: (1) Điều 13 luật Bayerisches Strafvollzugsgesetz (2) Die Welt 15.09.2014 (3) http://www.faz.net/aktuell/gesellschaft/kriminalitaet/medienberichte-kan... (4) http://www.focus.de/finanzen/steuern/steuerprozess_uli_hoeness/arbeit-au... (5) http://fvpoc.org/2014/08/29/phong-vien-khong-bien-gioi-blogger-co-tieng-... an-ba-nam-tu/ (6) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/repercussion-of-3-acti-trial-0827... (7) http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/pr260814.html (8) https://sites.google.com/site/forumvietnam21/deutschenfr/mr-20142#27.08.... (9) http://www.hrw.org/vi/news/2014/08/24/vi-t-nam-cac-nha-ho-t-d-ng-ph-i-ra... (10) http://vnwhr.net/2014/07/15/yeu-cau-tra-tu-do-cho-ba-mai-thi-dung/ (11) http://www.hrw.org/de/news/2014/09/15/vietnam-tod-und-verletzungen- polizeigewahrsam-weit-verbreitet (12) http://fvpoc.org/2014/08/28/tuyen-bo-lien-hoi-nha-bao-doc-lap-vn-cuu-tu-... Nguồn: http://boxitvn.blogspot.de
......

Côn an chuẩn bị ghép tội dân oan lập Phong trào để lật đổ chế độ

Thành viên của Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu hôm nay 11/9 gặp mặt định kỳ hàng tháng tại Sài Gòn, dùng nhờ cơ sở của Dòng Chúa Cứu Thế. Cũng lại như bao lần trước, côn an an ninh ra sức ngăn trở. Dân oan tỉnh Long An không đi Sài Gòn được vì bị chặn ngay tại địa phương, Dân oan tỉnh Bình Dương thì bị côn an tới nhà mời đến đồn hạch hỏi tại sao đi dự họp mặt của Phong Trào, Dân oan Sài Gòn cũng bị ngăn chặn ngay tại nhà khiến họ không thể tới dự. Hình Thành viên của PT Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu họp mặt định kỳ hôm 11/9 tại Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn. Khi cuộc họp mặt đang diễn ra thì côn an thành phố tên Tài dẫn theo 3-4 côn an khác xuất hiện, tiến vào khuôn viên Dòng Chúa Cứu Thế. Tài là người chỉ huy đàn áp Dân Oan trong nhiều lần biểu tình trước đây. Dù có mặt của côn an, các chị Dân Oan trong Phong Trào đang có mặt vẫn tiếp tục trao đổi thảo luận mà không ngưng lại. Các chị cho biết nhà cầm quyền CSVN tại địa phương đang sách nhiễu gây nhiều áp lực với họ và gia đình. Ý đồ của côn an là ngăn trở cấm đoán bằng được, không cho Dân Oan tham gia sinh hoạt của Phong Trào. Côn an đã phủ đầu các chị rằng, các bà lập Phong Trào để hoạt động lật đổ chế độ, các bà sẽ bị bắt tù. Dân oan Nguyễn Thị Ni tỉnh Bến Tre đã quá bức xúc nói to: “Nói thiệt nói thẳng mới hại đời ta, Buộc ép tội kia phản nước nhà". Trong cuộc họp mặt hôm nay, Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu đã đồng lòng làm hai việc:   Thứ nhất là ủng hộ cuộc vận động cho khẩu hiệu CHÚNG TÔI MUỐN BIẾT do một đoàn thể phát động. Thứ hai là thuyết phục và khuyến khích các thành viên Phong Trào tìm hiểu về bản Tuyên Ngôn Quyền Làm Người do Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1948 để mỗi Dân Oan biết rõ những quyền chánh đáng của mỗi con người. Bản tuyên ngôn này CSVN đã cam kết tôn trọng khi gia nhập Liên Hiệp Quốc hồi năm 1982 nhưng sự cam kết tôn trọng đó chỉ là sự lường gạt quốc tế mà thôi. Phong Trào sẽ in và phổ biến rộng rãi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đến người dân để tất cả cùng học tập mà hiểu rõ về các quyền của mình. Khi đã có đông đảo người dân hiểu rõ các Quyền Con Người thì họ sẽ vững tâm và thêm ý chí tranh đấu hơn trong cuộc giành lại Quyền Làm Người cho chính mình. Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu xin thông tin đến công luận các sự việc đã xảy ra như trên để qúy vị cùng theo dõi.     Nguồn: FB Phong Trào Liên Đới Dân Oan Việt Nam *** PHONG TRÀO LIÊN ĐỚI DÂN OAN TRANH ĐẤU VIỆT NAM TUYÊN BỐ Về việc: ủng hộ chiến dịch CHÚNG TÔI MUỐN BIẾT do Mạng Lưới Bloggers Việt Nam phát động, và những đòi hỏi của Dân Oan Tập thể Dân Oan thuộc Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu chúng tôi xét thấy rằng: - Đất nước Việt Nam là tài sản chung của tất cả mọi người Việt Nam, nhưng suốt từ năm 1945 tới nay đảng CS giành độc quyền toàn trị thao túng việc nước, đảng CS đã chà đạp lên ý nguyện của toàn dân, đã gây muôn vàn áp bức bất công tang tóc tổn hại cho dân tộc, đã chà đạp hung bạo Quyền Làm Người của dân Việt mà giới Dân Oan là những nạn nhân thảm khốc nhất;   - Chính đảng CSVN vẫn rêu rao 3 khẩu hiệu “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, “Dân biết - Dân bàn - Dân làm - Dân kiểm tra” và “chính quyền nước CHXHCNVN là chính quyền của dân do dân vì dân” nhưng trong việc trị nước đảng CSVN đã che giấu bưng bít tất cả mọi việc liên quan tới sự sống còn của dân tộc. Từ việc chủ tịch Hồ Chí Minh sanh năm 1890 tới việc đảng CSVN công bố dữ kiện “Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là thiếu tá Hồ Quang sanh năm 1903 trong quân đội nhân dân giải phóng Trung Hoa. Từ chính sách Cải Cách Ruộng Đất giết oan hàng trăm ngàn nông dân vô tội đến Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 dâng biển cho Tàu. Từ việc tổng bí thư Lê Duẫn tuyên bố năm 1976 là “ta đánh là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung quốc” tới mật ước tại thành phố Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên vào tháng 9-1990 xin lệ thuộc quan thày Tàu cộng đến các thỏa ước phân định biên giới Việt- Trung năm 1999 rồi thỏa ước phân chia vịnh Bắc Bộ năm 2000. Từ việc cho Tàu thuê dài hạn hơn 300 ngàn mẫu tây đất ở những nơi trọng yếu về quốc phòng tới chuyện cho Tàu đưa hàng chục ngàn công thợ vào khai thác quặng mỏ Bô-xít ở tỉnh Đắc Nông. Từ việc không cho bộ đội hải quân Việt Nam bắn lại khi quân Tàu xâm chiếm quần đảo Trường Sa năm 1988 tới việc tình nguyện tuân giữ “tình hữu nghị 16 chữ vàng và 4 tốt” với Tàu trong khi Tàu ào ạt xua quân với ngư dân của họ hoành hành trên khắp Biển Đông khiến hàng triệu đồng bào sống bằng nghề cá không còn cách kiếm ăn sinh sống nữa... - Đất nước Việt Nam là của chung tất cả mọi con dân Việt Nam, không một tập đoàn cầm quyền nào được phép coi quốc gia là của riêng; người dân Việt Nam là chủ của đất nước Việt Nam, dân PHẢI ĐƯỢC BIẾT MỌI VIỆC chính quyền làm; chính quyền chỉ là công bộc của dân và phải trình báo với dân mọi việc chính quyền làm trong trách nhiệm quản trị quốc gia. Từ những lẽ trên, nay Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu tuyên bố: - Thứ nhất: ủng hộ Chiến dịch CHÚNG TÔI MUỐN BIẾT do Mạng Lưới Blogger Việt Nam phát động, Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu sẽ song hành với Mạng Lưới Blogger Việt Nam cùng quảng bá và vận động dân chúng Việt Nam thực hiện Quyền NGƯỜI DÂN PHẢI ĐƯỢC BIẾT; - Thứ hai: yêu cầu đảng và nhà nước CSVN báo cáo nghiêm túc và đầy đủ cho người dân biết về tất cả mọi việc mà đảng và nhà nước CSVN đã làm từ trước tới nay có liên quan đến quyền lợi và sự sống còn của dân tộc Việt Nam. - Thứ ba: Tập thể Dân Oan chúng tôi đặc biệt đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN giải thích rõ ràng và trung thực đầy đủ về lẽ tại sao cán bộ đảng viên của đảng CS các cấp cướp chiếm từng thước vuông ruộng đất nhà cửa của chúng tôi trong khi đảng và nhà nước CSVN lại cho Tàu cộng thuê hàng trăm ngàn mẫu đất ở những nơi quan trọng về quốc phòng với giá như cho không. Tại sao từng thước vuông đất của dân thì cưỡng chiếm mà lại dâng hàng triệu cây số vuông diện tích Biển Đông cho Tàu cộng. - Thứ tư: Tập thể Dân Oan thuộc Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu chúng tôi đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN giải thích rõ ràng và đầy đủ vì sao khi Dân Oan chúng tôi đi khiếu kiện một cách hợp pháp thì côn an an ninh đã ngăn trở, khủng bố và bạo hành chúng tôi trong suốt mấy chục năm nay; ngoài ra còn vu khống ghép tội Dân Oan gây rối trật tự công cộng và bỏ tù. - Thứ năm: Tập thể Dân Oan chúng tôi đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải trả lại cho toàn dân Việt Nam, nhất là cho giới Dân Oan, trọn vẹn Quyền Làm Người, trong đó bao gồm quyền Sở Hữu Ruộng Đất. - Thứ sáu: Tập thể Dân Oan chúng tôi đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải bồi thường những thiệt hại về cả tinh thần lẫn vật chất đã gây ra cho những người yêu nước chống Tàu xâm lược và cho giới Dân Oan chúng tôi; đồng thời yêu cầu nhà nước CSVN truy tố những đảng viên cán bộ đã ra lệnh đàn áp những người yêu nước, và những đảng viên cán bộ cướp chiếm nhà đất của Dân Oan, truy tố những côn an an ninh đã bạo hành Dân Oan trên đường đi đòi công lý bao chục năm nay. Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu long trọng tuyên bố như trên, và thề sẽ xả thân tranh đấu để những đòi hỏi chánh đáng này được đáp ứng. Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu kính cáo.  
......

Hồ sơ kiện là tài liệu lịch sử

Bạn sẽ trốn đi đâu khi chính quyền là những kẻ côn đồ? Công An cởi áo giả dạng thành côn đồ đánh dân biểu tình chống Trung quốc Chuyện những gã côn đồ ức hiếp người cô thế ngỡ rằng chỉ xảy ra ở những góc phố vắng vẻ. Khốn nỗi ngày nay, người dân Việt Nam lại cứ phải sống với chúng, ăn, ngủ, thở, đối diện với chúng hàng ngày. Một chế độ ngày càng nâng việc sử dụng côn đồ lên hàng chính sách đang làm cho đất nước không chỉ ngày càng sinh sôi thêm nhiều loại, hạng côn đồ, mà sự chấp nhận cách hành xử côn đồ cũng gia tăng trong xã hội. Hành vi, lời nói côn đồ tràn khắp từ công an đến chánh án. Pháp luật bị coi rẻ, như trò chơi, như hàng mã tùy vào cách sử dụng của kẻ nắm quyền. Người dân thực sự không còn biết trốn đi đâu khi chính quyền là những kẻ côn đồ!   Chỉ xin đơn cử một chuyện thôi trong hàng ngàn những ứng xử côn đồ của nhà cầm quyền Việt Nam đối với dân. Chuyện bắt đầu vào ngày 11/2/2014, từ Sài Gòn có 21 người gồm bạn bè, đồng đạo đáp xe xuống thăm gia đình nhà dân chủ Nguyễn Bắc Truyển vừa được thả ra ở huyện Lấp Vò. Xe tới ngã ba Nông trại thuộc xã Mỹ An Hưng B thì công an giao thông chận xe lại. Hàng trăm công an giả dạng thường dân cầm gậy tầm vông, cái tròn, cái vuông, xông đến đánh tới tấp người trên xe. Họ đánh vào đầu luôn cả tám phụ nữ đến vỡ cả nón bảo hiểm. Sau đó, tại đồn công an, họ đánh ông Võ Văn Thanh Liêm ngất xỉu rồi cho chở ông vào bịnh viện cấp cứu. Ông Võ văn Bửu bị đánh đến lòi cột sống, không tự đi lại một mình được nữa. Ông Mãnh bị đánh đến ho ra máu. Chị Bùi Minh Hằng tay chân mặt mày bị trầy trụa, đầu nhiều chỗ sưng u. Tất cả đều bị bắt, lập biên bản và được thả ra sau đó. Chỉ trừ ba người bị giữ lại là chị Nguyễn Thị Thuý Quỳnh, anh Nguyễn Văn Minh và chị Bùi Minh Hằng.   Ngày 26/08/2014, nghĩa là hơn sáu tháng sau đó, một phiên toà diễn ra ở Đồng Tháp để xử ba người trên. Hội đồng xét xử, những kẻ cầm cân nẩy mực của tỉnh Đồng Tháp đã kết thúc phiên toà với bản án: chị Bùi Hằng 3 năm tù giam, anh Văn Minh 2,5 năm tù giam, và chị Thuý Quỳnh 2 năm tù giam vì tội “gây rối trật tự công cộng”!? Một bản án thách thức công luận cả nước và quốc tế. Bên cạnh đó, công an ra tay đàn áp những người đi ủng hộ cho ba nạn nhân của vụ án còn hung bạo gấp bội. Chứng tỏ một điều nhà nước này không cho phép người dân Việt Nam có quyền biểu hiện sự bất đồng của mình, dù là bất đồng và phản đối trong ôn hoà. Ai còn có thể im lặng trước những ứng xử thô bạo với dân như thế này: - Công an khắp nơi được lệnh rình rập, theo dõi, xách nhiễu, cấm đoán quyền tự do đi lại, tự do cư trú của rất nhiều người dân ở khắp các tỉnh thành khác trên cả nước, chỉ vì họ muốn theo dõi buổi "xử công khai" của 3 nhà hoạt động đáng kính. Nhóm bạn Hà Nội của chị Bùi Hằng phải đào thoát ra khỏi nhà trước phiên xử hai ngày, rồi mua vé máy bay vào Sài Gòn mới thoát được mạng lưới theo dõi của công an. - Những nhóm không đi thoát được thì có người bị công an mang xích tới nhà, ngang nhiên khóa trái cửa trước, bất kể các hiểm nguy có thể xảy ra cho họ như trường hợp nếu cháy nhà hoặc có nhu cầu cấp cứu y tế giữa đêm khuya. - Công an cướp đoạt tài sản của dân không cần lý cớ, như trường hợp cướp máy ảnh của nhà báo Trương Minh Đức và blogger Đinh Nhật Uy; trong khi không có luật nào cấm dân chụp hình nơi công cộng, và chỗ họ đứng cũng không hề có bảng cấm. Ngoài ra trong các vụ cướp đoạt này họ còn đập phá, ném, làm hư hại tài sản của nạn nhân. - Công an đánh người ngay trên đường phố, bắt người ngay trên đường phố dù hoàn toàn không có lý do. Một blogger tường thuật lại rằng: Đồng Tháp ngập ngụa trong bầu không khí khủng bố chưa từng có. Thành phố Cao Lãnh đã huy động hết tất cả các đồn công an phường để giam giữ những người khắp mọi miền đất nước về tham dự phiên toà. Bất cứ ai lạ mặt là công an hốt bắt. Bắt trong khách sạn, bắt tại bến xe, bắt trong quán cà phê, bắt trong lúc đang đi đường và bắt ngay trước cổng tòa án. Một gã công an mặc thường phục, tay cầm bộ đàm còn ngang nhiên chỉ vào mặt chị Dương Thị Tân đe dọa: “Ở thành phố thì được, xuống Đồng Tháp thì chết”. - Công an đánh người tại đồn dù người dân không hề phạm pháp, như trường hợp của chị Nguyễn Ngọc Lụa. Tại đồn công an Mỹ Phú, trước mặt khá đông các nhóm Hà Nội- Sài Gòn- Miền Trung, viên sĩ quan an ninh tỉnh có tên là Hà Quốc Trung khi gọi Nguyễn Ngọc Lụa đến ký biên bản, không hiểu vì sao y nổi thú tính đánh mạnh vào mang tai của chị. Chị Lụa té xuống bất tỉnh. Sự việc xảy ra trước sự chứng kiến của rất nhiều người. Do áp lực của mọi người, chị Ngọc Lụa được chở đi cấp cứu. Qua chẩn đoán, được biết chị Lụa bị tổn thương màng nhĩ và chấn thương não. - Hai ngày sau phiên xử, tức là vào ngày 28 tháng 9, theo tường thuật của Gs Phạm Minh Hoàng - vào lúc 19g15, trên đường đi bộ về nhà trọ thì anh Nguyễn Bắc Truyển đã bị một chiếc xe máy tông mạnh từ đàng sau làm anh ngã lăn xuống đường, và đập đầu xuống đất. Anh Truyển cũng đã nhận được mặt kẻ đó chính là một nhân viên an ninh vẫn thường xuyên canh gác theo dõi anh. Người nhà vội đưa anh Truyển đi bệnh viện cấp cứu với các thương tích ở đầu, cánh tay, cạnh sườn và sau đó kéo theo các cơn ói mửa. Đất nước ta ở mọi thời đại, chưa bao giờ lực lượng có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự cho dân lại trở nên hung hãn, tàn bạo với dân như hiện nay. Đã từ lâu họ được ngầm cho phép đánh dân đầy thương tích ngay trên đường phố và tại các đồn công an. Việc người dân bỗng ngã ra chết trong các đồn công an gia tăng ngày một nhiều. Trong nhiều trường hợp các nạn nhân mất mạng chỉ vì từ chối đóng tiền hối lộ cho công an. Nay lãnh đạo đảng còn chính thức cho công an thẩm quyền bắn dân ngay trên đường phố. Như những chế độ độc tài khác, sở dĩ nhà cầm quyền CSVN dám bạo hành dân ngày một nghiêm trọng và thản nhiên như thế là vì họ biết công luận sẽ chóng quên, đặc biệt khi có các biến cố thời sự khác xảy ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, tên tuổi, hình ảnh của cả những kẻ vi phạm pháp luật lẫn các nạn nhân đều rơi vào quên lãng và gần như vụ việc không hề xảy ra. Thật vậy, chỉ cần lấy vụ bạo hành tại Đồng Tháp làm thí dụ. Bằng đó hành động phạm pháp nghiêm trọng của công an chỉ mới xảy ra hơn 1 tháng trước mà nay còn mấy ai nhớ khi mà công luận đang hướng về tác phẩm Đèn Cù và vụ triển lãm CCRĐ và những sự việc khác. Nếu người dân nhất định không để cho các vụ bạo hành trôi đi thì cách hành xử của kẻ cầm quyền sẽ khác. Điều này đã được nhiều dân tộc chứng minh khi họ còn phải sống dưới các chế độ độc tài ở nước họ. Và một trong những cách để sự việc không qua đi là lập hồ sơ kiện chính thức. Đây nên là một hồ sơ kiện chung của tất cả các nạn nhân để vượt qua được sự sợ hãi của riêng từng người, và bao gồm tối đa các nhân chứng. Hồ sơ ghi đầy đủ tên họ, hình ảnh của các kẻ bạo hành. Hồ sơ chứa đựng các giấy chứng thương và hình ảnh chụp các thương tích trên thân thể các nạn nhân. Và quan trọng hơn cả, đây là hồ sơ kiện đích danh quan chức trách nhiệm, chẳng hạn như kiện đích danh Thiếu tướng Nguyễn Minh Thuấn, Giám đốc Công an tỉnh Đồng Tháp trong trường hợp này. Mỗi hồ sơ kiện đó không chỉ gởi cho các cơ quan nhà nước liên hệ mà còn gởi vào mạng Internet để được nhiều người lưu trữ vĩnh viễn. Hiển nhiên, mục tiêu của việc kiện không phải để tìm kiếm công lý tại những tòa án mà ai cũng biết chỉ là công cụ trong cả guồng máy bạo hành. Nhưng mục tiêu là để: (1) Cả thế giới biết về tình trạng "côn an" và hệ thống pháp lý công cụ tại Việt Nam hiện nay; (2) Có thể triệu tập tất cả những nhân sự liên hệ khi toà án của dân tộc xét xử các vụ việc này trong tương lai. Với hồ sơ này, những kẻ trách nhiệm, đặc biệt là những quan chức bị kiện đích danh, sẽ không thể chối cãi rằng đó chỉ là hành vi của cấp dưới mà họ không hề hay biết. (3) Trở thành những dữ kiện lịch sử cho các nhà nghiên cứu tương lai khi viết về chế độ hiện tại. Các thế hệ tương lai phải biết những gì đang xảy ra hôm nay để không lập lại loại thể chế này. (4) Gởi thông điệp đến công an trên cả nước rằng trong các vụ việc tương tự trong tương lai, nhân dân sẽ ghi nhận tất cả tên tuổi, mặt mũi của những kẻ bạo hành và DÂN TỘC SẼ KHÔNG QUÊN. Dĩ nhiên, tại tất cả mọi nước độc tài, khi du đãng đang ngồi ghế cai trị, cả côn an và dân chúng đều không nghĩ sẽ có ngày kẻ ác phải ra trước tòa án của nhân dân. Nhưng cứ từng nước một, NGÀY ẤY ĐÃ ĐẾN. Điều đáng nói là tại nhiều nước cựu độc tài, khi ngày đó đến, thì hầu hết các chứng tích, tên tuổi của những kẻ ác ôn đã không còn nữa vì đã không được ghi xuống. Trong khi đó, nhân loại đã có sẵn một bài học quí giá từ những tù nhân Do Thái. Trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã, những tù nhân Do Thái đáng nể này đã "ghi sổ" và truyền tay nhau sổ tội ác của các tên đồ tể ngay trong lúc họ đang bị bức tử. Họ muốn nhân loại phải biết những gì đang xảy ra, ngay cả nếu ngày mai họ không còn trên trái dất này nữa. Khi đến phiên mình phải vào phòng hơi ngạt, họ chuyển cuốn sổ cho đợt tù mới đến, và cứ thế cho đến đợt tù nhân sống sót sau cùng khi quân đồng minh tiến vào giải phóng trại tù. Những cuốn sổ ghi tội ác này đã đóng góp rất nhiều trong việc đưa những tên đồ tể ra trước tòa án hàng mấy thập niên sau đó, khi chế độ Đức Quốc Xã đã hoàn toàn biến mất. Chúng còn là những tư liệu lịch sử quí giá để dạy dỗ các thế hệ tương lai của cả nhân loại. Với phương tiện Internet ngày nay, dân tộc Việt Nam không phải trải nghiệm những tình cảnh khó khăn như dân tộc Do Thái, nhưng điều đó lại càng đặt câu hỏi cho mọi người Việt Nam: Tại sao chúng ta còn chưa làm? Nguyễn Quốc Quân Nguồn: viettan.org
......

Bác Hồ Oan Ghê

Ku Gúc nhất định phải gục mặt mà GATO với bộ chính trị Hà Nội phen này. Non triệu hình ảnh và bài viết về Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) hiển thị trên trang Gúc đã bị cuộc triển lãm thần thánh ở Hà Nội đánh gục. Chỉ nội trong vòng 4 ngày, lãnh đạo đảng và nhà nước ở đây đã vực dậy một giai đoạn khí thế của đảng, dưới danh đội, đến long trời lở đất, chẳng khác nào một Điện Biên trên ruộng. Qua đó, không ai không thấy quả thực là Địa Chủ Ác Ghê. Thương dân vãi lệ Nhờ cuộc triển lãm này mà chẳng một ai thèm nghi hoặc rằng tác giả C.B. của bài báo kích động mở màn cho thời kỳ điện chạy cột sống đến rùng mình nửa nước này chính là … Trần Dân Tiên, Ông Tiên Sống Mãi. Cũng chẳng ai thắc mắc về cái quyền tư sản đối với một tay vô sản nặng ký cỡ đó, để kịp bàng hoàng nhận ra “C.B.” là chữ viết tắt “Của Bác” dùng để đánh dấu loại bài mà ban biên tập báo Nhân Dân tuyệt đối không được động đến một dấu chấm/dấu phẩy nào. Tất nhiên, cuộc triển lãm đã đánh bạt mọi ngờ vực rằng lão Tiên này từng gửi thư viết tay trình kế hoạch và xin lão Xít-ta-lin cho về nước làm CCRĐ. Rồi lại xin lão Mao gởi cố vấn TQ sang VN làm CCRĐ, vì cán bộ VN không biết làm. Rồi lại thỏa thuận với lòng tôn trọng tuyệt đối để các cố vấn TQ lấy quyết định tối hậu về CCRĐ ở VN. Điểm son đại thắng lợi của cuộc triển lãm nằm ở chỗ trình bày tận tường/giải thích cặn kẽ đến người xem rằng CCRĐ là một “Chủ Trương Lớn”, thời đó, với “Tính Quốc Tế” hiển hiện ngay trên mọi khán đài đấu tố ba bức ảnh lãnh tụ vô vàn và muôn năm kính yêu là bác Ma-len-kô (Liên Xô), bác Mao (TQ) và bác Hồ (VN). Bởi, nội dung Quốc tế ca đã chẳng từng kêu đòi điều này trước đó hay sao?   “Quyết phen này sống chết mà thôi Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành Toàn nô lệ vùng đứng lên đi Nay mai cuộc đời của toàn dân khác xưa Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình…”. Lợi lẫn quyền, ai chẳng ham? Thế thì hãy đứng lên… “Đấu tranh này là trận cuối cùng Kết đoàn lại để ngày mai L’Anh-te(rơ)-na-xi-ô-na-lơ sẽ là xã hội tương lai”. Tương lai không chỉ là một VN có giai cấp bần nông lãnh đạo. Tương lai là một thế giới đại đồng chói lọi.  Đã chẳng bảo “Chủ Trương Lớn” (hay tên chữ “Đại Cục”) là gì? Cho nên, rõ ràng, qua cuộc triển lãm, người ta không thể tự cho phép dễ tính đến mức có thể tin rằng mục tiêu lớn nhất của CCRĐ chỉ đơn giản là vì công bằng xã hội, hay để cào bằng giai cấp. Chủ đích lớn nhất và cần đạt kỳ được chính là phóng tay gieo rắc đủ mức kinh hoàng và rúng động lâu dài trong tâm khảm nhân dân để (cùng với biện pháp xiết họng mà) giành trọn quyền kiểm soát con người bằng bạo lực. Đường Kách Mệnh là gì ư? Đó là con đường dẫn tới một xã hội trong đó không một cá nhân nào (bất kể tiền nhiều hoặc uy tín cao), và không một đoàn thể nào (từ tôn giáo đến xã hội), được phép ảnh hưởng lên con người, ngoại trừ lãnh đạo đảng. Qua cuộc triển lãm, mọi người đều có thể yên tâm rằng bác Hồ đã được cộng sản quốc tế huấn luyện kỹ và biết rõ tất tần tật về nguyên tắc chuyên chính hàng đầu đó. Nguyên tắc điều khiển con người (căm thù và hung hãn) đó, y chang nhau, đã được thực hiện (thắng lợi) nhiều lần tại LX, TQ, và hầu hết các nước cộng sản trước đây lẫn bây giờ, dưới đủ loại nhãn hiệu. Khi thì để triệt hạ tàn dư phong kiến, khi thì để tiêu trừ tư bản, khi thì để tận diệt “hữu khuynh phản bội”, khi thì để thanh trừng “xét lại, chống đảng”, khi thì để thúc đẩy cách mạng văn hóa, v.v…. Thậm chí, có khi, ở quy mô nhỏ và ngắn ngày, chỉ nhằm để biểu dương khả năng gây bạo loạn (như ở Bình Dương/Vũng Áng, chẳng hạn). Cuộc triển lãm thần sầu quỷ khốc này còn có sứ mệnh tô đậm nét một đảng vĩ đại có khả năng tính sẵn các thứ tình huống, và tính cả các thứ tiếp theo sau chiến dịch: Khi sự kinh hoàng hay uất ức của quần chúng đã vượt quá tầm, có thể làm bùng vỡ cả xã hội, thì lãnh đạo luôn luôn có sẵn vở tuồng quy lỗi và sửa sai. Hình ảnh sụt sùi tất nhiên là khá phổ thông (và rất cần trở thành trọng điểm của mọi triển lãm). Bấy giờ, một dàn loa đồng thanh mở hết công suất kêu gào than khóc, rằng: Bản thân bác không tàn ác giết người chẳng gớm tay thế đâu!  Chỉ vì bất khả kháng và bất đắc dĩ, bác mới phải nghe lời cố vấn Tàu mà lệnh bắn bà Cát Hanh Long như một lời tuyên chiến với giai cấp Địa Chủ Ác Ghê kia! Riêng cái thông điệp chiến lược nọ thì cứ để nguyên,  bởi không thể nào rõ hơn được nữa: Ân nhân cất giấu/nuôi dưỡng/hỗ trợ lãnh đạo đảng chẳng là cái đinh gì. Quan thầy bảo giết thì bùm ngay thôi!   Về mặt gia cố uy thế đảng, lãnh đạo đã thống nhất sẵn với nhau các biện pháp lôi đầu một số dê tế thần chọn lọc ra vùng nhang khói để vỗ về lòng tin của quần chúng, và lập tức xiết chặt gọng kềm kiểm soát dưới nanh vuốt đảng ngay sau đó. Trong trường hợp không có chiến tranh làm mồi dẫn, thì cứ năm bảy năm một lần, các đảng CS vĩ đại quang vinh lại tung ra một chiến dịch gieo rắc kinh hoàng long trời lở đất khác để xốc lại xã hội cho ngay ngắn/ổn định trong vòng nanh vuốt đảng. Các chuẩn bị trước chiến dịch, một số điều chỉnh ngay trong chiến dịch, cả hai biện pháp sóng đôi sau chiến dịch ngày đó, như vừa nói, cộng thêm cuộc Triển Lãm CCRĐ 1946-1957 cực kỳ hoành tráng tại Viện Bảo Tàng Quốc Gia hôm nay, tất yếu đã giao thoa/cộng hưởng mà để lại trong lòng người xem một niềm cảm khái trắc ẩn vô biên. Trước tiên, nó khiến mọi người phải tự cược lấy một niềm tin không suy suyển rằng Bác Hồ Oan Ghê: bác chớ hề lên kế hoạch, chẳng từng viết bài kích động mở màn, chẳng gật đầu xử tử ân nhân, chẳng hay biết gì về diễn tiến toàn bộ sự việc trên toàn cõi Bắc Việt, cũng chẳng can dự trực tiếp hay lệnh lạc gì vào từng bước của tiến trình CCRĐ. Nỗi oan lớn nhất là bác không thể ngờ quân Tàu lại ác đến thế, hay lũ Đội lại độc đến thế.  Bác chỉ đau đáu một tấm lòng tội nghiệp đến vãi lệ cho hàng vài chục vạn nạn nhân nằm xuống và hàng chục vạn gia đình lất lây trong một xã hội bị xới tung. Kết luận 1: bác không tự tay bắn giết ân nhân hoặc nông dân nào cả. Thứ nhì, nó khiến mọi người phải tự dập tắt trong lòng mọi ý nghĩ oan sai, rằng bác đã dày công đào tạo những động vật từng được mệnh danh cực hãi là Nhất Đội Nhì Trời; và xuyên qua nỗ lực đó,  bác đã tập dượt/huấn luyện/trang bị thành công cho một giai cấp nông dân có đầy đủ bản lãnh và sáng kiến lăng mạ/đánh đập/vu cáo/tố điêu/buộc tội/lên án ngay chính ân nhân, ngay chính những người nuôi nấng cách mạng, thậm chí, ngay chính ông/bà/cha/mẹ/anh /em của nó. Kết luận 2: bác không tự tay tước bỏ cả tính người lẫn tình người của bất cứ ai. Thứ ba, nó khiến mọi người phải tự rập lòng hoan hô cách xử thế đầy nghĩa tình của một thời bi hùng có tên là CCRĐ: không một ai góp của/góp vàng nuôi giấu cán bộ, chấp nhận mọi rủi ro tính mạng trước đám mật thám  Tây mà lại nhận lãnh cái án tử bằng những viên đạn của cách mạng VN. Kết luận 3: nhờ ơn bác, ơn đảng, mà họ chỉ vô tình bị xử tử bởi những viên đạn của Tàu. Thứ tư, nó khiến mọi người phải rất đỗi tự hào về một giai đoạn nghèo khó “vượt thời gian” của nông dân ta: Hình ảnh triển lãm cho thấy là ngay từ đận cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, nông dân VN đã từng sử dụng đại trà những nồi nhôm nồi đồng với đũa nhựa; đã từng nộp thuế bằng gạo trắng chứ không cần đong thóc; đã từng dùng cân; đã từng mặc áo may bằng máy may công nghiệp; đã từng dùng bát chiết yêu… Kết luận 4: ngay từ thời CCRĐ, đời sống của nông dân ta đã là mẫu mực sung túc, đi trước nhiều nước châu Á hàng chục năm. Thứ năm, nó khiến mọi người liên tưởng ngay đến một giai cấp đại địa chủ đỏ lòm ở thế kỷ 21: Đất đai ruộng vườn mênh mông tình đảng; biệt thự/nhà thờ họ hoành tráng đời quan; vàng/đô phải giặt rửa/ký gửi tận bên kia bán cầu; con cái du học các nước tư bản về được cơ cấu ngay vào đầu ngõ Trung Ương; lại còn còn có cả lực lượng công an, quân đội lái công xa và lãnh lương từ tiền thuế của dân để đi cưỡng chế nhà đất của dân cho họ… Kết luận 5: chưa có nước nào tiến bộ với một vận tốc ngang bằng tiến độ đổi đời của bần cố nông thành tư bản đỏ nhanh gọn như ở VN ta. Thứ sáu, rất tiếc là cuộc triển lãm CCRĐ đang hồi hưng phấn, những nữ vũ công đang cơn ưỡn ẹo, nỗi oan của bác đang trên đà tháo gỡ, uy thế của đảng đang được PR sáng choang, hình ảnh VN ngời ngời ánh sáng văn minh cách mạng… thì bỗng dưng đứt bóng/chết tiệt. Kết luận 6: tiên sư đám tuyên giáo, chỉ vì tự kỷ lộ hàng mà đành đoạn chấm dứt ngang hông một tiến trình giải oan cho bác, khiến đám thối mồm cứ mắng cho là thứ Lúng Túng Đẻ Lung Tung. 16/9/2014 –  Tròn 64 năm ngày mở màn Chiến Dịch Biên Giới ở Đông Khê. Nguồn: Blogger Đinh Tấn Lực
......

Chúng ta đang sống vì ai?

Ngày này 4 tháng trước,   17h00 ngày 16 tháng 05 năm 2014, tôi trở về Việt Nam sau chuyến đi vận động cho “nền báo chí độc lập tại Việt Nam” dài hơn 1 tháng tại Hoa Kỳ. Nguyễn Đình Hà, Ngô Nhật Đăng và Ns. Kim Chi đến Mỹ vận động cho Tự do báo chí   Khi ra khỏi máy bay, tôi và chú Ngô Nhật Đăng đã biết trước điều gì sẽ đợi mình ở sân bay, điện thoại của chúng tôi đã mở. Bạn bè của chúng tôi đang ngóng đợi ở bên ngoài sân bay Tân Sơn Nhất, những người bạn tại Mỹ, Pháp, Úc đang ngong ngóng chúng tôi bình an về nhà.   Rồi chuyện gì đến cũng đến, tôi và chú Đăng được công an cửa khẩu Tân Sơn Nhất đưa vào 2 cái phòng riêng biệt để làm việc với những nhân viên an ninh của Bộ Công an – có người ở Sài Gòn, có người thì từ Hà Nội bay vào. Đối với chúng tôi, việc làm này hoàn toàn là phi pháp và coi thường luật lệ, tôi nói thẳng với những nhân viên an ninh trẻ “làm việc” với tôi như vậy. Phần “làm việc” của chú Đăng ra sao tôi không rõ, nhưng nghe chú kể thì không có gì căng thẳng, chú đã ra ngoài, không bị thu giữ, mất mát gì sau 6 tiếng đồng hồ, còn đối với tôi hoàn toàn ngược lại. Một mình tôi đã “làm việc” với 10 nhân viên an ninh – già có trẻ có, nam có nữ có, Nam có Bắc có, nhẹ nhàng có dữ dằn có, vỗ về có đe dọa có, nói chung là rất nhiều cung bậc trong hơn 24 tiếng đồng hồ. Tôi đã nói với 1 nhân viên an ninh như thế này “Đối với anh, thì tôi và anh như đang trao đổi quan điểm, còn đối với những anh kia, hình như họ đang “đấu tranh, khai thác” tội phạm ấy!”. Tôi đã bị tước đoạt: 1laptop, 1 ipad, 1 máy ảnh, 1 vài vật kỷ niệm, 1 loạt card visit, 1 cái balo, … và cả cuốn passport mà chả có bất cứ biên bản nào – hành động này có đáng được gọi là ăn cướp hay không? Trong suốt thời gian “làm việc”, đèn trong phòng luôn bật sáng như để khủng bố tinh thần, tôi không ăn, không ngủ, chỉ uống nước. Cho dù họ có mời tôi ăn, tôi cương quyết không ăn để phản đối sự vi phạm pháp luật, coi thường quyền công dân thế này ; họ dí cả máy quay vào mặt tôi để hỏi cả chuyện ăn uống rồi cuối buổi cũng dàn cảnh quay với bánh trái, nước non – thật bỉ ổi! Chúng ta đang sống vì ai? Trong toàn bộ cuộc làm việc và kể cả trong chuyến đi Hoa Kỳ, tôi chỉ có 1 tâm niệm: CHÚNG TÔI ĐI VÀ LÀM VÌ TƯƠNG LAI CON EM CỦA CHÚNG TA, đơn giản thế thôi! Đơn giản như không có gì đơn giản hơn, như câu khẩu hiệu của tôi: À L’AVENIR PLUS BRILLANT! – Vì một tương lai tươi sáng hơn! đã được khắc trên con dấu gỗ của tôi. Việc làm nào của tôi cũng nghĩ tới tương lai, tới những gì con cháu mình sẽ có sau này, bởi chính chúng là tương lai của chúng ta. Tôi đã nói với những nhân viên an ninh như vậy, họ nghe xong rồi người thì cười khẩy, người thì có vài lời nói như thế này: - “Mày đã lập gia đình, đã có con đâu mà mày nói “vì tương lai con cháu” hả mày?!?!?!” – tôi đáp: Tôi chưa có con, nhưng tôi có cháu, con của các bạn tôi cũng như con của tôi và tôi cũng sống vì chúng như đối với con mình! - “Mày vì con cháu mày, thì mày yên thân mà đi làm kiếm tiền để nuôi con cháu mày đi, chứ mày đi làm chuyện này làm gì?!” – tôi đáp: Tôi sống và làm việc theo cách của tôi, đó là quyền của tôi, miễn sao con cháu tôi có cuộc sống tốt đẹp hơn những gì cha mẹ nó, ông bà nó đã và đang có, thế thôi! Nói chung, tôi chả hiểu vì sao họ lại có thể nói được những cái câu ngớ ngẩn như vậy!?!?!? Giữa những lúc nói về chuyện tụi nhỏ, tôi nhắc đến dịch sởi tại Hà Nội, về việc tiêm vác-xin Quinvaxem khiến nhiều trẻ tử vong, rồi chuyện con cháu chúng tôi đi học ra sao, môi trường xã hội thế nào. Tôi nói thật, khi nghĩ và nói về chúng, tôi đã rớt nước mắt ngay trước mặt những viên an ninh đó. Một câu hỏi mà tôi đặt ra với những nhân viên an ninh này và với nhiều người rằng: CHÚNG TA VÌ CON EM CHÚNG TA LÀ NHƯ THẾ NÀO? Tôi cũng đã từng tự hỏi mình như vậy và tôi đã có được câu trả lời thích đáng! Có phải chúng ta vì con cháu chúng ta là chúng ta an phận, đi làm, kiếm tiền, có tiền cho chúng ăn, học và chữa bệnh, có tiền mua đồ chơi cho chúng, có tiền cho chúng đi du học nếu có điều kiện, mặc kệ xã hội ngoài kia nó đang diễn ra thế nào như đại bộ phận các ông bố, bà mẹ Việt Nam hiện nay? Tôi cho rằng, bấy nhiêu thôi là không đủ và có phần còn ích kỷ, vô trách nhiệm! Đối với tôi, chúng ta vì tương lai con em chúng ta là chúng ta hãy cho chúng những gì chúng đáng được hưởng hoặc những gì cha mẹ, ông bà chúng chưa từng được! Tôi muốn con cháu mình được sống trong một xã hội nhân bản, an toàn và coi trọng con người. Tôi muốn con cháu mình không phải nơm nớp lo sợ khi thực thi các quyền công dân của mình như cha mẹ, ông bà chúng đã trải qua hàng chục năm qua. Tôi muốn con cháu mình không phải chứng kiến hay trải qua những chuyện bỉ ổi như cha mẹ, ông bà chúng đã gặp phải – như chuyện tôi kể ở đầu đoạn bài viết này. Tôi không muốn con cháu mình bị 1 đám vô lại nào đó bắt cóc, uy hiếp, khủng bố tinh thần, rồi bị ép từ bỏ, hận thù cha mẹ vì cha mẹ chúng đang làm những việc đúng với trách nhiệm của mình, nhưng là “phản động” trong mắt bọn vô lại – như chuyện chị Phượng con chú Đăng vài lần đã trải qua. Tôi muốn con cháu tôi lớn lên, phát triển thành 1 con người đúng chất là con người, chứ không phải “con cừu” sống theo bày đàn, bị nhồi sọ, áp đặt tư duy. Tôi muốn dạy con cháu mình biết đâu là điều phải, điều trái, đâu là quyền của các con, đâu là lối sống nhân bản, nhân vị, đâu là trách nhiệm của một người cha, người mẹ, người công dân, … Tôi sẽ không dạy con cháu mình đâu là kẻ thù, đâu là bạn, đâu là “thiên đường”, đâu là địa ngục, … các con hãy cảm nhận cuộc sống và rút ra bài học, lối đi cho mình. Tôi muốn chúng có điều kiện sống tốt không chỉ về vật chất mà còn về tinh thần và môi trường xã hội. NHỮNG ĐIỀU ĐÓ LÀ CHÍNH ĐÁNG HAY LÀ SAI? Để làm những điều đó, tôi và nhiều người đã, đang và sẽ đi đòi lại quyền chính đáng của mình và sử dụng chính những quyền đó để đắp xây cho một tương lai tốt đẹp hơn cho chúng ta và con cháu chúng ta. Nhiều người nói: tôi chỉ biết sống an phận, không biết và cũng không thể làm được điều gì khác ngoài chuyện kiếm tiền lo cho bản thân và gia đình. Không có vấn đề gì hết! Bởi đó là xã hội Việt Nam hiện tại, một xã hội có quá nhiều thách thức, vấn đề và cũng không ít cơ hội cho mọi sự thay đổi. Chúng tôi đã, đang và sẽ tiếp tục làm những điều mà chúng tôi cho là tốt cho các thế hệ tương lai của đất nước này, với trách nhiệm không chỉ cho chính chúng tôi mà còn làm thay cho nhiều người khác – những người cũng mong muốn một tương lai tốt đẹp hơn bây giờ nhưng bất lực, không cất được tiếng nói của mình. Tôi luôn hy vọng và tin tưởng rằng chúng ta sẽ làm được, bởi những điều thiện sẽ thắng những điều ác, cái tốt hơn sẽ ở lại và cái xấu sẽ phải tiêu biến – đó là quy luật ngàn đời nay! CHÚNG TA HÃY SỐNG VÀ LÀM NHỮNG GÌ TỐT ĐẸP NHẤT CHO CON CHÁU CHÚNG TA! Đừng để chúng oán chúng ta đã không làm gì, để lại gánh nặng cho chúng, để lại cho chúng một xã hội bạc nhược, mục nát! Hãy cho chúng được ngẩng cao đầu, tự hào về thế hệ đi trước và về quê hương xứ sở! ĐÓ MỚI ĐÍCH THỊ LÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI LÀM CHA MẸ! Chính những gì mà tôi đã trải qua và chứng kiến đã khiến tôi có thêm động lực để đi tiếp trên con đường mình đã lựa chọn! Xin cảm ơn tất cả những ai đã, đang và sẽ sát cánh cùng và ủng hộ tôi trên con đường này! Nguồn: FB Nguyễn Đình Hà
......

Tử huyệt: Tước đoạt kẻ tước đoạt

Ở Hà Nội vừa xảy ra một sự kiện chính trị - văn hóa gây tiếng vang lớn. Một cuộc triển lãm về Cải cách ruộng đất (CCRĐ)1945-1956 mở ra tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam dự định kéo dài đến cuối năm, được khai mạc khá trọng thể, bỗng đóng cửa sau có 2 ngày «vì lý do ánh sáng». Đã có nhiều bài viết trên các blog tự do phỏng đoán vì sao một cuộc triển lãm quan trọng đến vậy lại đột nhiên «đứt phim» khi vừa khởi đầu. Có người cho rằng đó là vì ngay lúc khai mạc, hàng trăm bà con nông dân ở phường Dương Nội - Hà Đông đã rủ nhau tụ tập thành hàng ngũ ra thủ đô cùng mặc áo đỏ với nhiều biểu ngữ, truyền đơn tố cáo bọn cường hào mới đã cướp đất, cướp nhà của bà con nông dân địa phương. Bà con cho rằng nếu cuộc triển lãm có mục đích biểu dương chính sách bênh vực nông dân của đảng thì đây có thể là nơi đảng sẽ phải biểu thị tiếp tình nghĩa công - nông liên minh nhất quán của mình. Và thế là đảng bị chóng mặt. Vì việc gì sẽ xảy ra nếu như nông dân bị oan ức ở Thái Nguyên, Vĩnh Phú, Hòa Bình, Sơn Tây, rồi Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định…cùng rủ nhau đi xem triển lãm với yêu sách đòi đảng phải có chính sách bảo vệ thực sự quyền lợi của nông dân? Đóng cửa là thượng sách. Một phản ứng của giới trí thức là cuộc triển lãm quá sơ sài, chỉ có 150 hiện vật, tranh ảnh, đồ dùng sinh họat hàng ngày của nông dân và của địa chủ, những khẩu hiệu sách báo nói về CCRĐ, những tài liệu đã được tuyển chọn kỹ nói về tội ác bán nước của giai cấp địa chủ VN theo thực dân Pháp, Nhật, bóc lột đến cùng cực nông dân. Cuộc triển lãm có chủ ý minh họa đường lối đúng đắn của đảng CS, tuy có sai lầm nhưng đã được sửa chữa, mở ra một cuộc phát triển chưa từng có của nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Mặc dù toàn bộ sự thật về nông thôn và nông dân VN đã bị che giấu, nhưng tất cả mọi điều che giấu quan trọng nhất càng thêm nổi bật trong thời buổi thông tin nhanh nhạy ngày nay. Đúng vào lúc nhạy cảm, cuốn Trần Đức Thảo - Những Lời Trăng Trối của ký giả Tri Vũ Phan Ngọc Khuê và cuốn Đèn Cù của nhà báo Trần Đĩnh đã có nhiều tư liệu về CCRĐ phong phú, chính xác gấp bội phần so với cuộc triển lãm nghèo nàn nói trên. Biết bao câu hỏi được đặt ra trong cuộc đối thoại toàn xã hội về CCRĐ. Có thật Hồ Chí Minh đã gửi thư kèm kế hoạch CCRĐ để xin ý kiến xét duyệt của Stalin, và kế họach ấy đã được xem xét bởi Lưu Thiếu Kỳ, chủ tịch nước CHND Trung Hoa hồi đó? Vai trò của đoàn cố vấn Trung Quốc về CCRĐ ra sao? Có bao nhiêu địa chủ bị tử hình và tỷ lệ oan sai là bao nhiêu? Con số do tiết lộ từ lưu trữ của Văn phòng Trung ương đảng là 172.008 địa chủ bị tử hình, trong đó oan sai là 123.266, có đúng không? Rồi thái độ của Hồ Chí Minh đối với việc bà Nguyễn Thị Năm - Cát Hanh Long thực sự là ra sao? Ông ga-lăng kiểu Tây phương - «không đánh phụ nữ dù bằng một cành hoa» (theo lời ông Hoàng Tùng), ông hứa «sẽ can thiệp với các đồng chí Trung Quốc để không khởi đầu cuộc CCRĐ bằng cách xử bắn một phụ nữ» (qua lời kể của ông Hoàng Quốc Việt), hay chính ông đã che chòm râu lẩn vào đám đông đích thân dự cuộc xử bắn bà Năm, và cũng chính ông viết bài kể tội bà Năm «Địa chủ ác ghê», gửi đăng báo Nhân Dân, ký tên C.B., nghĩa là Của Bác. Tôi tin 2 chi tiết vừa nói theo lời kể của nhà báo Trần Đĩnh trong Đèn Cù là chính xác. Nhưng lý do chính đóng cửa vội vã cuộc triển lãm CCRĐ có thể là ở chỗ nó đụng đến cái tử huyệt của đảng CS VN hiện nay. Vì CCRĐ cũng như Cải tạo tư sản, Cải tạo gian thương, cải tạo Công thương nghiệp đều tuân theo lời dạy của Mác và Lênin là «Tước đọat của những kẻ tước đọat». Tài sản của địa chủ đều là tài sản từ sức lao động của nông dân bị địa chủ tước đọat, nay CCRĐ chỉ là tước đọat trở lại trả về cho nông dân, theo lẽ công bằng của đạo lý và pháp luật. Cuộc triển lãm trưng bày ảnh nhà cửa, bữa ăn, bàn đèn hút thuốc phiện của địa chủ và chòi rơm rạ, bữa ăn đạm bạc của bần cố nông. Thế nhưng người xem liền liên tưởng đến giai cấp «tư sản Đỏ» hiện nay, mà nhà thơ Hà Sỹ Phu gọi là những «phú nông, địa chủ, cường hào cộng sản» mới, thì những địa chủ ác ôn cũ chỉ đáng xách dép cho các địa chủ và tư sản mới ngày nay.   Chẳng cần phải sưu tầm để triển lãm và giải thích minh họa cũng có thể thấy giai cấp địa chủ, tư sản Đỏ hiện nay đang sống ra sao - nhà cao cửa rộng gấp trăm ngàn lần địa chủ ác ôn thế kỷ trước, có xe xịn Nhật, Đức, có tài sản, cổ phần cổ phiếu, tài khoản ngân hàng lên đến vài triệu đôla. Tất cả không phải có được từ tài năng, cạnh tranh hợp pháp, mà phần lớn là từ đầu cơ quyền lực, chức vụ, mánh mung phe nhóm, chia chác của công, tức là của xã hội, của nhân dân nghèo khổ. Họ giật mình là phải lẽ. Họ sợ, vì bị điểm trúng tử huyệt. Cái huyệt chết người. Người dân trước cuộc «triển lãm» của cuộc sống thật khắp nơi nhận ra bất công xã hội không thể chấp nhận nổi nữa, đang không đòi gì hơn là lẽ công bằng: Phải tước đoạt lại của những kẻ tước đoạt để trả về cho nhân dân, cho xã hội. Và ngay lúc này. Tài sản của nguyên tổng thống Tunisia hơn 8 tỷ đôla đã bị sung công, tài sản của nguyên tổng thống Gaddafi ở Libya lên đến 12 tỷ cũng đã bị sung vào công quỹ. Ở Trung Quốc, toàn bộ tài sản ước tính lên đến 80 tỷ đôla của nguyên bộ trưởng Công an Chu Vĩnh Khang cùng với tài sản của hơn 400 cán bộ cấp cao liên quan đến ông Chu đã bị phong tỏa và sung công. Những gì của Cesar phải trả lại cho Cesar. Các nhà lãnh đạo CS ở VN định khoe công lao của họ trong CCRĐ qua cuộc triển lãm sơ sài chỉ nói lên một góc nhỏ của sự thật, đã và khơi dậy một đòi hỏi lớn lao và chính đáng là phải nói lên đầy đủ sự thật, và hãy thực hiện công bằng xã hội ngay nhãn tiền: chống tham nhũng thật sự, trả lại tài sản phi pháp đã tước đọat của xã hội cho nhân dân, trả lại quyền tự do và quyền làm người cho toàn dân, đã bị đảng tước đoạt quá lâu. Đây là cái huyệt nợ đời của đảng CS. Bùi Tín
......

Tâm sự của một Dư luận viên (DLV)

Ghi lại “nguyên bản” theo sự việc có thật Loan Nguyen/ Blog Loan Nguyen    Từ xưa tới nay, các nhà Dân Chủ thường cho rằng DLV là đám ruồi nhặng không có óc cũng chẳng có trái tim…Thật ra bản thân tôi và rất nhiều DLV khác là loại có óc và nhiều óc (trái tim tôi sẽ đề cập sau). Có thể nói đại đa số cái đầu chúng tôi còn cao hơn nhiều người khác, bởi vì chúng tôi là người có trình độ, chúng tôi là sinh viên, sinh viên ở một trường không tầm thường, ở trường có tiếng tăm và “hot” hiện nay chuyên đào tạo về công nghệ thông tin… Khởi đầu, chúng tôi cũng như bao ngàn sinh viên khác, lên thành phố ăn học, gánh nặng trên vai ước mơ thành đạt và cả những nỗi lo toan, mệt nhọc mà cha mẹ chúng tôi đang phải oằn lưng với mảnh vườn con con lo cho chúng tôi ăn học. Thời gian đầu, tôi cũng lăn lội với đủ mọi nghề mà sinh viên có thể kiếm được để thêm chút tiền lo chi phí như dạy kèm, chạy bàn, phục vụ…cho đến việc bán mặt ra giữa trời mưa, trời nắng giữa đường để phát tờ rơi… Rồi một ngày họ đến trường chúng tôi, họ tập hợp chúng tôi theo từng nhóm nhỏ, có rất nhiều nhóm như thế và họ đưa ra đề nghị về một công việc lâu dài với một mức lương tương đối xứng đáng và cả những lời hứa hẹn về một tương lai sáng chói sau khi ra trường…   Chúng tôi được dạy một số kỹ năng cơ bản, có thể nói là được “huấn luyện” khá bài bản và theo một lộ trình rất rõ ràng. Chúng tôi sẽ tự nâng cấp chúng tôi bằng cách tập hợp những nhóm nhỏ khác để bản thân chúng tôi trở thành Leader. Với công việc gì cũng vậy, những ngày đầu là những ngày tháng “vất vả”, chúng tôi phải tập làm quen với nhiều thứ ngôn từ tởm lợm, phải biết phản xạ, phải đối chọi lại với tất cả mọi điều bằng sự lăng mạ, phải hung hăng ném vào đó những thứ dơ bẩn và tồi tệ nhất mà chúng tôi có thể nghĩ ra được…Riết thành quen, nó như một chất men khiến người ta càng say thì càng thấy khát…Bạn cứ hình dung khi bạn ra chiến trường, bạn buộc phải bắn vào đối thủ, những phát đạn đầu tiên bạn sẽ run tay, bạn sẽ sợ hãi, lương tâm bạn sẽ réo rắt nhưng khi bạn vượt qua điều đó, trong trí não bạn sẽ có 1 sự kích thích mãnh liệt và bạn sẽ trở nên bạo tàn và “khát máu”, bạn sẽ hả hê khi giết được nhiều kẻ địch…thì chúng tôi cũng thế, chúng tôi được huấn luyện để trở nên khát máu và hả hê trong tất cả mọi trò bẩn thỉu…và nếu điều tồi tệ lập được đi lập lại nhiều lần hàng ngày thì cũng trở thành thói quen và trở nên rất bình thường mà thôi…huống chi đây là một loại công việc “có giá” hơn nhiều loại công việc khác…   Nói về trái tim: đúng là chúng tôi cũng biết nhục nhã, cũng biết xấu hổ bởi việc mình làm nhưng cảm giác đó qua nhanh lắm. Khi cái bụng bạn đói, cái nhu cầu hàng ngày nó đòi hỏi, nó réo rắt thì việc bạn xấu hổ với bản thân, với gia đình chẳng còn nghĩa lý gì cả. Bạn cứ thử so sánh mà xem: giữa một công việc vất vả, cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt và một công việc nhàn hạ, ngồi mát ăn bát vàng, thiên hạ chẳng biết mình là ai thì bạn sẽ chọn công việc nào? Do vậy bạn đừng ngạc nhiên vì sao đội ngũ DLV lại đông như kiến cỏ và sẵn sàng lăn xả bất chấp đạo đức, bởi thứ đạo đức chúng tôi được học là chúng tôi phải biết yêu công việc của mình, phải biết bảo vệ chế độ trước mọi thế lực thù địch và chúng tôi phải biết hân hoan vì chúng tôi chẳng khác gì cán bộ công chức nhà nước được trả lương đúng ngày đúng giờ hàng tháng cho công việc bảo vệ đất nước! Lâu lâu trong tâm can chúng tôi vẫn nhói lên tiếng nói của lương tri vì ít nhiều chúng tôi hiểu rất rõ những gì đang diễn ra, hiểu về chính trị, hiểu về cái sai cái đúng của chế độ nhưng hiểu là hiểu mà sống thì vẫn phải sống. Người ta đã cố tình tạo ra một xã hội mà nhu cầu sống bởi thực thể cao hơn như cầu sống bởi các giá trị của nhân cách thì đừng trách tại sao chúng tôi lại như thế. Hãy xem chúng tôi như một đám múa rối, chúng tôi múa may và được trả tiền để diễn trọn vai của mình… Bạn hỏi tôi ước gì ư? Tôi ước một ngày tôi có thể cởi bỏ vai diễn này, tôi trở lại với cuộc đời như mong muốn tận sâu bên trong trái tim tôi và bạn hỏi tôi có hối tiếc gì không? Có hối tiếc vì những điều mình đã làm? Tôi xin trả lời: TÔI HỐI TIẾC VÌ ĐÃ ĐƯỢC SINH RA DƯỚI CHẾ ĐỘ NÀY! Theo FB Loan Nguyenhttp://bolapquechoa.blogspot.com/2014/09/tam-su-cua-mot-du-luan-vien-dlv...
......

Nhà cầm quyền xóa sổ các cơ sở tôn giáo ra khỏi bán đảo Thủ Thiêm

HỘI ĐỒNG LIÊN TÔN VIỆT NAM Bản Lên Tiếng Mọi cơ sở tôn giáo có quyền hiện diện lâu dài tại đô thị mới Thủ Thiêm Hình các chức sắc Hội đồng Liên Tôn Việt Nam trong lần họp hồi tháng 4-2014 Theo kế hoạch của Nhà cầm quyền Việt Nam, bán đảo Thủ Thiêm, thuộc Quận 2, Tp. HCM, sẽ trở thành một đô thị mới với tám khu vực được quy hoạch chi tiết cho thương mại, dân cư, hành chánh, giải trí, giao thông, giáo dục... Nói chung là có tất cả những gì cần cho một đô thị hiện đại, nhưng lạ lùng thay, lại không hề có quy hoạch cho sự hiện diện của các tôn giáo (điện thờ, tu viện, cơ sở bác ái xã hội…). Tại đây, từ lâu đời đã có nhiều cơ sở của các Giáo hội như Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm (174 năm), Thánh đường Công giáo Thủ Thiêm (154 năm), Chùa Liên Trì của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (hơn 70); gần đây lại có thêm Nhà nguyện của Hội thánh Tin lành Việt Nam, Vườn cầu nguyện của Hội thánh Tin lành Mennonite… Tất cả đã phục vụ nhu cầu tôn giáo của nhân dân trong vùng cũng như đem lại nhiều phúc lợi tinh thần, tâm linh cho xã hội. Thậm chí những cơ sở lâu năm còn được công nhận đã có công khai phá ra vùng đất sống Thủ Thiêm.   Thế nhưng, khi bắt đầu vạch kế hoạch thực hiện khu đô thị mới này, nhà cầm quyền Việt Nam tại Tp. HCM đã di dời hơn 10 ngàn gia đình không đúng pháp luật (đã có 11 ngàn đơn khiếu nại), ngoài ra còn dự tính xóa sổ các cơ sở tôn giáo nói trên. Trong thực tế, Nhà nguyện của Hội thánh Tin lành Việt Nam, Vườn cầu nguyện của Hội thánh Tin lành Mennonite đã bị san bằng năm 2003 và năm 2010. Ba cơ sở còn lại cũng rất nhiều lần bị ép buộc di dời nhưng họ đã quyết liệt phản kháng. Động thái mới nhất của nhà cầm quyền là sẽ san bằng Chùa Liên Trì nội trong tháng 9 năm 2014 này nếu vị viện chủ không nhận tiền bồi thường. Nhà cầm quyền đưa ra lý do giải tỏa toàn bộ bán đảo Thủ Thiêm là vì lợi ích lâu dài của sự phát triển thành phố HCM. Nhưng nếu phát triển lâu dài mà lại không có sự hiện diện của tôn giáo thì nhu cầu tâm linh của dân cư sở tại và của những ai đến bán đảo này làm việc sẽ được đáp ứng ra sao và quyền tự do tôn giáo có ghi trong Hiến pháp sẽ được thực hiện thế nào? Hay chỉ là tiếp tục đẩy đô thị mới này và xã hội Việt Nam đến tình trạng suy thoái đạo đức toàn diện? Ngoài ra, phải chăng đó là vì tư lợi ích kỷ của các phe nhóm đang dòm ngó “vùng đất vàng” này? Có thể những người quyết định về Quy hoạch đô thị mới Thủ Thiêm này không cần tôn giáo, vì họ là cộng sản, chủ trương vô thần tranh đấu, nhưng nhân dân cư trú ở đây và đến đây làm việc trong tương lai không phải là những người vô thần. Những người dân, những người chủ đất nước cần phải có nơi để thực hành tôn giáo và sống đời sống tâm linh của họ, cũng như vùng đất đô thị Thủ Thiêm cần sự hiện diện của tôn giáo để có chiều sâu đạo đức và nhân bản. Ngoài ra niềm tin tôn giáo là một nhu cầu không thể thiếu trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.   Do đó, Hội đồng liên tôn Việt Nam: 1- Cực lực phản đối việc san bằng, xóa sổ nhiều cơ sở tôn giáo trước đây cũng như cưỡng ép giải tỏa các cơ sở tôn giáo còn lại tại bán đảo Thủ Thiêm hiện thời. 2- Mạnh mẽ yêu cầu nhà cầm quyền phải điều chỉnh lại quy hoạch để chắc chắn bảo tồn hoàn toàn cơ sở và đất đai hiện có của Chùa Liên Trì, Thánh đường và Tu viện Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, cũng như trả lại cơ sở cho hai Hội thánh Tin lành đã bị giải tỏa.   3- Cương quyết khẳng định các cơ sở tôn giáo từng có mặt hay còn có mặt tại Thủ Thiêm là thành phần không bao giờ được loại ra khỏi đó vì sự hiện diện lâu đời và vì ích lợi mà các cơ sở này đã và đang đóng góp cho xã hội và cho con người.   4- Thẳng thắn tuyên bố rằng việc cố tình giải tỏa mọi cơ sở tôn giáo ra khỏi bán đảo Thủ Thiêm là bằng chứng xác nhận Nhà cầm quyền Việt Nam đang vi phạm Hiến pháp về quyền tự do tôn giáo, đang cản trở nhu cầu tôn giáo của nhân dân, đang đi ngược lại xu hướng phát triển của nhân loại, tạo nguy cơ đưa đô thị mới này và cả nước đến tình trạng suy đồi đạo đức thêm nữa. 5- Cuối cùng, chúng tôi cũng yêu cầu nhà cầm quyền địa phương giải quyết thỏa đáng mọi đơn khiếu nại về nhà đất của các cựu cư dân Thủ Thiêm. Làm tại Việt Nam, ngày 15 tháng 9 năm 2014 Các Chức sắc Hội đồng Liên tôn Việt Nam ký tên:   Công giáo: - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi (đt: 0984.236.371) - Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại (đt: 0935.569.205) - Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh (đt: 0993.598.820) Phật Giáo: - Hòa thượng Thích Không Tánh (đt: 0165.6789.881) - Thượng toạ Thích Viên Hỷ (đt: 0937.777.312) Tin Lành - Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa (đt: 0121.9460.045) - Mục sư Đinh Uỷ (đt: 0163.5847.464) - Mục sư Đinh Thanh Trường (đt: 0120.2352.348) - Mục sư Nguyễn Hồng Quang (đt: 0978.207.007) - Mục sư Phạm Ngọc Thạch (đt: 0912.000.709) - Mục sư Nguyễn Trung Tôn (đt: 0906.342.908) - Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng (đt: 0906.342.908) - Mục sư Lê Quang Du (đt: 0121.2002.001) Cao Đài: - Chánh trị sự Hứa Phi (đt: 0163.3273.240) - Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (đt: 0988.971.117) - Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (đt: 0988.477.719) Phật giáo Hoà Hảo: - Hội trưởng Lê Quang Liêm (đt: 0199.2432.593) - Ông Phan Tấn Hòa (đt: 0162.6301.082) - Ông Tống Văn Chính (đt: 0163.5745.430) - Ông Lê Văn Sóc (đt: 096.4199.039) * Thư kêu gọi ký tên Ủng hộ Bản Lên Tiếng của Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam Về Việc Nhà Cầm Quyền CSVN Triệt Hạ Các Cơ Sở Tôn Giáo tại Thủ Thiêm Ngày 15 tháng 9 năm 2014   Kính gửi:                    - Quý Đại Diện Các Tổ Chức, Cộng Đồng, Chính Đảng và Truyền Thông,             - Quý Đồng Bào Việt Nam Trong và Ngoài Nước Kính thưa Quý Vị, Ngày 18/08/2014, nhà cầm quyền phường An Khánh, Quận 2, thành phố Sài Gòn đã gởi văn bản đến Hòa thượng Thích Không Tánh, Trụ trì Chùa Liên Trì cho biết là Chùa Liên Trì sẽ bị giải tỏa. Lệnh cưỡng chế, giải tỏa sẽ bắt đầu ngày 8/9 kéo dài đến 30/9/2014. Ngoài Chùa Liên Trì, nhiều cơ sở tôn giáo khác cũng đang bị đe dọa giải tỏa như Giáo xứ Công giáo Thủ Thiêm và Tu viện Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, hay các cơ sở đã bị giải tỏa trước đây như Nhà nguyện của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam và Vườn cầu nguyện của Hội Thánh Tin Lành Mennonite. Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam đã lên tiếng và tranh đấu, không để cho nhà cầm quyền Thành Phố Sài Gòn cướp đi các cơ sở tôn giáo đủ dạng đã hiện diện lâu đời tại Thủ Thiêm vì lợi ích cho xã hội và con người. Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam mong mỏi quý đồng bào trong và ngoài nước, quý đoàn thể, chính đảng, cộng đồng khắp nơi tích cực góp phần bảo vệ các sơ sở tôn giáo tại Thủ Thiêm bằng cách ký tên ủng hộ Bản Lên Tiếng của Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam. Trân trọng kính chào quý vị.   Điều phối viên Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam Linh mục Đinh Hữu Thoại Địa chỉ nơi ký tên ủng hộ:https://www.change.org/p/h%C3%A3y-c%C3%B9ng-l%C3%AAn-ti%E1%BA%BFng-%E1%B...
......

Chuyện Lăng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh (HCM) chết ngày 2-9-1969.   Ngày 2-9 là quốc khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên Bộ chính trị đảng Lao Động (BCTĐLĐ), sợ xui xẻo, cho đổi ngày chết của HCM là 3-9-1969.  Di chúc chót (thứ ba) của HCM bị Lê Duẫn, bí thư thứ nhất đảng LĐ, sửa đổi rồi mới cho công bố, đề ngày 10-5-1969. (Toàn văn các bản di chúc của HCM được Nxb. Thanh Niên, TpHCM ấn hành năm 1990.) Bản di chúc do Lê Duẫn sửa đổi, hoàn toàn không đề cập đến việc chôn cất HCM.  Trong bản di chúc đầu tiên do HCM đánh máy và ký tên ngày 15-5-1965, có chữ ký "chứng kiến"[nv] của Lê Duẫn, HCM viết: "Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là "hỏa táng"... Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn.  Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt... thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam…" (Hồ Chí Minh, Toàn văn di chúc, Nxb. Thanh Niên, TpHCM, tt 13-16.)  Hồ Chí Minh sửa đổi đôi chút về việc chôn tro cốt trong bản di chúc thứ hai viết năm 1968, theo đó "Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành.  Một hộp cho miền Bắc.  Một hộp cho miền Trung.  Một hộp cho miền Nam.  Đồng bào mỗi miền nên chọn 1 quả đồi mà chôn hộp tro đó... " (HCM, sđd. tr. 26-29.)  Dầu tỏ ra khiêm nhượng, nhưng cho đến khi gần chết, HCM vẫn còn tham vọng muốn dân chúng chiêm ngưỡng ông rộng rãi khắp nước sau khi chết.  Gần ba tháng sau khi HCM chết, trong cuộc họp ngày 29-11-1969, BCTĐLĐ quyết định ướp xác HCM và xây dựng mộ phần HCM mà CS gọi là lăng.  (Bài nầy gọi mộ HCM là lăng theo tên gọi chung.)  Nếu để đến ba tháng mới ướp xác thì cái xác HCM đã bị sình thối, nên chắc chắn việc ướp xác đã được BCTĐLĐ cho thi hành ngay sau khi HCM chết.  Một chuyên viên Liên Xô đã bí mật đến Hà Nội vào năm 1968 để cố vấn tiến trình ướp xác HCM.  Tháng 3-1969, một toán chuyên viên Bắc Việt được gởi qua Moscow tham khảo thêm.  Khi HCM chết ngày 2-9-1969, Bắc Việt lúng túng, phải giữ xác HCM trong hầm nước đá, và vào giữa tháng đó, một chuyên viên thứ hai của Liên Xô được gởi sang Hà Nội để lo ướp xác HCM.  (William J. Duiker, Ho Chi Minh, Nxb. Hyperion, New York, 2000, tr. 565, và phần chú thích số 3 tr. 669.)  Vậy tất cả mọi việc đều đã được chuẩn bị ngay cả trước khi HCM qua đời, và ngày 29-11-1969 chỉ là ngày BCTĐLĐ công khai hóa vấn đề ướp xác, xây lăng mà thôi. Cộng sản vốn chủ trương duy vật vô thần, chống lại các tín ngưỡng, tiêu diệt các tôn giáo, triệt hạ các đền đài, chùa chiền và nhà thờ, tại sao đảng LĐ lại đi ngược lại di chúc HCM, ướp xác xây lăng HCM để mọi người chiêm bái?  Trước khi chết, HCM đã viết trong di chúc: "...Vì vậy tôi để sẵn mấy lời nầy, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin và các vị c. m. đàn anh khác..." Khi chết, HCM không đi thăm ông bà cha mẹ, mà đi thăm người nước ngoài chưa một lần gặp mặt.  Dầu sao, điều nầy còn có nghĩa là trước khi chết, HCM tin tưởng rằng linh hồn con người còn hiện hữu sau khi qua đời, và cũng có nghĩa là HCM phản bác lại chủ nghĩa duy vật, quay về với tín ngưỡng linh hồn cổ xưa của người Việt.  Về phía BCTĐLĐ, chắc chắn không phải vì tin vào sự hiện hữu của linh hồn, mà BCTĐLĐ quyết định xây lăng cho HCM.  Ý đồ của  đảng LĐ được dân chúng phỏng đoán khi đảng LĐ xây lăng HCM là:  1) Vinh danh sự thừa kế. 2)  Sùng bái cá nhân. 3)  Duy trì chế độ độc tài. 4) Bất tử hóa đảng LĐ. Một uỷ ban xây dựng lăng HCM được thành lập, gồm đại diện Bộ Xây dựng và Bộ Quốc phòng do Đỗ Mười, lúc đó là Uỷ viên Trung ương đảng, làm chủ tịch.  Uỷ ban nầy nghiên cứu nhiều kiểu mẫu kiến trúc lưu niệm như Kim tự tháp Ai cập, Đền Victor Emmanuel ở Rome, Đài tưởng niệm Lincoln ở Washington D.C. và lăng Lenin ở Moscow.  Những dự án kiến trúc đề nghị được BCTĐLĐ đưa ra trưng bày trên toàn quốc để hỏi ý kiến công chúng.  (Tại sao những vấn đề chính trị quan trọng không hỏi ý kiến dân chúng mà chỉ hỏi mẩu mộ HCM?)  Tháng 12-1971, BCTĐLĐ quyết định lần chót đồ án xây cất.  Công cuộc xây lăng bắt đầu một thời gian ngắn sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27-1-1973). (William J. Duiker, sđd. tt. 565-566.)  Lúc đó, Bắc Việt không còn sợ bị Mỹ ném bom.   Quần thể lăng HCM Lăng HCM được xây dựng tại khu vực Quảng trường Ba Đình, gần vườn Bách thảo, phía trước Phủ Chủ tịch chính phủ VNDCCH.  Đồ án lăng HCM được BCTĐLĐ chọn lựa do người Liên Xô vẽ kiểu, đứng  cao lên giữa Hà Nội, được giải thích là hình ảnh một đóa hoa sen nhô cao lên mặt nước, theo kiểu dáng một ngôi chùa gần đó, chùa Một Cột, được xây dựng vào thế kỷ 11.  Thật ra, ai cũng thấy lăng HCM giống như lăng Lenin ở Công trường Đỏ tại Moscow.  Liên Xô cử người sang làm tổng công trình sư, điều khiển tiến trình thiết kế thi công, và chỉ để cho phía Bắc Việt cung cấp nhân công và vật liệu mà thôi.  Công trình xây cất kéo dài hơn 2 năm, tập trung tất cả những vật liệu quý hiếm khắp nơi trong nước, như gỗ quý từ lâm viên Quốc gia Cúc Phương, những vật liệu quý hiếm ở các tỉnh miền Nam như đá cẩm thạch Non Nước, Đà Nẵng, và đặc biệt sử dụng cả những khối đá lớn mua từ Crimée, tây nam Liên Xô.  Lăng HCM được khánh thành ngày 29-8-1975, mở đầu tuần lễ mừng chiến thắng miền Nam sau khi CS Bắc Việt tràn quân cưỡng chiếm miền Nam tháng 4-1975, mừng quốc khánh của CS (2-9) và kỷ niệm ngày chết của HCM theo chủ trương lúc đó là 3-9.  Đây là tòa nhà công cộng duy nhứt lúc đó ở Bắc Việt được điều hòa không khí, đứng sừng sững đơn độc cao ngất trước và trên Phủ chủ tịch, ngự trị một cách oai vệ vùng trung tâm thành phố Hà Nội.  Lăng HCM là công trình xây cất duy nhứt ở Hà Nội trong suốt hơn 20 năm cầm quyền của đảng LĐ ở Bắc Việt từ năm 1954.  Từ năm 1954 đến 1975, toàn bộ thành phố, đường sá, nhà cửa, kể cả nhà cửa tư nhân ở Hà Nội đều vẫn như cũ.  Không xây nhà cho dân chúng hoặc công trình tiện ích xã hội, mà đảng LĐ lại tập trung tài vật toàn quốc xây một nhà mồ ướp xác như các hoàng đế Ai Cập cổ xưa xây Kim tự tháp.  Điều nầy cho thấy quan niệm của CS chỉ là "Trung với đảng, hiếu với lãnh tụ". Trước khi ra mắt công chúng, đảng LĐ ra lệnh cho toàn thể các tỉnh thành khắp nước gởi về các loại cây cối, bông hoa quý hiếm trồng chung quanh lăng để tạo phong cảnh thiên nhiên Việt Nam.  Lăng HCM, ngay khi mới khánh thành, đã bị nhiều người lúc đó phê bình về nhiều điểm: Trước hết, người ta nói rằng đảng LĐ (nay là đảng Cộng Sản) đã vi phạm di chúc của HCM.  HCM muốn thiêu xác sau khi chết, chứ không phải ướp xác trưng bày trong lăng.  Mô hình lăng có tính cách ngoại lai theo kiểu vua chúa ở Âu châu chứ không mang những đặc tính Việt Nam.  Điều nầy không lấy gì làm lạ vì người Liên Xô vẽ kiểu theo mẫu lăng Lenin ở Công trường Đỏ tại Moscow, Liên Xô.  Đương nhiên, người Liên Xô muốn chứng tỏ ưu thế chính trị và văn hóa của họ ở Bắc Việt nên đã xây lăng HCM theo mô thức lăng Lenin ở Moscow.  Ngay từ đầu, đảng LĐ  gọi ngôi mộ của HCM là “lăng”.  Trong tiếng Việt, "lăng, hay lăng miếu, lăng mộ, lăng tẩm" là những từ ngữ để gọi ngôi mộ của vua chúa hay các đại quan thời quân chủ (ví dụ lăng Gia Long, lăng Ông tức lăng Lê Văn Duyệt...), trong khi chế độ CS luôn luôn tự cho là dân chủ, hô hào chống lại nền quân chủ phong kiến.  Đảng LĐ xây lăng HCM quá đồ sộ trong lúc dân tình đói khổ, nhà cửa cũ kỹ xơ xác, nghèo khổ.   Sự tương phản lớn lao nầy ngay tại thủ đô Hà Nội tạo ra một hình ảnh xã hội cách biệt sâu rộng giữa người cầm quyền và dân chúng dưới chế độ CS.  Nhà cầm quyền CS lại còn bắt dân chúng cung phụng những gì quý hiếm ở các địa phương, đưa về trang trí lăng HCM, không khác gì các vua chúa ngày xưa đòi các địa phương phải hiến dâng phẩm vật tiến triều. Sau khi lăng HCM xây xong, việc tổ chức và duy trì lực lượng quân sự để bảo vệ lăng HCM hao tốn một ngân quỹ nhà nước hằng năm hết sức lớn lao từ 1969 cho đến nay.  Báo chí hải ngoại ước tính trung bình mỗi năm việc bảo trì xác ướp và bảo vệ lăng HCM tốn kém trên một trăm ngàn Mỹ kim, nhưng theo một đảng viên trong nước tiết lộ, thì số tốn phí mỗi năm cao hơn rất nhiều.  Các chi phí gồm có:  Quân đội bảo vệ lăng, đứng đầu là một sĩ quan cấp tướng, với ít nhất hai tiểu đoàn chính quy, và không biết bao nhiêu cảnh sát vừa nổi vừa chìm đứng gác.  Tiền lương cho ông tướng, bộ tham mưu và hai tiểu đoàn cùng đám cảnh sát mỗi tháng đã khá cao.  Sinh hoạt của lăng nầy tiêu thụ một lượng điện và nước tiêu dùng bằng một quận lớn ở thành phố, trong khi lúc đó dân chúng thiếu thốn điện nước trong sinh hoạt hằng ngày.  Để quảng cáo cho lăng HCM, nhà nước CS ra lệnh các trường học và các địa phương phải tổ chức những cuộc đi thăm lăng "bác".  Có khi ít người thăm viếng lăng nầy, ban Bảo vệ lăng có sáng kiến tặng quà, kể cả thức ăn, cho những ai chịu khó sắp hàng vào thăm lăng.  Tưởng cũng nên thêm ở đây, khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, ở Hà Nội việc duy trì xác ướp HCM gặp khó khăn cả về kỹ thuật lẫn tài chánh.  Hiện nay, tại Hà Nội, dư luận đồn rằng việc bảo trì không được tốt, nên xác HCM đã bị hư thối, và dư luận cũng cho rằng cái xác trong lồng kính hiện đặt ở Ba Đình chỉ là hình nộm bằng sáp hóa học mà thôi. (Robert Templer, sđd. tr. 43.) Nhắm mục đích vinh danh sự thừa kế, sùng bái cá nhân và duy trì chế độ độc tài đảng trị, BCTĐLĐ đã phản lại di chúc HCM, quyết định xây lăng HCM bất kể tốn kém và xem lăng nầy là một quốc bảo.  Các khách quý nước ngoài đến Việt Nam đều được mời thăm lăng HCM.  Hai quốc gia có nhiều liên hệ văn hóa, lịch sử, chính trị với Việt Nam trong giai đoạn cận và hiện đại là Pháp và Hoa Kỳ, nhưng tổng thống hai nước nầy khi đến Hà Nội đều không vào thăm lăng HCM. Tổng thống Pháp, François Mitterand, đến Việt Nam từ ngày 23 đến ngày 27-6-1993, và tổng thống Hoa Kỳ, Bill Clinton, đến Việt Nam từ 16 đến 18-11-2000, đều không vào lăng viếng HCM. Trong khi đó, cả hai ông đều vào thăm Văn Miếu Hà Nội, nơi tụ khí anh linh văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam do vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054-1072) lập ra năm 1070 (canh tuất). Nghe nói lãnh đạo đảng CSVN hiện nay đang tìm cách “hạ cánh an toàn”. Người thì làm sui với Việt Kiều, người qua Mỹ trị bệnh, người gởi tiền qua các ngân hàng Tây Phương (Không ai dại gởi tiền qua ngân hàng Trung Cộng hay Nga cả.). Thế thì đã đến lúc cũng nên cho HCM “hạ cánh an toàn”, hỏa thiêu và đem chôn HCM theo ý muốn của HCM.  Làm như thế, đảng CSVN vừa làm gương trước dân chúng, học tập và thi hành đúng di chúc HCM, vừa tiết kiệm ngân sách bảo vệ lăng vốn do tiền thuế của dân đài thọ, vừa dành cho kẻ chết chỗ yên nghỉ cuối cùng theo ý muốn.  Trong dịp Tết vừa qua, ngày 3-2-2014, có bốn người vác búa dự tính đập phá lăng HCM, có lẽ nhằm tiêu hủy xác chết HCM.  Cả bốn người đều bị bắt và bị kêu án tổng cộng là 19 năm tù.  Nếu bốn người thành công, có lẽ HCM đã bị bêu đầu. Thật ra, không nên đập phá lăng nầy vì lăng là tài sản của toàn dân. Chắc chắn một ngày gần đây sẽ có sự thay đổi chế độ, vì không một chế độ độc tài nào trường tồn trên cõi đời nầy, thì lúc đó sẽ không biết số phận xác chết HCM như thế nào, vì không ai cản nỗi tâm lý đám đông nổi giận, và cũng không ai công đâu mà lo chôn cất một cái xác thối nát. Chỉ riêng cái lăng đồ sộ nầy sẽ là nơi thích hợp nhứt để làm trung tâm triển lãm tội ác HCM và tội ác đảng CSVN. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 01-09-2014)
......

CCRĐ – Tội ác vượt chỉ tiêu trên giao

Hiện nay, nhà nước cộng sản Việt Nam đang cho mở triển lãm về cải cách ruộng đất (1947-1957) nhằm tuyên truyền sai sự thật về cuộc cải cách vô cùng àn bạo này, khoác lên mình toàn máu của nó những đóa hoa của nhân bản và thắng lợi; rằng cải cách đã chia ruộng cho dân nghèo. Để hai năm sau, năm 1958, phong trào hợp tác hóa sản xuất nông nghiệp đã cướp hết ruộng đất , trâu bò, cày cuốc …của nông dân nghèo vừa được chia ruộng, gom vào trong tay một tên đại địa chủ khét tiếng khác có tên là nhà nước. Riêng việc ông Hồ Chí Minh đã ký quyết định đấu tố và xử bắn bà địa chủ yêu nước, tham gia kháng chiến , có công lớn với dân tộc đất nước là bà Cát Hanh Long ( tức bà Nguyễn Thị Năm) đã nói lên bản chất phi nghĩa của cuộc cải cách ruộng đất. Thử tưởng tượng nếu không có sự đóng gióp vô cùng to lớn của hàng chục vạn địa chủ trong kháng chiến chống Pháp thì thử hỏi Việt Minh của ông Hồ Chí Minh lấy đâu ra thóc gạo để nuôi ngót một triệu bộ đội cùng dân quân và bộ máy khổng lồ chỉ đạo cuộc kháng chiến ? Thế mà, thay vì trả công cho tầng lớp địa chủ kháng chiến yêu nước này, các ông lại ký lệnh bắt nhốt hàng vạn địa chủ yêu nước lại, rồi đấu tố họ tàn bạo và bắn giết họ không thương tiếc mà còn dám huênh hoang khoe khoang rằng cải cách ruộng đất tốt đẹp lắm thì còn giời đất gì nữa ? Quê tôi làng Bình Hải, năm ấy có tên là xã Thúc Kháng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định được trên ưu ái cho long trời lở đất làm cuộc cải cách ruộng đất vào đông xuân 1956-1957 khi tôi đã 10 tuổi; nên tôi đã là chứng nhân, là một thành viên trong cuộc cải cách đầy máu và nước mắt này. Như có lần tôi đã kể, tôi có hai ông nội. Một ông nội nuôi bố tôi từ thơ bé, theo đạo Thiên Chúa, đã dựng vợ gả chồng cho bố tôi, rồi năm 1954 di cư vào Nam nên ông nội họ Trần của tôi và các cô chú tôi thoát khỏi tai nạn cải cách ruộng đất. Ông nội sinh ra bố tôi họ Phạm, theo đạo Phật, gia đình nuôi cán bộ trong kháng chiến nên không bị quy lên địa chủ, chỉ phải nhục nhã kiểm thảo trước nhân dân vì tội có học, biết chữ Hán và chữ quốc ngữ, nhà có nhiều sách, để cho ông em ruột có chữ, được vua ban cho chức quan thấp nhất là cửu phẩm. Chính ra ông nội họ Phạm của tôi đã bị xử bắn vì bị quy lên hàng trí thức, nhưng vì có quý nhân là quan lớn cải cách che đỡ nên cho thôi. Chỉ có một ông em ruột, em út của ông nội họ Phạm của tôi là cụ sư Niên ( Phạm Văn Niên) là sư cụ trụ trì một ngôi chùa to trong huyện bị quy lên địa chủ và bị đội cải cách lệnh cho phá chùa. Trước ngày bị đấu tố, biết chắc chắn sẽ bị chúng xử bắn, cụ sư Niên đã treo cổ chết phản đối chính quyền đã vu oan giá họa cho sư cụ nhằm phá chùa. Bố tôi bị quy lên địa chủ, bị trói nhốt chuồng trâu chờ ngày đấu tố. Tôi đã chứng kiến Tậy đi càn quét nhưng không khí làng tôi những ngày cải cách đấu tố bắn bỏ địa chủ còn kinh khủng hơn nhiều đầu năm 1954 quân Pháp càn quét tìm Việt Minh. Cùng với các ông đội bà đội trên cử xuống, hai ông Chi và Bính ( hai anh em ruột) trước kia làm nghề ăn trộm giờ là cốt cán trong cuộc đấu tố, đêm đêm đi vận động người tố điêu địa chủ : rằng vợ phải đấu tố chồng, con phải đấu tố cha mẹ, anh em phải đấu tố nhau, con dâu phải tố bố chồng hãm hiếp mình, phật tử nữ phải đấu tố nhà sư, vu cho sư cưỡng hiếp mình thì mới dễ xử bắn sư… Bọn thiếu nhi thiếu niên chúng tôi con địa chủ cũng được hai ông Chi, Bính quán triệt trước, rằng các cháu chịu khó đấu tố bố mình đi thì bố mới được thả về, bằng không đội bắn bỏ đừng khóc…Tin vào hai ông thần đấu tố ở làng và các ông bà đội, mấy đứa con địa chủ chúng tôi chấp nhận đấu tố bố mình trước đội thiêu nhi thiếu niên theo kịch bản tố điêu của cấp trên để hòng cứu bố khỏi bị bắn. Để việc đấu tố bố tôi sáng mai tốt đẹp theo ý ông đội, họ tổ chức cho các con địa chủ đấu tố bố mình tối hôm trước. Đến lượt mình, tôi run bắn ấp úng thưa : - Kính thưa các bác đội, con xin đấu tố bố con là bố Hiền ạ ! Ông đội hét : Không được gọi bố, vì nó là giai cấp bóc lột, em phải gọi nó bằng thằng ! Tôi run run lí nhí : - Dạ em đấu tố thằng bố em ạ ! - Không, nó không còn là bố em nữa, em là con của đảng, nó là thằng đối kháng giai cấp, đã đảo tên địa chủ Hiền… Tất cả bọn thếu nhi hô to đả đảo làm tôi mất hết tinh thần, run lên như chính mình sắp bị xử bắn. Tôi bèn kể lể dông dài một cách điêu toa là thằng địa chủ Hiền kia đã bóc lột con gà nhà bà Lộng, bóc lột con chó nhà bà Y, bóc lột gạo thóc ngoài ruộng nhà bần cố nông…Ông đội chỉ đạo cuộc đấu tố thí nghiệm hét lên : - Tội nó ác hơn nhiều, em không đấu tố nó thì nó sẽ bị xử bắn. Tôi hết hồn, điên lên hét thật to : - Thằng địa chủ Hiền gian ác đã giết cả làng ta, đả đảo ! Trong tiếng hô đả đảo vang trời của bọn thiếu niên thiếu nhi con cái các ông bà nông dân, thì ông đội tát cái bốp vào mặt tôi, khiến tôi ngã dúi, vừa tát ông vừa hét : - Thôi, câm ngay, đấu tố, chửi bố mình vượt chỉ tiêu trên giao ! Nghĩa là tôi đấu tố bố mình điêu hơn, ngoa hơn cả bài tố điêu tố gian của toàn đảng toàn dân ta đang long trời lở đất, kinh quá ! Lấy ý của ông đội cái cách tát bốp vào mặt tôi như vừa kể trên trong ngày giáp tết năm 1956-1957 ấy, tôi xin kết luận rằng : TỘI ÁC MÀ CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT từ năm 1947-1957 xảy ra ở Việt Nam do cấp trên Stalin, Mao Trạch Đông giao cho những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã vượt chỉ tiêu trên giao.,. Sài Gòn ngày 12-9-2014 T.M.H
......

Đại sứ quán Hoa Kỳ gặp dân oan Dương Nội

Đại sứ quán Hoa Kỳ gặp gỡ với dân oan Dương Nội, và hứa tham dự phiên tòa ngày 19/9 Theo nguồn tin từ Trịnh Bá Phương, hôm nay ngày 12/9/2014 người dân oan Dương Nội đã có cơ hội gặp gỡ với các đại diện của Đại sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội. Trong cuộc gặp mặt, Đại sứ Quán Hoa Kỳ đã chia sẻ và bày tỏ sự quan tâm đến quyền con người của những người dân Dương Nội đang bị chính quyền bắt giữ trái phép, và cũng như của toàn thể bà con dân oan Dương Nội. Đại sứ Quán Hoa Kỳ cũng đã chấp nhận lời mời tham dự phiên toà xét xử vào ngày 19/9/2014. Đây là phiên tòa dành cho chị Cấn Thị Thêu, người bị bắt giữ ngày 25/04/2014 và truy tố với tội danh "Chống người thi hành công vụ" khi đang phản đối lực lượng cưỡng chế mà bà con Dương Nội cho là trái pháp luật.   CA cướp đất, đánh người tàn bạo ở Dương Nội 25/04/2014   Video quay lại cảnh lực lượng cưỡng chế tấn công dã man chị Cấn Thị Thêu, đánh chị bất tỉnh và bắt giữ chị ngày 25/4/2014. Nguồn: Gió Lang Thang.   Người dân Dương Nội cũng kêu gọi tất cả cộng đồng công dân trong và ngoài nước, những người yêu công lý, yêu sự thật, các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước, các nhân sỹ trí thức, bà con dân oan trong cả nước, các tổ chức nhân quyền quốc tế hãy hướng về phiên toà ngày 19/9/2014, đây là động lực duy nhất để đảm bảo công lý cho chị Cấn Thị Thêu và bà con Dương Nội.   Phiên tòa sẽ diễn ra lúc 8h sáng tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hà Đông, số 2 Nguyễn Trãi, Hà Đông, Hà Nội. Hai luật sư bào chữa cho chị Cấn Thị Thêu là ông Trần Thu Nam và bà Nguyễn Thị Huệ: Sáng ngày hôm qua tại Trụ sở tiếp công dân của Trung Ương Đảng và Nhà Nước, bảy công dân Dương Nội (thành viên đoàn bà Dương Thị Khuê đại diện) đã xuất hiện với trang phục áo đỏ quen thuộc cùng tấm băng-rôn đen trắng treo ở người, họ tự trói mình lại và khóa vào nhau làm thành một khối đứng giữa trời nắng để phản đối việc chính quyền các cấp được sự bao che của Thanh tra Chính Phủ, Quốc Hội, Thủ tướng để tiếp tục tái cướp đất và tàn phá hoa màu của họ vào ngày 15/09 tới. Đến gần 12 giờ, tất cả đưa nhau sang công an Quận Hà Đông để yêu cầu được gặp Trưởng công an Quận để xin được đi tù cho đỡ phải chứng kiến sự việc ngày 15/09 tới.   Họ sợ rằng khi chính quyền và doanh nghiệp (tập đoàn Nam Cường) với sự bảo kê của lực lượng Công An đến để đàn áp thì họ sẽ không kiềm chế nổi bức xúc, có thể gây ra án mạng thì lại phải đi tù như anh Đoàn Văn Vươn. Thế nên chọn giải pháp xin đi tù trước cho nhẹ tội nhưng không gặp được ông Dũng (Trưởng CA Quận). Nguồn: Dân Luận
......

Tập đánh hổ con để diệt hổ mẹ

Chiến thuật lâu năm của Mao Trạch Đông - chặt đứt các rễ phụ trước khi tấn công các cây cổ thụ trong chính trường - nay lại đang được Tập Cận Bình áp dụng, với tên mới: Đánh Hổ Diệt Ruồi, hay Đánh Hổ Con Để Diệt Hổ Mẹ. Ai cũng biết Hổ Mẹ hiện nay chính là cựu Chủ Tịch Giang Trạch Dân.  Chu Vĩnh Khang   Mặc dù tuổi già sức yếu và còn mắc thêm chứng bịnh ung thư bàng quang nhưng ông Giang Trạch Dân vẫn thường hay tham dự các buổi họp nội bộ của nhóm quyền lực chính trị Thượng Hải. Nhóm này đã thua cuộc trong việc cứu Bạc Hy Lai và tướng Từ Tài Hậu, nay họ đang ráo riết tìm cách cứu vãn cho ông Chu Vĩnh Khang vì đã tiến đến quá gần Giang Trạch Dân. Và một khi họ Giang bị triệt hạ thì toàn nhóm Thượng Hải gần như đương nhiên sẽ bật gốc, bị tù tội, và có thể có cả án tử hình. Hiện nay, ông Chu Vĩnh Khang, có thời nắm tất cả công an, mật vụ, và tòa án trên toàn quốc, đang bị ông Tập Cận Bình và phe Thái Tử Đảng ra tay thanh trừng nhân danh bài trừ tham nhũng. Theo giới quan sát quốc tế thì khó mà chối tội tham nhũng của ông Chu Vĩnh Khang. Đây là điều khá hiển nhiên so với mức lương cán bộ và lý lịch suốt đời phục vụ đảng của ông. Tuy nhiên, ông Chu không phải là người duy nhất ở thượng tầng đảng CSTQ có khối tài sản lớn mức đó. Công luận quốc tế và Trung Quốc đều đương nhiên tin rằng tất cả mọi thành viên Bộ Chính Trị đảng CSTQ, kể cả những kẻ đang kết tội ông Chu, đều có số gia sản (không thể giải thích xuất xứ) ở mức bằng hoặc lớn hơn ông ta. Chính vì vậy, ông Giang Trạch Dân cho đến nay không cần chứng minh đàn em của mình trong sạch (mà có chứng minh cũng chẳng ích gì vì phe ông Tập Cận Bình nắm mọi khâu từ điều tra, truy tố, đến xử án, và thi hành án). Ông Giang Trạch Dân, qua các đường dây gián tiếp, chỉ nhắc khéo ông Tập rằng bất kỳ ai đã từng là Ủy viên Bộ Chính trị đều được miễn truy tố về tội hình sự. Đó là một quy luật bất thành văn từ thời ông Đặng Tiểu Bình. Lời nhắc này cũng là câu cảnh cáo: nếu đem ra xử ông Chu tức là ông Tập đã phá vỡ tiền lệ này và chính ông Tập sẽ bị đem ra xử như vậy khi bước xuống khỏi ghế quyền lực. Có lẽ nghĩ rằng ngày đó còn xa nên ông Tập không có vẻ nao núng gì trước lời cảnh cáo của ông Giang mà còn đang tung ra các đòn mới nhanh hơn và mạnh hơn, như tịch thu hàng loạt hộ chiếu của các quan chức lớn. Ngoài việc tịch thu gấp rút hộ chiếu của các đại cán trong nước, những cán bộ đang đi công tác ở nước ngoài cũng đã được yêu cầu nộp ngay hộ chiếu khi về nước. Danh sách các cán bộ có vợ, chồng, con cái định cư ở nước ngoài đã được chính thức thiết lập ở từng cơ quan. Nhân viên trong mọi ban ngành chính phủ cũng đã được chỉ thị theo dõi lẫn nhau và phải báo cáo nếu thấy chỉ dấu đáng nghi ngờ có người muốn chạy ra nước ngoài. Để biện minh cho biện pháp mới này, hàng loạt các cơ quan nhà nước cấp trung ương và cấp tỉnh tung ra đủ loại thống kê về con số về cán bộ trốn ra nước ngoài mang theo khối tiền lên đến nhiều tỉ mỹ kim hàng năm. Các con số từ những cơ quan trên nhiều khi mâu thuẫn lẫn nhau. Các cơ quan tại trung ương như Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao công bố con số cán bộ bỏ trốn trên cả nước ở mức dưới 1000 người mỗi năm, nhưng chỉ riêng tỉnh Quảng Đông (một trong những tỉnh làm ăn khấm khá nhất nước) lại công bố con số trên 2000 người mỗi năm. Tình trạng căng thẳng trong giới quan chức cao cấp đang ở mức rúng động. Một hiện tượng đáng chú ý là cả 2 phe đều tận dụng mạng Internet để tung ra những dữ kiện mà trước đây được xem là bí mật quốc gia, đặc biệt là tình trạng sức khỏe của các quan chức ở thượng tầng. Các tin tức rò rỉ này thường đi kèm với nhiều dữ kiện rất cụ thể và chi tiết khiến phe đối phương khó lòng phủ nhận được. Một dẫn chứng điển hình là gần đây phe cánh Thái Tử Đảng của ông Tập Cận Bình tung lên mạng Internet cho biết ông Giang đang suy thoái tinh thần trầm trọng phải nhập viện khẩn. Không ngừng ở đó, người đưa tin còn cho biết 2 lý do khiến ông Giang đột quị. Lý do thứ nhất là vì không cứu được Chu Vĩnh Khang sau 2 thất bại liên tiếp đối với Bạc Hy Lai và Từ Tài Hậu. Lý do thứ nhì lớn hơn nữa là vì người con đầu của ông ta, Giang Miên Hằng, đã bị đưa vào danh sách điều tra của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Đảng về tội tham nhũng. Bản tin nói thẳng luôn Ủy ban Kiểm tra dư biết ông Hằng đứng đầu các nhóm lợi ích ở Thượng Hải trong các lãnh vực béo bở bao gồm điện tín, điện thoại, sản xuất xe ôtô, và hàng không. Bản tin viết như lời kết luận của Ủy Ban rằng dù ông Giang Miên Hằng nắm bằng đó bộ máy làm ra tiền, ông ta vẫn liên kết với đại gia Chu Chính Nghị cướp đoạt đất đai của dân, vay tiền ngân hàng không trả… Hiện nay số tiền ông Giang Miên Hằng đang gởi tại các ngân hàng nước ngoài không dưới 3 tỷ mỹ kim. Và ông Hằng chỉ mới là một trong những người con, người cháu trong đại gia đình Giang Trạch Dân. Ông Giang Trạch Dân bủn rủn khi biết tin Ủy ban Quy luật Trung ương đảng đã giao hồ sơ tham nhũng của ông Giang Miên Hằng cho ông Vương Kì Sơn để điều tra. Ông Vương nổi tiếng trong vụ điều tra ông Chu Vĩnh Khang về tội tham nhũng và được ông Tập Cận Bình nhắc tên thường xuyên trong các buổi hội thảo cán bộ cấp cao. Khi nhận được hồ sơ tham nhũng của con trai ông Giang Trạch Dân, ông Vương tuyên bố rằng: "Khi đã điều tra, tôi không nương tay cho bất cứ ai". Một sự việc đáng kể khác là ông Tập Cận Bình gián tiếp cảnh cáo luôn cả cựu Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào để ông này không kéo về phe với Giang Trạch Dân. Ngày 03/09/2014, báo đài công cụ ở Hoa lục loan tin 1 trong 13 ủy viên của Tỉnh ủy Sơn Tây đã bị cách chức, 3 ủy viên khác đã bị bắt để điều tra về tội tham nhũng. Và đặc biệt nhấn mạnh cả 4 người này xuất thân từ đoàn Thanh niên Cộng sản mà lên. Đây là một dữ kiện chẳng liên hệ gì đến các tội trạng đang bị điều tra. Giới quan sát tin rằng việc đưa ra dữ kiện này là lời cảnh cáo cho ông Hồ Cẩm Đào, người mà dân chúng cả nước cũng như thế giới biết đã leo lên từ hệ thống Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Ông Hồ trong những năm nắm quyền cũng dành nhiều ưu đãi cho Đoàn và đưa nhiều cựu cán bộ Đoàn vào các vị trí hệ trọng trong Đảng. Trong khi đó, giới cộng đồng mạng chỉ ra Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Sơn Tây, ông Lý Tiểu Bằng, là một cán bộ khét tiếng tham nhũng, tệ hơn 4 người bị bắt rất nhiều, vẫn ung dung ngồi ghế cai trị. Lý do đơn giản là vì ông Lý thuộc cánh ông Tập Cận Bình. Đây là một trong những dẫn chứng lớn của các cư dân mạng khi đi đến kết luận: lý cớ "diệt tham nhũng" chỉ là vỏ bọc cho tham vọng thâu tóm toàn bộ quyền lực của phe ông Tập và loại bỏ hẳn 2 đối thủ lớn trong chính trường là ông Giang và ông Hồ. Tóm lại, ông Tập Cận Bình đang phá bỏ nhiều tiền lệ, nhiều giao ước bất thành văn giữa giới lãnh đạo Trung Quốc suốt từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Có người còn cho rằng ông Tập đã bắt đầu bước vào cơn xoáy có thể từng bước kéo Trung Quốc trở về tình trạng chính trị thời Mao Trạch Đông. Đó là sẵn sàng dùng biến động xã hội đến mức "long trời lở đất" để triệt hạ các đối thủ chính trị, bất kể các thiệt hại cực lớn và lâu dài cho đất nước. Cũng có nhà phân tích cho rằng ông Tập không có chọn lựa nào khác. Ông ta đang ở cùng hoàn cảnh như ông Gorbachev khi lên nhậm chức Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên Xô. Và có vẻ như Hoa Lục đang bước vào giai đoạn "Perestroika với đặc tính Trung Quốc"./.  
......

Cải Cách Ruộng Đất : Sự Thật vẫn bị che dấu !

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/09/20140911-ctm-...   Ngày 8/9/2014 tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia ở Hà Nội đã tổ chức cuộc triển lãm với 150 hình ảnh và các di vật về “Cải cách ruộng đất” trong khoảng thời gian từ 1946-1957.  Khác với cuộc triển lãm được tổ chức năm 1955 tại khu triển lãm Cát Linh với diện tích máy ngàn mét vuông, cuộc triển làm này chỉ trong không gian hẹp 250 mét vuông. Đây là sự kiện thu hút sự quan tâm của giới sử học và nhiều người dân… Chủ đề triển lãm tái hiện giai đoạn lịch sử mà Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng đã giúp “người cày có ruộng, xóa bỏ giai cấp bốc lột ở nông thôn”. Nhưng  trên thực tế họ đã phản bội giai cấp nông dân, lừa dối họ để huy động lưc lượng đóng góp rất lớn vào trường kỳ kháng  chiến chống thực dân  Pháp. Cảm nhận chung là cuộc triển lãm cải cách ruộng đất này là không trung thực. Sự thật của cuộc cải cách ruộng đất vẫn bị che dấu.   Từ Hà Nội, sau khi xem triển lãm, nhà báo tự do JB Nguyễn Hữu Vinh đã nói lên những cảm nhận của mình qua cuộc  phỏng vấn của phóng viên Trần Quang Thành. Nội dung như sau. Mời quí vị theo dõi : http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/09/20140911-ctm-...
......

Chọc Cải Cách ra mà ngửi

Nghe tin có cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất tại Hà Nội, tôi đã tìm đọc mấy bài tường thuật trên các báo trong nước và các mạng thông tin. Cảm tưởng chung: Đây chỉ là một trò tuyên truyền rất vụng về, mạo xưng là “lịch sử;” mà nó lại nhạt phèo, chẳng có gì mới mẻ đáng coi. Người ta trưng bày những sập gụ, tủ chè, bát đĩa dùng trong nhà địa chủ; bên cạnh cảnh sống bần hàn của những nông dân. Những người tổ chức cuộc triển lãm chắc hy vọng mọi người xem xong sẽ kết luận: Xã hội thời xưa thật lắm cảnh bất công. Nếu có bát công tức là có bóc lột, đó là cách suy nghĩ đơn giản, dễ khiến người ta tin.   Nhưng người biết suy nghĩ sẽ nhận ra điều này: Thời nay cũng nhiều cảnh bất công không khác gì 60 năm trước. Chỉ cần nhìn vào ngôi nhà của một ông Bí Thư Huỳnh Đức Hòa, tỉnh ủy Lâm Đồng, người ta cũng có thể thấy ông giàu có gấp ngàn lần các địa chủ thời 1946-1957. Trong khi đó thì bao nhiêu người lao động đang sống trong các ổ chuột ở thành phố vẫn chạy ăn từng bữa. Và cảnh sống của đồng bào nghèo tại các vùng nông thôn xa; nếu so sánh nhà cửa của họ với ngôi nhà tồi tàn của người nông dân nghèo khổ, của các bần cố nông thời cải cách ruộng đất, chắc cũng như nhau. Nếu khá hơn cũng chỉ hơn đến gấp đôi, gấp ba là cùng. Hố cách biệt giàu nghèo ngày nay tăng lên gấp trăm, gấp ngàn lần so với thời 1950! Nếu có bất công tức là có bóc lột, thì ngày nay ai bóc lột ai?   Do đó, cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất sẽ gây tác dụng ngược. Thay vì “gây căm thù” đối với các địa chủ ngày xưa, cuộc triển lãm sẽ khiến người đi coi nghĩ tới các đại địa chủ thời nay. Một điều hiển nhiên ai cũng thấy: Sau khi Đảng Cộng Sản cướp ruộng đất từ tay các địa chủ, thì nông dân Việt Nam bây giờ có được làm chủ ruộng đất hay không? Câu trả lời là: Không! Ngày nay tất cả ruộng đất thuộc quyền của “nhà nước.” Nhà nước là tay đại địa chủ, nắm quyền cho dân “cấy rẽ,” cho ai thì người ấy được “quyền sử dụng,” chỉ là quyền sử dụng chứ không phải quyền sở hữu. Nhà nước là một bộ máy khổng lồ vô hình, nhưng đại diện của nó là các quan chức, cán bộ từ tỉnh xuống huyện, xuống xã. Họ nắm toàn quyền, ban bố quyền sử dụng cho đám dân đen. Họ có thể lấy lại quyền sử dụng của nông dân để ban phát cho các nhà tư bản đỏ, bồi thường dân một đồng thì thu lời hàng trăm đồng. Cả bộ máy nhà nước này nằm gọn trong tay Đảng Cộng Sản. Đảng là tay đại địa chủ thời nay. Đảng đưa ra khẩu hiệu “Người cầy có ruộng,” nhưng cuối cùng chỉ có đảng là có ruộng, nông dân Việt Nam vẫn đóng vai tá điền. Thay vì các địa chủ thu tô, ngày nay nông dân sống dưới chế độ đảng thu thuế. Báo chí trong nước vừa so sánh số thuế má, dưới nhiều hình thức, tại một tỉnh Thanh Hóa ngày nay còn nhiều hơn các món thuế nông dân phải đóng trong thời thuộc Pháp. Một phản ứng ngược khác, là người đi xem triển lãm sẽ bất mãn thêm khi thấy đây chỉ là một trò tuyên truyền cũ kỹ, hoàn toàn không phải là lịch sử, dù được trưng bày tại Viện Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia. Người biết suy nghĩ sẽ thấy, như Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, tại sao một cuộc triển lãm tự xưng là lịch sử mà lại không được trung thực. Ông nói, “... những sai lầm - tội ác do chính quyền gây ra thời đó không được đưa ra, những việc phá tan chùa, đình, miếu, làng, xã...làm phá vỡ những truyền thống đạo lý - văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam qua ngàn năm ...” cũng không được trưng bày ra. Nhưng việc phá tan những miếu mạo, đình chùa cũng không phải là tội ác văn hóa lớn nhất của Đảng Cộng Sản. Ông Nguyễn Tường Thụy, một người làm blog riêng có tiếng ở Hà Nội đã nhắc đến tội ác khác về văn hóa, là cuộc Cải Cách Ruộng Đất “nó tàn phá luân lý đạo đức lúc bấy giờ” với những cảnh “cha tố con, con tố cha, vợ tố chồng, anh em tố nhau ...” Và ông nhấn mạnh rằng, “Cải cách ruộng đất là do người Trung Quốc, các chuyên gia Trung Quốc chỉ đạo và cố vấn...” Một blogger khác, J.B Nguyễn Hữu Vinh đã đi xem triển lãm, kể lại, “Đi bên cạnh, cô thuyết minh viên áo đỏ (nói) liên tục: ‘Cải cách ruộng đất xóa bỏ chế độ người bóc lột người, là cách mạng về quan hệ sản xuất và nông dân đổi đời...’ Tôi quay lại nói, ‘Quan chức Cộng Sản ngày nay thì đất đai, nhà cửa, ăn chơi còn gấp trăm lần địa chủ phong kiến trước đây. Mà tất cả là từ tiền tham nhũng của dân, còn địa chủ phong kiến ngày xưa có ăn chơi cũng là tiền của họ. Bây giờ có ông quan hàng trăm ha đất như chủ tịch Bình Dương thì bọn địa chủ sao so được nhỉ?’” Nguyễn Hữu Vinh trông thấy một nhiếp ảnh gia đi chụp các vật trưng bày trong phòng triển lãm, khi chụp hình xong, anh ta kết luận, “Thôi, cái hay, là chúng nó đưa ra để dân biết rằng cái giai cấp địa chủ, phong kiến ngày xưa chẳng là cái đ. gì so với bọn quan Cộng Sản tham nhũng hôm nay.” Một di họa văn hóa của thời Cải Cách Ruộng Đất vẫn để lại bóng đen lảng vảng trong xã hội Việt Nam: “Cái gọi là 'thành phần' xuất hiện trong thời đó, cho đến nay tròn 60 năm sau vẫn ám ảnh trong từng tờ hồ sơ, lý lịch của các em nhỏ đến trường, dù chúng chẳng hiểu “thành phần” nghĩa là cái gì và từ đâu ra.” Cuối cùng, chỉ vì Đảng Cộng Sản tổ chức cuộc triển lãm tuyên truyền vô duyên này, những người như các ông J.B Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Xuân Diện có cơ hội bày tỏ những suy nghĩ thật của người dân Việt thời nay. Rõ là chỉ làm cho rách việc thêm! Tại sao Đảng Cộng Sản lại bày ra một trò tuyên truyền gây phản ứng ngược nhiều như vậy? Có thể chỉ vì các cán bộ trong Viện Bảo Tàng Lịch Sử chẳng có việc gì làm cho qua thời giờ, cho nên họ mới bày vẽ ra cái cuộc triển lãm này. Hay là quý ông bà trong ban văn hóa tư tưởng của đảng đang lo khi chế độ sụp đổ thì mình thất nghiệp, nên cố gắng tô thêm son phấn lên mặt đảng một lần chót? Hoặc có thể đưa ra một giả thuyết táo bạo, rằng có người đã xúi giục họ tổ chức triển lãm để khiêu khích tất cả nông dân miền Bắc, những người đã đi biểu tình đòi ruộng, đòi đất trong những năm qua và bị ông đại địa chủ thời nay đàn áp dã man. Đặc biệt, họ muốn khiêu khích tất cả giới thanh niên, trí thức miền Bắc và đặc biệt là dân Hà Nội, xem có ai dám đứng ra “lật mặt nạ” của Đảng Cộng Sản hay không? Mà việc lột mặt nạ thì không khó gì cả. Người ta không thể tổ chức một cuộc “phản triển lãm” về những tội ác của Đảng Cộng Sản trong vụ Cải Cách Ruộng Đất. Không thể trưng bày cảnh những người bị gán cho danh hiệu địa chủ bị chôn sống, thò đầu trên mặt đất để nhìn thấy lưỡi cầy kéo qua đầu mình cho tới khi chết. Cảnh này đã có thi sĩ Hữu Loan làm chứng, ông đã kể lại cho con cháu khỏi quên chuyện một địa chủ đã cấp gạo cho trung đoàn của ông trong thời kháng chiến bị hành hạ như vậy. Sau đó, tác giả Màu Tím Hoa Sim đã cưới cô con gái nhà địa chủ này, để đền ơn công cha mẹ cô nuôi dưỡng cả trung đoàn. Không thể tổ chức triển lãm, nhưng giới thanh niên, trí thức Hà Nội có thể làm một cuộc triển lãm trên mạng. Một cuộc “phản triển lãm” đã xuất hiện trên các mạng ở Việt Nam. Blogger Lê Dũng đã chụp lại các bức ảnh trong phòng triển lãm rồi nêu ra những sai lầm, gian dối. Thí dụ, mấy ông già 60 nhận xét thời 1950 “Đũa nhựa và thìa phíp trắng chưa có!” Hoặc nhìn cái áo của “địa chủ” được trưng bày, có người thấy, “Áo trưng bày này là hàng fake [giả] 100 %. Vì “May bằng máy công nghiệp, viền cứng và thô, thời đó không có máy khâu đó. Đặc biệt áo dài thời đó hoàn toàn khâu tay, mũi khéo và mềm mại.” Đến một bức ảnh, “Bần cố nông làm gì có nồi đồng, có chiếu trải ra hè ăn cơm vậy?” một độc giả của Blog Lê Dũng góp ý “thời đó đã làm gì có modern áo đuôi tôm hả mấy ông giời con?” Một độc giả giấu tên khác nói thẳng: “Nói dối mà không biết ngượng sao, hỡi những kẻ lấy tay che mặt trời? Nạn nhân Cải Cách Ruộng Đất vẫn còn đầy rẫy, hoặc con cháu họ sẽ lên tiếng. Hay đợi đấy!” Một độc giả ký tên Mượt viết, “Chết thật, dối lừa mãi thế sao?” Lê Dũng kết luận, “Tóm lại tay nào sắp đặt cái ảnh này là dân vớ vẩn, không có tí kiến thức gì về lịch sử, am hiểu về đồ vật.” Và anh viết thêm, “Dù sao thì tôi vẫn nói với mọi người cùng xem rằng: việc có cái triển lãm này cũng hay, bọn trẻ sẽ tìm nốt nửa còn lại qua gúc gồ, thế thôi vì một nửa sự thật không phải là sự thật.”   Nửa thứ hai của sự thật đã được trình bày từ lâu. Bao nhiêu tác giả đã viết về cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Những tác phẩm mô tả tai họa Cải Cách sớm nhất là “Những thiên đường mù” của Dương Thu Hương, “Ác mộng” của Ngô Ngọc Bội. Tiếp theo có “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên, tiểu thuyết “Ba người khác” của Tô Hoài. Đặc biệt, cuốn “Đèn cù” củaTrần Đĩnh gần đây nhất đã cho thấy vai trò của Hồ Chí Minh trong vụ giết bà Nguyễn Thị Năm, chính ông Hồ đã viết bài đăng báo buộc tội bà. Có thể đăng lại những đoạn văn của các tác giả trên, để “triển lãm cho mọi người được thấy sự thật về tội ác của Đảng Cộng Sản Việt Nam.   Nhưng trên các mạng đã xuất hiện những câu chuyện thực đau lòng hơn cả những cảnh trong tiểu thuyết. Một độc giả ký tên Lê Tri Điền kể trong Blog Lê Dũng những chuyện xảy ra thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất tại xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; chúng tôi trích vài chuyện: “Có một bà tên Chấn, không hiểu bùa phép nào của đội cải cách mà lên trước ‘ tòa án nhân dân’ nắm râu bố đẻ mà vặt rồi rít lên: Thằng Thể (tên bố bà Chấn)...mày là....mày là...” (bà Chấn sau này ân hận vì tội lỗi với người cha thân yêu của mình nên trở thành người trầm cảm, bà chết vào khoảng năm 1989 trong đói nghèo cô độc). Một chị con gái kể: Tôi thương cha tôi lắm, hắn bắt cha tôi, thúc vô rọ lợn rồi chúc ngược cha tôi đầu cắm xuống đất, tôi lén đem cơm cho cha thấy mặt cha đỏ tím tụ máu sưng tròn như chấy bưởi, cha tôi nói con đi đi! Không du kích biết thì khổ, cha không ăn được cấy chi mô, tôi còn nhỏ quá, chả biết cha có tội chi, thương cha quá mà không dám khóc...” Cuộc phản triển lãm vẫn còn tiếp tục. Dân Hà Nội không để cho người ta khinh thường, bày trò tuyên truyền rẻ tiền trước mắt mình mãi như vậy. Một người bạn tôi mới trò chuyện với một bà chị lớn tuổi ở Hà Nội qua điện thoại, nhân tiện hỏi, “Chị đi xem cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất tại Bảo Tàng Lịch Sử chưa?” Bà chị trả lời, “Xem làm cái gì? Chúng nó hết khôn dồn ra dại hay sao mà lại đi chọc “c...” ra mà ngửi với nhau như thế hở!” Đúng là hết khôn dồn ra dại cho nên mới đi chọc Cải Cách ra mà ngửi. Khi một chế độ lâm vào bước đường cùng thì nó mới sinh ra những trò rồ dại, ngớ ngẩn, lung tung beng như vậy. Ngô Nhân Dụng
......

Chuyện Di Chúc Hồ Chí Minh

Tại Hà Nội, ngày 20-8-2014 vừa qua, Ban tuyên giáo Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) tổ chức hội nghị triển khai chỉ thị của Ban bí thư TƯĐCSVN về việc thực hiện kỷ niệm 45 năm di chúc Hồ Chí Minh (HCM), và đưa ra kế hoạch cho toàn quốc thực hiện từ tháng 9 đến tháng 11-2014. Hồ Chí Minh chết ngày 2-9-1969.  Vì ngày 2-9 trùng với ngày lễ lớn của CSVN, nên Bộ chính trị đảng Lao Động lúc đó, do Lê Duẫn đứng đầu, đổi thành ngày 3-9-1969.  Khi chết, HCM để lại ba bản di chúc: 1) Di chúc ngày 15-5-1965. 2) Di chúc bổ sung năm 1968. 3) Di chúc ngày 10-5-1969.  Bản di chúc thứ ba còn được Lê Duẫn nhuận sắc, sửa đổi, mới chính thức công bố.  Như vậy, đảng viên CS học tập bản di chúc nào, không thấy nói đến? (Toàn bộ các bản di chúc nầy đã được Nxb, Thanh Niên, TpHCM ấn hành năm 1990.)  Lại thêm một chỉ thị của TƯĐCSVN mập mờ không rõ.   Những điều HCM viết trong các di chúc chỉ là  những dặn dò tổng quát, chung chung, không đưa ra chi tiết cụ thể.  Vì vậy nếu lãnh đạo CS muốn đảng viên và đoàn viên “quán triệt, học tập, tuyên truyền về nội dung cơ bản cốt lõi trong di chúc HCM”, thì cần nhất là phải tìm hiểu cặn kẽ những tinh hoa “cốt lõi” mà chính HCM đã làm trong đời sống thực tế khi HCM còn sống. Mở đầu di chúc đầu tiên (15-5-1965), HCM cho biết lý do viết di chúc là phòng khi “đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin...”  Người Việt chúng ta thường nghĩ rằng chết là về với cha mẹ, ông bà, Phật Chúa.  Vì không có tôn giáo, HCM không về với Phật Chúa đã đành, mà HCM cũng không muốn về với cha mẹ ông bà.  HCM chỉ muốn về với hai người ngoại quốc xa lạ HCM chưa hề gặp mặt, như là một kẻ không biết cha mẹ là ai, mà người Việt gọi là con vô thừa nhận.  Quả thật, khi còn sống, thân phụ của HCM, cụ Nguyễn Sinh Sắc không thừa nhận Nguyễn Sinh Cung tức HCM vì cụ Sắc “không muốn nghe nói đến “đứa con hư” của mình [...] mà các chủ thuyết chẳng những đả phá uy quyền của nhà vua, mà còn đả phá luôn cả uy quyền của người gia trưởng.” (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ' Indochine au Vietnam, Paris: Nxb. Gallimard, 1990. tr. 134.)  Vì không muốn gặp cha mẹ ông bà, nên trong năm điều HCM dạy cho thiếu nhi Việt Nam, không có điều nào HCM khuyên trẻ em phải có hiếu với cha mẹ cả.  Như vậy, học tập theo HCM, đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và học tập năm điều HCM dạy, không lẽ các đảng viên và đoàn viên thanh niên CS cũng là những đứa con hoang, một mai khi chết đi, không tìm về với cha mẹ ông bà? Cũng trong bản di chúc năm 1965, nói về đảng CSVN, HCM kêu gọi “một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”.  Khi bổ túc di chúc năm 1968, HCM lập lại điều nầy.  Tuy nhiên khi HCM chết ngày 2-9-1969, Lê Duẫn bỏ mấy câu nầy trong di chúc HCM trước khi công bố. (Xin bạn đọc so sánh các bản di chúc).  Sở dĩ Lê Duẫn làm thế, vì Lê Duẫn biết HCM đâu có phục vụ tổ quốc, đã bán Hoàng Sa từ  lâu cho Mao Trạch Đông.  Khi Mao viện trợ cho HCM, HCM biết rằng tại Hội nghị San Francisco vào đầu tháng 9-1951, đại diện Liên Xô theo yêu cầu của Trung Cộng, đã lên tiếng đòi hỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng.  Thế mà HCM vẫn làm lơ, mặc nhiên chấp nhận điều nầy, để nhận viện trợ của Trung Cộng.  Vì đã thỏa thuận bán Hoàng Sa và Trường Sa cho Mao để đổi lấy viện trợ, HCM để cho Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng.  Học tập và thấm nhuần di chúc HCM về cách phục vụ tổ quốc theo kiểu HCM, đảng CSVN hiện nay tiếp tục sự nghiệp bán nốt tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng    Di chúc HCM còn nhắn nhủ đảng CS phải lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên, cho đoàn viên.  Tấm gương điển hình tiên tiến nhất về đạo đức cách mạng của HCM là trong cuộc CCRĐ, HCM giết hại ân nhân Nguyễn Thị Năm để trả ơn.  Tấm gương đạo đức cách mạng nữa là vụ lừa bịp thế giới rằng HCM suốt đời sống độc thân, sống giản dị để phục vụ cách mạng, trong khi HCM đi đâu đều có bóng dáng đàn bà ở đó.  Đạo dức cách mạng HCM nổi tiếng hơn nữa là vụ giết hại bà Nông Thị Xuân, dù bà nầy đã sinh cho HCM một người con trai để nối giòng.  Đạo đức cách mạng HCM còn được lưu danh trong vụ “Tôi mất trinh khi gặp bác Hồ” của một em gái miền Nam.  Còn rất nhiều em gái miền Nam khác được gởi ra Bắc học tập, đã được HCM cấy hạt giống đỏ mà không đếm hết.  Đảng viên và thanh niên CS mà học tập theo gương đạo đức cách mạng tiên tiến kiểu nầy của HCM, hãy coi chừng sẽ ế vợ, vì có thiếu nữ nào dám lấy chồng đảng viên CS, để rồi bị giết thê thảm như bà Nông Thị Xuân? Di chúc HCM ngày 15-5-1965 kêu gọi đảng CS phải có “kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa”.  Kế hoạch thật tốt của HCM là chính sách kinh tế chỉ huy, quốc hữu hóa toàn bộ công thương nghiệp thành phố và toàn bộ ruộng đất ở nông thôn, vơ vét của cải toàn dân vào tay đảng CSVN như lời Việt bản Quốc tế ca: "Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình” (câu số 8).  Tuy nhiên, chính sách kinh tế chỉ huy nầy đã làm đất nước Việt Nam kiệt quệ, nên mới đẻ ra cái quái thai “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.  Thò lò cái đuôi XHCN là cái gì vậy? Trong di chúc công bố năm 1969, HCM rất tự hào về sự lớn mạnh của phong trào cộng sản thế giới.  Nếu bây giờ HCM biết được rằng phong trào CS đã sụp đổ tan tành, chủ nghĩa CS bị quăng vào sọt rác ở Liên Xô từ năm 1991, thì có lẽ HCM càng tự hào hơn nữa, vì đảng CS của HCM chưa sụp đổ, nhờ ở Việt Nam nhà tù nhiều hơn trường học, bạo lực cách mạng tàn bạo và tinh vi, thẳng tay đàn áp dân oan kiện tụng, bắt giam những người yêu nước, những người viết blog kêu gọi tự do dân chủ. Nói chuyện di chúc HCM mà không nói đến tư tưởng HCM là một thiếu sót lớn.  Trong Đại hội 2 của đảng Lao Động tức đảng CSVN từ 11 đến 19-2-1951 tại Tuyên Quang, HCM phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin...lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.".  (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tt. 150-152.)  Cũng trong Đại hội nầy, HCM nhiều lần tuyên bố: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được.” (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, California: Nxb.  Tuổi Xanh, 2001, tr. 63.)  Theo HCM, tư tưởng MTĐ là kim chỉ nam không bao giờ sai lầm, có nghĩa là chuyện MTĐ đòi hỏi chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam từ năm 1951 cũng không sai lầm.  Đảng viên và đoàn viên CSVN học tập như thế, nên đảng CSVN ký hiệp ước nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng, bắt giam những người yêu nước một cách bất bạo động chống Trung Cộng như Lê Chí Quang, Việt Khang, Bùi Hằng… Đảng CSVN hô hào thực hiện di chúc HCM, nhưng có một điều quan trọng trong bản di chúc HCM chưa được đảng CSVN thực hiện.  Điều đó là trong di chúc ngày 15-5-1965, HCM yêu cầu được hỏa táng sau khi chết, tro xương chôn ở một ngọn đồi vùng Tam Đảo - Ba Vì, và nếu đất nước chưa được thống nhất, thì gởi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.  Thế mà khi HCM chết, đảng CSVN không chịu hỏa táng, lại xây cái lăng Ba Đình bự chảng “hoành tráng” để triển lãm xác chết HCM.  Nay lãnh đạo đảng CSVN, tức bộ Chính trị đảng CSVN muốn cho đảng viên học tập, quán triệt cốt lõi di chúc HCM, thì phải tiên phong thực hiện di chúc HCM, thực tế làm gương trước cho mọi người, là hỏa thiêu thi hài của HCM ở Ba Đình, đúng theo yêu cầu trong di chúc HCM, rồi chia tro xương thành hai phần.  Một phần chôn ở một ngọn đồi vùng Tam Đảo-Ba Vì theo lời HCM đã viết trong di chúc.  Còn phần tro xương kia của HCM thì đem rải ở chỗ Trung Cộng đặt giàn khoan 981 trên Biển Đông mà Trung Cộng đã tạm chiếm của Việt Nam, để HCM được mãn nguyện với sự nghiệp “lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam”.  Có như thế mới thực hiện một cách “tài tình sáng tạo” di chúc HCM.  Nói cho cùng, dầu TƯĐCSVN tốn công tốn sức tuyên truyền tô điểm chuyện di chúc HCM, nhưng ngày nay, thanh niên Việt Nam biết tỏng HCM là ai.  “Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó”. (Nguyễn Chí Thiện).  Các bạn trẻ ngày nay không thèm học tập di chúc đâu.  “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi…” Thôi, “bỏ đi Tám”.  TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 27-8-2014)
......

Khi nào quan chức Việt mới bán tháo nhà cửa?

Khác nhiều với Việt Nam, chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” do Tập Cận Bình khởi xướng ở ở quốc gia đông dân nhất và cũng thuộc loại tham nhũng nhất thế giới đã tạo ra chất xúc tác cho làn sóng bán tháo trong thị trường nhà đất. "Họ muốn bán nhà thật nhanh chóng và sẵn sàng giảm giá 5-10% so với thị trường", Zhang Yan - Giám đốc hãng tư vấn bất động sản Shanghai Centaline cho biết. Biệt thự của ông Trần Văn Truyền   20% Thông thường, giới quan chức hoặc thân nhân của họ muốn bán trong 2 tuần đến một tháng, nói chung là càng nhanh càng tốt. Sau đó tiền sẽ được chuyển mau lẹ đến mức có thể ra các ngân hàng nước ngoài. Các hãng môi giới bất động sản cho biết, quan chức Trung Quốc chiếm khoảng 20% chủ sở hữu nhà xa xỉ. Trước đó, một nghiên cứu của Đại học Pennsylvania cho biết chỉ 7,1% người mua nhà tại Trung Quốc là quan chức. Quan chức Trung Quốc thường mua nhà to và đắt tiền hơn người thường. Và dĩ nhiên, họ không chỉ đơn giản là thích mua nhiều nhà. "Cách phổ biến để hối lộ là đưa cho anh ta một căn nhà, coi như quà tặng. Chiến dịch này chính là lời cảnh cáo hoạt động đó nên chấm dứt", Yan Jirong - Giảng viên Đại học Bắc Kinh cho biết. Rất nhiều người sử dụng thông tin của lái xe riêng, người thân hoặc người đại diện để mua nhà. Một nhân viên môi giới bất động sản cho biết một khách hàng của anh đã bị bắt giữ năm ngoái khi đang cố bán nhà. "Tôi chẳng nhận ra ông ta là quan chức cho đến khi thấy ảnh trên mạng", anh nói. 20% tất nhiên cũng là một tỷ lệ rất đáng tham khảo cho “mặt bằng dân trí quan chức” ở Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay, điều lạ lùng là mặc dù bị xem là một quốc gia còn độc tài hơn cả Việt Nam, ở Trung Quốc vẫn tồn tại một số kết quả khảo sát mang tính độc lập. Chẳng hạn như số người giàu đã di cư hoặc có ý muốn di cư ra nước ngoài, hoặc độ chênh lệch khủng khiếp giữa giai cấp giàu nứt vách và người nghèo rớt mùng tơi.   Khi nào?   Trong khi ở Việt Nam mới chỉ âm thầm diễn ra hiện tượng quan chức “tẩu tán tài sản” theo cách bán nhà cao cấp, thì ở Trung Quốc không khí này đã giống như một cơn sốt phát ban. Năm ngoái, một quan chức Nội Mông tên Wu Zhizhong đã bị kết tội tham nhũng, nhận hối lộ và biển thủ công quỹ. Cơ quan điều tra cho biết Wu sở hữu tới 33 bất động sản tại Trung Quốc và một căn nhà ở Canada. Theo Xinhua, số chìa khóa nhà của “con sâu” này (nói theo từ ngữ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang) có thể đựng đầy một chiếc túi xách. Sau đó, Cai Bin - một cựu quan chức Quảng Châu (Trung Quốc) cũng bị kết tội nhận hối lộ. Nhà điều tra cho biết gia đình Cai sở hữu hơn 20 căn nhà. Những trường hợp này chính là hồi chuông cảnh báo với nhiều quan chức địa phương Trung Quốc. Các trung tâm môi giới bất động sản cho biết giới chức giờ rất sợ mua nhà xa xỉ. Một số thậm chí còn bán những căn có thể khiến họ bị nghi ngờ. Chiến dịch chống tham nhũng của nước này từng khiến ngành khách sạn lao đao với quy định hạn chế tiệc xa xỉ. Giờ đây, cả ngành bất động sản cũng bị ảnh hưởng khi giới chức đua nhau bán nhà. Theo Wall Street Journal, chiến dịch này được thực hiện đúng thời điểm thị trường địa ốc Trung Quốc đang suy giảm. Đây được coi là rủi ro lớn nhất với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Theo số liệu công bố tuần trước, doanh số bán nhà tại đây trong 7 tháng đầu năm đã giảm 10,5% so với năm ngoái. Tại Hàng Châu, doanh số bán nhà cao cấp đã giảm 54% nửa đầu năm. Gao Yuansheng - Giám đốc nghiên cứu một hãng bất động sản cho biết sự sụt giảm này chủ yếu do thị trường dự đoán giá tăng chậm, nhưng cũng một phần do các biện pháp chống tham nhũng của Chính phủ. Doanh số bán nhà cao cấp giảm thê thảm là hiện tượng rất tương đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong ít ra vài năm qua, đã có hiện tượng một số quan chức Việt Nam tìm cách bán rẻ căn hộ cao cấp hoặc đất đai của họ. Tuy nhiên, nguồn cơn của hiện tượng này chủ yếu xuất phát từ nhu cầu cần tiền và nhằm “hạ cánh an toàn” chứ chưa có dấu hiệu chịu tác động mạnh mẽ bởi một chiến dịch chống tham nhũng nào từ cấp trung ương. Câu hỏi còn lại là đến bao giờ ở Việt Nam mới hiện ra chiến dịch, nếu không “đả hổ” thì cũng “diệt ruồi”, như Tập Cận Bình đang làm? Nếu xảy ra chiến dịch này, chắc chắn dân tình ở Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội chứng kiến làn sóng bán đổ bán tháo nhà đất cao cấp của giới quan chức “ăn của dân không còn chừa thứ gì” (lời bà Nguyễn Thị Doan – Phó chủ tịch nước). Nguồn: Việt Nam Thời Báo
......

Putin và bài học cho Việt Nam

Không có nước Nga, chỉ có người Nga Chúng ta không bình luận đến vấn đề đúng sai. Điều đó thuộc vào góc nhìn của từng người. Nhưng thông điệp đá tảng mà Putin gửi đến cho tất cả rất rõ ràng, không dấu giếm, và không hai nghĩa: Biên giới nước Nga mở rộng đến nơi nào có người Nga sinh sống. Lời nói và hành động của Putin đã làm cho NATO phải thay đổi. Chẳng thế mà NATO đã phải vội vã nhóm họp để có những biện pháp thích nghi cần thiết. Riêng tổng thống Obama còn phải vội vã bay đến Estonia để trấn an các đồng minh Estonia, Latvia và Lituanie, là các quốc gia thuộc Liên Xô trước đây có nhiều người Nga sinh sống. Bài học cho Việt Nam Yêu hay ghét Putin, bênh vực hay phê phán Putin, đó không phải là chủ đề và đó không phải là quan trọng. Điều quan trọng là từ thông điệp và hành động của Putin, nhất thiết phải rút ra những bài học cho Việt Nam. Có thể cô đọng ở mấy điểm chính sau đây. 1. Dân tộc là tối thượng Putin nói rằng: “Không có nước Nga, chỉ có người Nga”. Còn Obama thì tuyên bố: “ Chúng ta là khác biệt”. Phát biểu của hai người đứng đầu hai cường quốc thế giới đương thời đã nói lên tất cả. Nhưng Mao Trạch Đông còn vượt xa cả Putin lẫn Obama về dân tộc chủ nghĩa. Từ tháng 10 – 1959 tại hội nghị Quân ủy Trung ương, Mao Trạch Đông đã nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”. Nước Mỹ chỉ mới hơn hai trăm năm. Nước Nga chưa đủ mười thế kỷ. Còn dân tộc chủ nghĩa của đế chế Trung Hoa thì đã tồn tại chí ít cũng hơn bốn ngàn năm. Không có tình đồng chí đồng giai cấp đồng minh nào bằng tình máu mủ. Tình máu mủ đồng bào là sản phẩm của tạo hóa. Bởi vậy dân tộc là tối thượng. 2. Không để tồn tại các phố xá người Hoa Nước Nga chỉ có một Crưm, một Donbas. Vì người Nga sống ở Crưm mà Putin đã lấy gọn Crưm về Nga. Vì người Nga sống ở Donbas mà Putin đã tách Donbas thành nước Nga mới. Chúng ta không đề cập đến lý do, không bàn đến đúng sai. Chúng ta chỉ nói đến sự kiện thực tế tồn tại. Nhưng China Town thì hằng hà sa số. “Nạn Hoa kiều” đã là một trong những cớ để Đặng Tiểu Bình mang 60 vạn quân tiến đánh Việt Nam ngày 17-2-1979. Điều đáng sợ nhất là chính quyền Việt Nam hiện nay đang tạo nên cơ hội thuận lợi chưa bao giờ có cho sự phát triển các phố xá người Hoa tại Việt Nam. Dân tộc Nga và Ucraina có quan hệ cả ngàn năm chung sống, nhưng ở Ucraina người Nga chỉ sinh sống chủ yếu ở phía Đông Ucraina, còn phía Tây là người Ucraina. Còn ở Việt Nam hiện nay, người Hoa đã có mặt từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, khắp cả hang cùng ngõ hẻm. Một “Nạn Hoa kiều” có thể tạo dựng ra bất cứ lúc nào. Lúc đó không như Crưm, không như Donbas ở Ucraina, khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều là Crưm, đều là Donbas. Cũng không cần đến “Nạn Hoa kiều”, khi Trung Quốc dấy binh thì khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều có nội ứng người Hoa. Một số người cầm quyền ở trung ương và địa phương ngây thơ tin rằng, khi hết hạn hợp đồng là đưa được lao động Trung Quốc về nước. Họ không biết rằng người Trung Quốc đã kịp lấy vợ khi vừa đặt chân đến đất Việt Nam. Họ cũng không ngờ rằng nhà cầm quyền Trung Quốc bí mật cho tiền những kẻ bất lương tội phạm ra nước ngoài sinh sống, một kiểu lưu đày trá hình trong thời đại tích hợp toàn cầu. Hãy chặn đứng ngay việc đưa người Hoa sang Việt Nam buôn bán làm việc. Đừng mang họa về cho dân tộc. 3. Các cường quốc sẽ tránh đối đầu Ngày 29-8-2014 trong cuộc gặp mặt với thanh niên ở hồ Seliger Putin nói: “ Nước Nga sẽ không can dự vào các đụng độ lớn… Và ơn Chúa, chắc cũng không có ai có ý định phát động một cuộc xung đột lớn với Nga. Nga là cường quốc hạt nhân hàng đầu. Đây là sự thật”. Việc Mỹ và NATO không ủng hộ mạnh Ucraina trong vấn đề Đông Ucraina cũng chính là tránh đối đầu trực diện với Nga. Và có thể nhận thấy ngay rằng NATO sẽ không mặn mà với việc kết nạp Ucraina là thành viên NATO. Nga sẽ làm mọi biện pháp có thể để ngăn chặn điều này. Và như thế sẽ dẫn đến sự đối đầu trực diện giữa Nga và NATO. Kết quả là Ucraina sẽ hoàn toàn bị chia rẽ. NATO chỉ có thể giúp đỡ Ucraina bằng tiền bạc, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, và chuyên gia huấn luyện; nhưng sẽ không có quân đội NATO đến Ucraina để tham chiến chống lại Nga. Thảm họa hạt nhân và sức mạnh của vũ khí hủy diệt là lý do căn bản buộc các cường quốc phải né tránh đối đầu. Các cường quốc cũng sẽ không vì các quốc gia khác mà đi đến đối đầu. Không chỉ không phát động xung đột, ngay cả khi bị ràng buộc bởi một cam kết liên minh quân sự, các cường quốc cũng phải tìm cách không cho leo thang, giảm dần căng thẳng để thoát ra khỏi hoàn cảnh đụng độ. Khi xẩy ra chiến tranh, các nước nhỏ sẽ phải tự chiến đấu bằng chính con người của nước mình. Bởi vậy ngoài liên minh ra, nhất thiết phải xây dựng được một Việt Nam giàu mạnh tự cường. 4. Việt Nam phải đối mặt với đế quốc Đại Hán còn đáng sợ nhiều lần hơn các đế chế khác Sự phản ứng của nước Nga cũng là điều tự nhiên. NATO đã tiến sát đến sườn nước Nga. Không chỉ thế, phương Tây bắt đầu chọc vào da thịt người Nga khi động đến Ucraina, một trong ba bộ tộc Slavo gần gũi nhất: Nga, Bạch Nga và Ucraina. Nước Nga quẫy mạnh vì bị đâm vào sườn. Còn đế chế Đại Hán từ mấy ngàn năm luôn mang gươm đi xâm chiếm nước khác mà không cần bất cứ lý do nào. Số phận đã buộc Việt Nam phải sống cạnh một đế chế ngang ngược đáng sợ nhất trong lịch sự phát triển nhân loại. 5. Hãy hành động cương quyết vì quyền lợi dân tộc Thống kê xã hội cho thấy Putin đang có uy tín cao trong nhân dân Nga. Tại sao vậy? Đơn giản là Putin đang làm sống lại một đế chế Nga. Điều mà nhiều người Nga rất mong mỏi. Nhiều người Hoa cũng sẽ rất phấn khích khi lãnh đạo Trung Quốc tiến hành một chính sách bá quyền. Nếu lãnh đạo Trung Quốc làm cho đế chế Đại Hán bành trướng lớn mạnh, thì họ sẽ được nhiều người Hoa ủng hộ, bất chấp các biện pháp mà giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành. Bởi vậy, bất cứ lúc nào khi liên quan đến dân tộc thì phải suy nghĩ kỹ nhưng lại phải hành động kịp thời và rất cương quyết, không do dự, không nhu nhược, không đớn hèn. Sức mạnh dân tộc sẽ truyền vào người ra quyết định, hợp thành một sức mạnh nối dài vô địch. Putin thì rất cương quyết rất tiến công. Còn lãnh đạo Việt Nam thì ngược lại. Vai trò lãnh tụ rất quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Chừng nào Việt Nam chưa có phương thức dân chủ thực sự để chọn ra được những người lãnh đạo xứng đáng thì chừng đó số phận dân tộc còn long đong. Bài học từ Putin dễ thấy nhưng lại khó học. V.T.D. Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Đặng Tiểu Bình Chỉ Huy Trận Chiến Hoàng Sa 1974

Ký giả Bill Hayton vừa cho xuất bản một quyển sách rất hay liên quan đến Biển Đông: The South China Sea: The Struggle for Power in Asia. Trong Chương 3 đề cập về “Danger and Mischief từ 1946 -1995”, tác giả đã dựa theo tài liệu quân sự của Hoa Kỳ thập niên 70 được giải mật, và một tài liệu được soạn thảo bởi Hải quân Trung cộng vào năm 1987 – trong đó, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai là người - vào năm 1973 - đã đưa ra quyết định đánh chiếm Hoàng Sa, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao và Nixon năm 1972. Người được giao trách nhiệm thực hiện quyết định này là Đặng Tiểu Bình do sự đề bạt của Chu Ân Lai. Đặng Tiểu Bình lúc đó đang bị thất sủng sau cuộc cách mạng văn hóa vào năm 1966, và phải sống lưu đày cùng với vợ tại Giang Tây từ năm 1969 đến 1973. Chu Ân Lai đã cho đưa họ Đặng về Bắc Kinh vào ngày 20/3/1973 để tiến hành quyết định đánh Hoàng Sa của hai thủ lãnh Mao, Chu. Kế hoạch đánh chiếm bắt đầu được chuẩn bị và luyện tập từ tháng 9/1973. Theo tin tức tình báo Hoa Kỳ vào lúc đó, cảng Beihei đã được Trung Cộng cho kiểm soát gắt gao và từ giữa tháng 12/1973, hàng trăm lính Trung Cộng được đưa xuống 6 tàu đánh cá, hàng ngày rời khỏi cảng Beihei và trở lại cảng lúc trời tối, liên tục trong vòng 10 ngày. Kế hoạch đưa người ra chiếm Hoàng sa hoàn tất vào đầu tháng 1 năm 1974. Những nghiên cứu của ký giả Bill Hayton nói trên đã cho chúng ta thấy là việc đánh chiếm Hoàng sa của Trung Cộng là bước khởi đầu, nằm trong chiến lược khống chế biển Đông đã được vạch ra từ những lãnh đạo cao cấp nhất của Bắc Kinh là Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Vì thế mà sau khi đưa hàng trăm lính ra chiếm các đảo của Việt Nam Cộng Hòa, ngày 11/1/1974, Bộ Ngoại giao Trung Cộng ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đương nhiên Việt Nam Cộng Hòa đã ra tuyên bố khẳng định Hoàng sa, Trường sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ mọi cáo cuộc phi lý của Trung Cộng. Lo ngại Trung Cộng có thể đưa quân chiếm đóng, Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra các đảo thuộc nhóm Nguyệt Thiềm. Nhưng đã quá trễ. Ngày 16/1/1974 khi phái đoàn Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra thăm các đảo ở Hoàng sa để nghiên cứu thiết lập phi trường thì đã phát hiện lính Trung Cộng nằm đầy trên các đảo. Trận hải chiến Hoàng Sa bùng nổ và kết thúc vào ngày 19/1/1974. Lý Thái Hùng 8/9/2014
......

Trường Sa của chúng ta sẽ bị uy hiếp

Khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dươg 981 vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta, nhân dân ta phẫn nộ đấu tranh quyết liệt, báo chí dư luận thế giới phê phán như tát nước vào mặt Trung Quốc, tiếc rằng lãnh đạo Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội kiện Trung Quốc. Rát mặt quá, giới cầm quyền Trung Quốc tạm rút giàn khoan đi nơi khác để tình hình lắng dịu xuống. Nhưng âm mưu của Trung Quốc đối với Biển Đông không thay đổi, họ vẫn dựa vào cái “lưỡi bò” phi lý, phi pháp của họ để tuyên bố chủ quyền biển, đảo của họ trong đó và họ vẫn từng bước lặng lẽ tiếp tục hành động... Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh Trung Quốc là kẻ cướp đất, cướp biển, Việt Nam là nạn nhân, Trung Quốc là kẻ mạnh, đặc phái viên của TBT Nguyễn Phú Trọng đi cầu hòa là ở thế yếu. Thông thường thì trong đàm phán, kẻ mạnh thường áp đặt điều kiện cho kẻ yếu. Ví dụ như trong đàm phán về lập lại quan hệ bình thường ở Thành Đô, do Việt Nam ở thế yếu nên sau khi đoàn về, phía lãnh đạo ta không còn đả động gì đến cuộc xâm lược của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới của ta năm 1979, đến cuộc đánh chiếm điểm 1509 trong huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Không truy tặng liệt sĩ cho bộ đội chiến đấu hy sinh năm ấy và 64 cán bộ chiến sĩ hy sinh năm 1988 ở Gacma. Không ai chăm sóc mồ mả và hương khói cho các liệt sĩ, sau đó là Bộ Trưởng Ngoại giao đầy tài năng Nguyễn Cơ Thạch đã sớm biết rõ dã tâm của Trung Quốc, mất chức. Đối với “đặc phái viên” Lê Hồng Anh, phía Trung Quốc có nêu điều kiện gì không thì không biết. Trong hội đàm với Lưu Vân Sơn, đặc phái viên Lê Hồng Anh cầm giấy đọc, nội dung những gì thì không được biết. Sau đó Lưu Vân Sơn phát biểu, khi hội kiến TBT Tập Cận Bình thì Tập Cận Bình cũng phát biểu. Qua báo chí công khai của cả ở Việt Nam và Trung Quốc, tổng hợp lại phát biểu của hai nhà lãnh đạo Trung Quốc cơ bản không có gì mới, chủ yếu vẫn là những câu phỉnh phờ, mê hoặc, “ăn người’ lâu nay họ từng nói, nào là: Trung Quốc rất tôn trọng Việt Nam, là hai nước láng giềng không tránh khỏi “va chạm” (!), vấn đề chính là xử lý như thế nào..., mâu thuẫn ở Nam Hải (Biển Đông) song phương đàm phán tìm giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận được, hợp tác cùng khai thác, cùng là Đảng Cộng sản lãnh đạo, cùng có mục đích xây dựng Chủ nghĩa xã hội, cần thường xuyên giao lưu trao đổi ý kiến, lấy đại cục quan hệ Trung - Việt làm trọng, giữ gìn truyền thống hữu nghị giữa hai nước, kiên trì phương châm 16 chữ và 4 tốt, hai bên quan tâm định hướng dư luận nhân dân hai nước... Thử phân tích xem những nhà lãnh đạo Trung Quốc nói như trên có thật không và có ý gì? -Trung Quốc rất tôn trọng Việt Nam: Có thật vậy không? Vài năm trước báo chí Trung Quốc không ngớt thóa mạ và đe dọa Việt Nam, nào là Việt Nam là lang sói, là quân ăn cháo đá bát, phải dạy cho Việt Nam bài học thứ hai, gần đây trong chuyến đi Việt Nam của Dương Khiết Trì, báo Trung Quốc còn đăng câu: “Hãy đưa đứa con hoang đãng trở về” (ám chỉ Việt Nam). Lần này họ nói với Việt Nam như thế để buộc chặt Việt Nam vào cỗ xe của họ. Đừng gần gũi quá với họ. - Hai nước láng giềng có “va chạm” nhau là điều không tránh khỏi, quan trọng là xử lý thế nào... Trung Quốc lấn, cướp của Việt Nam chứ đâu phải là va chạm, họ muốn ta không đấu tranh, không làm ồn ào, các mâu thuẫn họ gây ra ở Biển Đông, họ muốn ta đàm phán “song phương” để dễ bắt nạt, đồng thời chia rẽ ta với các nước Đông Nam Á. - Hợp tác cùng khai thác: Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng nêu “Chủ quyền về ta” (Trung Quốc), gác tranh chấp cùng khai thác”. Nay họ tạm giấu đi mấy chữ “chủ quyền về ta” để dỗ ta cho khai thác trong phạm vi thuộc chủ quyền của ta. - Gìn giữ truyền thống hữu nghị giữa hai nước: Làm gì có truyền thống hữu nghị mà giữ gìn? Ai cũng biết từ các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh cho đến thời Đặng Tiểu Bình đều đem quân xâm chiếm nước ta, giết hại nhân dân ta, Đặng còn cướp Hoàng Sa của ta, lấn thác, lấn đất biên giới, lấn Vịnh Bắc Bộ của ta. Ngay trong hai cuộc kháng chiến, Trung Quốc có giúp ta nhưng cũng có lợi ích của họ đồng thời cũng nhằm thu phục ta vào vòng tay của họ. Khi ta thắng lợi, họ lại phản bội ta. Giữa Trung Quốc và Việt Nam chỉ có xâm lược và chống xâm lược mới là truyền thống. - Hai nước đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đều có chung mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần tăng cường giao lưu, trao đổi kinh nghiệm: Từ khi Đặng Tiểu Bình phát biểu: “Mèo trắng mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì thực tế Trung Quốc đã từ bỏ xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, rẽ theo con đường khác rồi, nên ba thập niên qua, họ đã tiến những bước khổng lồ. Họ vẫn nêu “xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc nhưng họ đương thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình để trở thành một thứ Đế chế hùng cường. Còn Việt Nam thì đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trên mây. Họ cứ nói bừa cùng chung mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội để buộc ta với họ, không ngả về Mỹ. - Kiên trì phương châm “16 chữ, 4 tốt”, định hướng dư luận nhân dân: Từ khi nêu ra chiêu ấy, chỉ có lãnh đạo Việt Nam thực hiện, Trung Quốc có thực hiện đâu? Toàn làm ngược lại, còn yêu cầu Việt Nam tuyên truyền cho thứ “hữu nghị giả dối” ấy, ngăn chặn tuyên truyền và biểu tình chống Trung Quốc. Đoạn trình bày trên đây cho thấy giới cầm quyền Trung Quốc có tài lừa phỉnh, có tài đổi trắng thay đen, đem 60 vạn quân xâm lược nước ta, lại nói là “phản kích tự vệ”, đánh cướp đảo của Việt Nam lại nói là “thu hồi”, đưa hàng trăm tàu có cả tàu chiến, đâm hỏng tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư, đâm chìm tàu cá của ngư dân ta lại nói là “tàu Việt Nam khiêu khích”. Giới cầm quyền Trung Quốc, chuyên nói một đàng làm một nẻo, mồm nói “hữu nghị”, nhưng đương chuẩn bị căn cứ để “đánh chiếm đảo”, cụ thể là: Gần đây máy bay do thám của nước ngoài cho biết trên bãi đá Gacma không người ở trong quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đánh chiếm của chúng ta năm 1988, Trung Quốc đương đổ cát đá để xây dựng Gacma và các bãi đá xung quanh thành các đảo nhân tạo nhằm khẳng định chủ quyền của họ đồng thời sẽ xây dựng thành căn cứ chiến đấu có đường cho máy bay cất, hạ cánh. Sự kiện nguy hiểm này lẽ nào lãnh đạo và Bộ Quốc phòng Việt Nam lại không biết. Bộ máy truyền thông không đả động, lãnh đạo vẫn im lặng. Nếu giới cầm quyền nước ta không sớm tố cáo, đấu tranh, lại bưng bít thông tin, không để cho nhân dân đấu tranh... để đến khi căn cứ quân sự của Trung Quốc hoàn thành sẽ trở thành sự uy hiếp nặng nề đối với quần đảo Trường Sa của chúng ta. Không hành động, không chuẩn bị là có tội với Tổ quốc./.   N. T. V.
......

Đừng có trịch thượng “tuyên truyền” kiều bào phải hướng về quê hương

Đọc bài “Để kiều bào không phải ‘tròn mắt’” tôi phải nói là rất ngạc nhiên trước những quan điểm và tầm nhìn của các quan chức cao cấp trong Nhà nước. Họ vẫn nghĩ rằng bà con người Việt ở nước ngoài (sẽ gọi tắt là “Việt kiều”) là thiếu thông tin, và từ đó, giải pháp là tăng cường … tuyên truyền. Trong thực tế, tôi nghĩ ngược lại: Việt kiều ở ngoài không hề thiếu thông tin về VN. Có nhiều lần tôi đi dự các buổi tiếp kiến các quan chức cao cấp (thường là cấp bộ trưởng, phó chủ tịch nước) sang đây công tác (hay du lịch?) mà thấy nản lắm. Buổi tiếp kiến thường diễn ra theo công thức vị đại sứ hay lãnh sự địa phương giới thiệu, rồi sau đó vị quan chức viếng thăm nói chuyện. Họ thường bắt đầu bằng những câu sáo ngữ về vai trò của Việt kiều, rồi đọc vanh vách tình hình kinh tế và xuất khẩu. Đó là những thông tin mang tính hành chính mà thật ra đại đa số khán giả chẳng ai quan tâm. Vả lại, ai cũng biết thông tin về thống kê bên nhà rất khó tin vì nó là sản phẩm của giả tạo và bệnh thành tích. Trong thực tế, Việt kiều biết nhiều tin bên nhà hơn là người ở trong nước, vì ở ngoài này người ta đọc được báo “lề dân” và báo nước ngoài. Vì thế những gì các vị ấy nói rất ư là thừa và làm mất thì giờ của khách đến nghe. Nhiều người chỉ đến nghe một vài lần rồi thôi, vì những vị từ VN sang chỉ có một bài nói!   Họ (các vị viếng thăm) không bao giờ nói về những tin “tiêu cực” như tham nhũng. Họ càng không dám đề cập đến những vấn đề tế nhị như Biển Đông. Đến phiên vấn đáp họ tỏ ra rất quan tâm và nghiêm trọng, chắc vì sợ có những câu hỏi “nhạy cảm”. Tôi nhớ có lần một bạn hỏi về Biển Đông với một thông tin cụ thể, vị cựu phó chủ tịch nước lúng túng và nói “Tôi chưa nắm được thông tin đó”. Và, cái câu đó tôi nghe rất thường xuyên khi họ không muốn trả lời hay không dám trả lời. Các vị quan chức cao cấp bên nhà nên hiểu một điều căn bản: ở các nước tiên tiến người ta không thích “tuyên truyền” – propaganda. Tuyên truyền được xem là một sản phẩm của cộng sản. Có thể nó chẳng có gì ghê gớm lắm, nhưng khi nói đến chữ này mấy người phương Tây đều thấy ghê tởm. Do đó, khi các vị nói “tăng cường tuyên truyền, vận động kiều bào hướng về quê hương, xây dựng đất nước” tôi thấy vừa là một sự thừa thải vừa là xúc phạm. Chúng tôi ở nước ngoài không ai mà không nghĩ đến việc giúp quê hương, đừng có ai trịch thượng “tuyên truyền” chúng tôi phải hướng về quê hương. Quí vị cứ nói về kiều bào một cách thắm thiết nhưng trong thực tế có vài kiều báo lại bị cấm về quê hương! Tôi nghĩ trước hết các vị quan chức cao cấp trước khi ra nước ngoài và nếu có ý định nói chuyện với kiều bào, quí vị nên học cái đã. Học cái “văn hoá” của kiều bào là nên nói chuyện đi thẳng vào vấn đề, nên nói thật chứ không phải sáo ngữ tuyên truyền, nên học cách trả lời câu hỏi một cách thành thật. Các vị phải tìm hiểu xem ngoài này người ta biết gì, và cách tìm hiểu tốt nhất là đọc nhiều báo hay những trang web “lề dân” với một cái tâm thanh thản và bình tĩnh chứ đừng nghĩ người ta phản động.   Nguồn: FB Nguyen Tuan
......

Vì sao phá ngục lại là biểu tượng của cách mạng?

Đáp lại những ý kiến không thuận về án tù giam cho Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh, hệ thống thông tin nhà nước hẳn sẽ cho rằng một vụ án hình sự đã bị các thế lực thù địch chính trị hóa, dù thực tế, các cấp chỉ đạo họ thừa biết mức độ chính trị của vụ việc.   Hình phá ngục Bastille   Tôi đã tự hỏi: đưa Bùi Thị Minh Hằng vào án là một cơ hội ngẫu nhiên hay đã được toan tính từ đầu, mà mồi nhử là sự vụ với Nguyễn Bắc Truyển trước đó? Phải chăng, theo quan niệm “cảnh giác cách mạng”, một Nguyễn Bắc Truyển nay có gia đình vợ sống ở vùng có tín đồ Phật giáo Hòa Hảo (và cả các họ đạo Cao Đài) là đã quá đủ, hiện diện thêm một Bùi Thị Minh Hằng vừa dấn thân và hiệp nghĩa, vừa xông pha, ứng biến và lợi khẩu…, là sẽ quá thừa những bất ổn tiềm tàng? Bởi, cho dù chính quyền không hề sợ Bùi Thị Minh Hằng (hay bất kỳ người hoặc nhóm người nào) thì họ vẫn sợ cái cảm hứng (nằm xuống để đất nước này) đứng lên mà Bùi Thị Minh Hằng có thể sẽ trực tiếp truyền sang người dân nơi này. Dù việc “xây dựng” án ra sao và mức án như thế nào, thì giới quan tâm thời cuộc cũng đã quá hiểu sự “bình thường” của công lý ở xứ sở này, nhưng hòn đá mà phiên tòa đó quăng thêm vào, trên con đường đi tới đã lởm chởm gạch đá của Việt Nam, là điều khó tránh khỏi trong suy nghĩ. Không thể không lo âu trước việc chặn giữ, bắt bớ, hành hung những người muốn đến phiên tòa “công khai” ấy. Theo dõi thông tin trong ngày xử, cảm giác như có sự ruồng bố khắp Bắc, Trung, Nam với nhiều thứ “nghiệp vụ”, cốt để những người bị xử không nhận được sự hậu thuẫn tinh thần và hỗ trợ chứng lý tốt nhất có thể. Cho dù ai ủng hộ sự cản trở này, chỉ cần một ít lương tri, cũng biết rằng những việc đó xâm phạm quyền tự do đi lại và tự do cư trú. Nhưng điều đáng ngẫm là, sâu hơn thế, sự xâm phạm hiển nhiên này, và mọi thứ chà đạp khác lên quyền con người, từ lâu đã được khoác chiếc áo chính nghĩa, với biện minh rằng vì sự nghiệp cách mạng, có thể dùng đến mọi biện pháp cách mạng. Và theo lẽ ấy, không một “biện pháp nghiệp vụ” nào mà lại không là biện pháp cách mạng. Nó đã trở thành lý lẽ tự nhiên đến mức hồn nhiên, đánh dân cũng vì công việc chung. Những năm gần đây, việc truy đuổi, hành hung, dẫn đến cái chết hoặc gây thương tích cho dân cứ nở rộ lên. Có ai trong chính quyền đã tự hỏi tình trạng đó phần nào là hiện tượng “đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt” khi công an, an ninh và các loại công cụ sống của họ ở các địa phương đã quá quen với việc truy bức, đánh đập những người bất đồng chính kiến và các nhà hoạt động khác, mà không bị xem là phi pháp và xử lý theo pháp luật? Với tinh thần chính nghĩa bất chấp tất cả đó, từ những “nghiệp vụ” nhỏ đến sự xâm hại lớn chẳng là bao xa, và cũng chẳng dễ dàng thức tỉnh. Hầu như những kẻ sống bằng quyền lực chuyên chế, đến ngày tàn của chế độ hay khi đứng trước sự phán xét, vẫn tin vào cái chính nghĩa bất chấp của mình. Chẳng hạn, các biện pháp tàn bạo của Khmer Đỏ thực chất cũng chỉ là “cưỡng chế” các quyền con người căn bản: quyền thân thể và sinh mạng, quyền cư trú và đi lại, quyền ngôn luận, quyền hôn nhân…, nhằm tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Thế mà, trong khi cả loài người đều thấy rõ sự sai trái đó, thì bản thân họ lại không. Tại những phiên tòa xử các lãnh tụ Khmer Đỏ, kẻ thì dứt khoát rằng chẳng gây tội gì với nhân dân Campuchea mà là do Việt Nam, kẻ thì nói chỉ do cấp dưới làm. Quay lại phiên tòa Đồng Tháp, sự bất chấp dường như đã ở một nấc mới khi đã triệt tiêu thành công mọi cố gắng đến gần nơi xử. Đó là nối tiếp thành công của việc triệt tiêu lần tổng biểu tình thứ hai chống giàn khoan 981, và hẳn sẽ được nhân rộng “mô hình” cho những sự vụ tương tự lần sau. Cái nguy cơ tiềm tàng của thành công kiểu này là người dân mất hết cơ hội biểu thị thực tế sự phản đối của mình một cách hòa bình. Thay vào đó, khả năng biểu thị phi hòa bình sẽ tăng lên một khi những bất bình xã hội cứ tiếp tục tích tục và dồn nén. Cơ hội chuyển đổi hòa bình thì vẫn luôn có, nhưng phiên tòa này đem lại một nỗi lo, là khả năng đối đầu và hỗn loạn cũng đã tăng lên, tương ứng với sự nâng cấp của ý chí triệt hạ những tiếng nói và hành động tự do.   Cái ý chí đấy lắm khi khiến người ta phải tức cười. Như ở bản án này, không kể việc phải quàng cho được án từ chuyện đi xe hàng ba, tình tiết chỉ đúng một cái đánh vào tay, không chút trầy xướt, mà bị cáo không thừa nhận, cũng bị quy tội hành hung công an, khiến tôi phải phì cười mà nghĩ: lực lượng bạo lực sao ngày càng “mong manh, dễ vỡ” đến thế. Tôi liên tưởng ngay đến đến chuyện vì âu lo người thi hành công vụ bị tổn thương sức khỏe và tinh thần từ hai cái tát (trong đó một cái vào mũ bảo hiểm) nên người ta quyết giam sáu tháng (ban đầu là chín tháng) một nữ sinh có bệnh về thần kinh, bất chấp tương lai học hành của cô bé. Cũng vì sự tổn thương của những nam nhi có quyền hành mà trong vụ khác, một cô gái phải ngồi tù hai năm (ban đầu là ba năm) bởi cắn hai vết. Cùng lúc, tôi cũng nhớ đến vụ một câu nói năm năm tù, đến những vụ án mà với vài con vịt, nhiều người phải ở tù nhiều năm. Tôi cũng sực nhớ đến một vụ đã lâu (thời Việt Nam chỉ có báo giấy, chưa có internet), ở một tỉnh miền Trung, dân nghèo vì trộm cáp của đường dây cao thế mà chịu án tử vì (bị cho là) xâm phạm an ninh quốc gia… Bất giác, tôi “khai sáng” cho mình một điều mà từ lâu đã tự đặt sang một bên, không lý giải. Đó là việc phá ngục Bastille mở đầu cho Đại Cách mạng Pháp 1789. Lần đầu tiên biết chi tiết này hồi trung học, tôi đã thắc mắc: vì sao giải thoát tội phạm lại là biểu tượng của cách mạng? Giờ, từ hiện thực tôi hiểu được lịch sử. Thì ra, trong trong nhà tù chuyên chế, không chỉ có những kẻ “đúng người đúng tội”, mà còn là nơi giam cầm chính những sản phẩm-nạn nhân của một xã hội đã băng hoại mọi giá trị, nơi thi hành những bản án oan ức từ sự lượng tội tắc trách hay lượng hình độc đoán, nơi nối tiếp tận cùng sự bất công đối với những người dân bị tước đoạt điền sản bằng quyền lực, nơi hoàn tất những vụ án ngụy tạo với những ai chỉ muốn thực thi quyền con người vốn có và chống lại sự bạo ngược của cường quyền… 02-05/09/2014 Nguồn: procontra.asia
......

Tranh luận cần thiết và hữu ích

Hy vọng cuộc tranh luận trong Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam là hữu ích Thưa các anh. Bước đầu, chúng ta đã có thể thở phào, khi được nghe cả 2 anh Phạm Chí Dũng và Ngô Nhật Đăng phát biểu trên RFA, nói chung là đúng mực và xây dựng. Nhưng bây giờ phải ngồi lại với nhau, thẳng thắn bàn những việc căn bản. Nội quy tuy đã có như trong quá trình hình thành cần kịp thời tu chỉnh. Tôi xin phép được góp mấy ý kiến, mong được cả 2 trang Web và Facebook đều chấp nhận đăng. Kính thư Hsp   Vừa qua, một số bài tranh cãi nảy lửa giữa mấy thành viên chủ chốt trong Hội nhà báo Độc lập (ngay lúc sơ sinh mới tròn 2 tháng tuổi) không khỏi làm cho nhiều người lo lắng trước nguy cơ tan vỡ, nói ví von thì “khiến cho kẻ thù khoái trí người thân đau lòng”. Phạm Chí Dũng - Ngô Nhật Đăng Nhưng cuộc giãi bày tâm tư trong một bài phỏng vấn của chính hai “đối thủ” trẻ đang “so găng” (nói vui thế cho thân mật), nhà báo kiêm chủ bút Phạm Chí Dũng và blogger Ngô Nhật Đăng, đã khiến cho những người trong cuộc tạm thời có thể thở phào, cơn giông bão tạm qua để cùng ngồi lại với nhau bàn lại những chuyện căn bản. Mong sao sự “thở phào” này không trở thành vô duyên. Cuộc tranh cãi trong một hội có tên là “hội nhà báo độc lập” thì tất nhiên xoay quanh quan niệm làm báo và viết báo. Cái đích hướng tới thì quá lớn: phải dân chủ hóa đất nước để hồi sinh một dân tộc đã quá mệt mỏi, chán chường, nhân tâm ly tán, đang lao vào sống gấp hoặc sống cam chịu, để tìm lại sức chiến đấu cho một cuộc vừa chống nội xâm vừa chống ngoại xâm, đáp ứng nhu cầu xây dựng xã hội và bảo vệ đất nước trước họa ngoại xâm đã đến bên thềm! Nhiệm vụ đã khó tày trời lại phải tiến hành trong điều kiện chưa được tự do và hầu như tay trắng! Thật là một bài toán đố hóc búa, trong tình hình như vậy thì giữa những người tiên phong nếu không tranh cãi kịch liệt mới là chuyện lạ. Tôi mừng vì đã có tranh cãi, mà tranh cãi quyết liệt, và hy vọng sẽ được tiến triển theo chiều hữu ích. Thật vậy, có hai luồng suy nghĩ: - nên tìm sức mạnh ở tính có tổ chức, có chỉ đạo nhất quán, có điều lệ bài bản tương đối, có một đầu mối chỉ huy (coi là phương án 1), - hay bước đầu cứ tạm lỏng lẻo, mạnh dạn khơi dậy tính năng động đa dạng rồi từ thực tế sẽ phát hiện, sàng lọc và hun đúc ra cái tối ưu (coi là phương án 2)? Phương án nào có độ an toàn và hiệu quả cao, có độ phiêu lưu (rủi ro) thấp nhất? Thực ra xã hội loài người vốn đã phải đối mặt với hai con đường này quá nhiều rồi. Phương án 1 sẽ là tuyệt vời nếu có một minh quân, một thủ lĩnh tuyệt vời muôn năm, và phương pháp là cho thủ lĩnh đó càng độc quyền càng tốt, càng nhanh đến đích. Nhưng nếu có rủi ro thì rủi ro sẽ cực lớn khó lòng cứu vãn, kiểu được ăn cả ngã về không!. Chủ nghĩa CS đã đi đúng con đường đó và kết quả là đảng CS đã “ăn cả” còn nhân dân thì đã “về không”, vì biết bao người “chân chính” đã đinh ninh là tìm được Minh… quân rồi nên quyết lao theo, không tiếc cả mạng sống! Vẻ bề ngoài thì đó là bản lĩnh, là kiên quyết nhưng thực chất đó là tư duy ngại khó nên muốn liều đi thẳng một phen cho đơn giản. Phương án thứ hai thì “cứ phải có nhiều để chọn lọc”! Tất nhiên đã nhiều thì tốt xấu cùng xuất hiện, xen kẽ nhau, nên phải thi đua, phải cạnh tranh, phải cọ xát. Các thủ lĩnh ham quyền thường không ưa sự thi đua “mất thì giờ” này, nhưng nhân dân thì được lợi. Nêu ra hai đường lối ấy chẳng qua là điển hình hóa rành mạch cho dễ hiểu thôi. Trường hợp cụ thể của Hội nhà báo độc lập chúng ta không phải điển hình như vậy đâu, có mặt thế này, có mặt thế khác, nên phải dung hòa. Để khỏi mất thì giờ, xin cho phép tôi, với tư cách một hội viên, thử nêu mấy giải pháp dung hòa như sau: 1/ Vẫn có tính tổ chức của một hội nghề nghiệp nhưng tạm thời chỉ nên lỏng lẻo. Đừng “bắt” Hội trưởng Phạm Chí Dũng phải chịu trách nhiệm quá nặng nề, cái gì cũng đổ lên đầu Chủ tịch hội thì TS Dũng không chịu nổi đâu. Nói chữ nghĩa thì đó là sự phân quyền, đồng thời phân trách nhiệm, sẽ nói rõ trong những phần sau. 2/ Là Hội nhà báo tất nhiên phải ra báo, nhưng ngoài ra còn những hoạt động khác. Cần có một tờ báo của hội (đang là Việt Nam thời báo), nhưng ông Phạm Chí Dũng không làm trưởng Ban biên tập, để có thì giờ lo công việc chung. Ban Biên tập cũng không nên quá thuần nhất. 3/ Ngoài tờ báo chính thức của Hội, các cá nhân hội viên hoặc các nhóm hội viên cùng ý tưởng có thể ra các Blog hay Facekook khác nhau (nghĩa là có thể nhiều chứ không phải chỉ một Facebook của ông Ngô Nhật Đăng hiện nay). Báo của nhóm nào thì nhóm ấy phải chịu trách nhiệm mọi mặt về tờ báo của mình. Ban Chấp hành Hội chỉ có trách nhiệm liên đới. 4/ Vì có trách nhiệm liên đới nên khi một nhóm nào định ra báo cần thảo luận trước với BCH, trên manchette phải có 2 dòng, một dòng “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam” và dòng dưới là tên cụ thể của nhóm, của phân hội ra báo đó. Các báo của nhóm (hay phân hội) được quyền tự biên tập, không cần BCH hội phải duyệt. Nhưng sự tự do ấy cần theo tinh thần hợp tác, nhìn nhau mà làm, khi có vấn đề quan trọng thì cần phối hợp, và điều này không cản trở quyền tự do tư tưởng và tinh thần tự do báo chí của hội viên. 5/ Tổ chức nào, càng sơ khai càng phải coi trọng tính “nội bộ”. Những ý kiến trao đổi cá nhân hoặc trao đổi nội bộ, muốn đăng công khai phải được sự đồng ý của cá nhân đó hoặc tập thể đó. Vi phạm nét văn hóa trao đổi này sẽ phá vỡ sự đoàn kết, phá vỡ sự tin cậy để đàm thoại, và dẫn đến sự phân ly không thể khác. 6/ Vì nhu cầu ra báo nên ngoài sự phân chia thành 3 chi hội Bắc-Trung-Nam có thể thành lập các nhóm hay các phân hội theo sự tương đồng về ý tưởng, về sở trường, sở thích. Các nhóm hãy đặt một tên cho nhóm mình để dễ xưng danh, dễ gọi. Một mặt về phía hội viên cần chia nhỏ để dễ gặp nhau, dễ sinh hoạt, nhưng một mặt không để tình trạng BCH hội bị đơn độc như thời gian vừa qua. Ở Hà nội và nhất là Sài gòn cần bổ sung thêm người vào BCH, đại diện được nhiều thế mạnh khác nhau, để cùng hỗ trợ nhau. Thực tế vừa qua Chủ tịch Hội phải gánh quá nhiều việc trong khi lại đơn độc, thiếu sự hỗ trợ của một tập thể các ủy viên. Mấy ý chắc còn vội vàng, xin mạnh dạn góp vào công việc của Hội, và xin chúc thành công. Đà Lạt 7/9/2014H.S.P
......

Việt Nam: 20 cựu sĩ quan đòi Nhà nước minh bạch quan hệ với Trung Quốc

Ngày 02/09/2014, 20 cựu sĩ quan tướng lãnh quân đội và công an Việt Nam đã gửi một bản Kiến nghị đến các lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng chính phủ không huy động quân đội và công an vào « bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân », làm rõ các khuất tất trong quan hệ với Trung Quốc, « khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh » trong các xung đột vũ trang với Trung Quốc.   Hội kiến giữa các lãnh đạo Việt Nam (từ phải qua, các ông Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh) và Trung Quốc (từ trái qua, Lý Bằng, Giang Trạch Dân). Cuộc hội kiến trong ảnh được cho là diễn ra tại thành phố Thành Đô, Trung Quốc, năm 1990. (DR)   RFI đặt câu hỏi với cựu Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang (Hà Nội), một trong những người ký tên vào bản kiến nghị này.   Kiến nghị đầu tiên của các thành viên lực lượng vũ trang RFI : Thưa ông, trong Kiến nghị này các cựu sĩ quan Việt Nam muốn chuyển tới chính quyền thông điệp gì ? Ông Nguyễn Đăng Quang : Theo trí nhớ của tôi, đây là Kiến nghị đầu tiên của một số sĩ quan Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân gửi đến lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ liên quan đến các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp đối với hai lực lượng này. Trước đây, nhiều sĩ quan quân đội và công an có tham gia ký vào nhiều Kiến nghị, nhưng những Kiến nghị đó thuộc nhiều thể loại khác nhau. Còn đây là Kiến nghị riêng của các sĩ quan thuộc các lực lượng vũ trang, tức của quân đội và công an, đề cập đến các vấn đề cụ thể. Đây là Kiến nghị đầu tiên của chúng tôi, 20 sĩ quan tham gia ký, không ký chung với các vị ngoài lực lượng vũ trang. RFI : Thưa Đại tá, vì sao lại cần đến một Kiến nghị riêng của các thành viên lực lượng vũ trang như vậy, trong khi những vấn đề được nói đến ở đây, về nguyên tắc, liên quan đến mọi công dân Việt Nam ? Ông Nguyễn Đăng Quang : Ngồi trao đổi với nhau, chúng tôi thấy cần phải có một Kiến nghị đi theo một chuyên đề, theo từng lĩnh vực. Chúng tôi trong lực lượng vũ trang thì có thể nắm vững hơn, hiểu biết sâu sắc hơn, những mục đích, nhiệm vụ chúng tôi được giao phó. Kiến nghị đầu tiên của chúng tôi (trong bản Kiến nghị này) là chúng tôi muốn lực lượng vũ trang nói chung phải làm tròn nhiệm vụ mà Hiến pháp và pháp luật quy định. Quân đội được giao phó nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chống xâm lăng, thì chỉ được sử dụng quân đội vào mục đích đó mà Hiến pháp quy định, chứ không thể sử dụng vào các mục đích ngoài nhiệm vụ đó. Ví dụ như, không được huy động quân đội vào các vụ việc mang tính đối kháng với Nhân dân, chẳng hạn như vấn đề giải tỏa đất đai, hay ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa của người dân. Còn đối với công an, có nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp, pháp luật là bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội… Thì lực lượng công an được huy động vào những việc như thế. Nhưng trong vấn đề này, có những việc như giải tỏa đất đai chẳng hạn, lực lượng công an được sử dụng vào việc này, nhưng phải phân biệt cho thật rạch ròi, tức là công an được phái đến để bảo đảm trật tự cho việc thu hồi đất đai, chứ chiến sĩ công an không phải là người trực tiếp để vào làm những động tác hay hành động thu hồi, giải tỏa. RFI : Trong ý thứ hai của Kiến nghị có nhận xét chính quyền « cố tình phớt lờ » cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979 và một số cuộc chiến khác tại các vùng biển đảo. Thực tế trong ít năm gần đây, có hiện tượng chính quyền một số địa phương quan tâm đến việc thăm hỏi, quà cáp, hay đãi ngộ đối với một số gia đình tử sĩ và cựu chiến binh. Vậy ông nghĩ như thế nào về điều này ?   Ông Nguyễn Đăng Quang : Chúng tôi cũng ghi nhận trong hai, ba năm gần đây, Nhà nước ở trung ương, cũng như chính quyền ở một số địa phương có những việc làm cụ thể để ghi nhận công lao và thành tích của những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, cũng như các thương binh, gia đình liệt sĩ có công trong cuộc chiến tranh này. Chúng tôi ghi nhận điều đó, nhưng chúng tôi thấy điều đó chưa đủ. Cuộc chiến tranh 1979 cho đến bây giờ vẫn chưa được Nhà nước tổng kết như là các cuộc chiến tranh khác. Và Nhà nước chưa có chính sách công khai, đầy đủ với những người đã ngã xuống, gia đình những người có con em hy sinh hoặc bị thương tật trong cuộc chiến tranh này. Cho nên đây là một việc mà Nhà nước cần công khai làm rõ. Nhà nước Việt Nam vẫn chưa nhìn nhận chiến tranh với Trung Quốc như các cuộc chiến khác Thứ nhất phải tổng kết đầy đủ, thứ hai, đối với học sinh phổ thông phải nói rõ đây là cuộc chiến tranh chống xâm lăng bảo vệ biên giới, bảo vệ Tổ quốc ở phía Bắc. Trước kia, kể từ năm 1979 đến 1989, trong 10 năm sau chiến tranh, Nhà nước tổ chức rất đàng hoàng các cuộc mít tinh kỷ niệm cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc, để Nhân dân được biết. Nhưng từ năm 1990, tức sau Hội nghị Thành Đô, thì cuộc chiến tranh này đã bị lãng quên, thậm chí hoạt động kỷ niệm của người dân bình thường để tưởng nhớ đến cuộc chiến tranh này, thì cũng không được hoan nghênh, hoặc là bị ngăn cản, bị trấn áp, hạn chế. Về mặt chính thức, theo chúng tôi, Nhà nước phải có đối xử với cuộc chiến tranh này giống như hai cuộc chiến chống Pháp, Mỹ trước đây. RFI : Xin Đại tá cho biết ông suy nghĩ như thế nào về những điều tồn nghi, hay còn nằm trong vùng tối của lịch sử liên quan đến cuộc chiến tranh biên giới kéo dài ở phía Bắc, hay xung đột tại quần đảo Trường Sa năm 1988 (các binh sĩ Việt Nam gần như không vũ khí được đưa ra đối mặt với đối phương với vũ trang hùng hậu) ? Ông Nguyễn Đăng Quang : Đối với cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 nổ ra dồn dập hơn 1 tháng. Quân đội Trung Quốc rút đi rồi thì không phải là kết thúc. Có những trận chiến tại điểm cao 1509 (tỉnh Hà Giang trước đây), mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn, thì diễn ra tới cả năm 1984. Những cuộc chiến sau tháng 2/1979, thì nên gặp hỏi Thiếu tướng Lê Duy Mật, lúc đó ông là Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận Hà Giang, là người trong cuộc hiểu rõ nhất. Trung Quốc đã xâm lược, chiếm lĩnh được một diện tích tương đối lớn, hàng mấy trăm km² đất của Việt Nam. Hiện nay, nhiều sĩ quan quân đội nói với tôi là có hàng ngàn chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh còn nằm trên đất Trung Quốc hiện nay, mà mình chưa đưa về được. Hàng ngàn thi hài bên kia biên giới và những người tay không "bảo vệ" đảo Còn cuộc chiến trên biển đảo tại đảo Gạc Ma năm 1988. Tại đảo chìm này lúc đó có một đại đội công binh thực hiện việc xây dựng, chỉ được trang bị các vũ khí nhẹ. Trước một lực lượng rất hùng hậu của hải quân Trung Quốc, cấp trên ra lệnh không được nổ súng, sợ « mắc mưu địch ». Với hỏa lực như thế, mình không đủ sức chống chọi, gần 100 người hy sinh. Và sau đó, Việt Nam mất đảo Gạc Ma về tay Trung Quốc. Bây giờ Trung Quốc đổ đất đá để đảo này nổi lên để biến nơi này thành một căn cứ quân sự tại quần đảo Trường Sa. RFI : Có thể nói là lãnh đạo Việt Nam lúc đó đã không có chiến lược để bảo vệ đảo này ? Ông Nguyễn Đăng Quang : Nói như thế cũng có thể đúng. RFI : Liên quan đến vấn đề Hội nghị Thành Đô, trong khi chờ đợi câu trả lời rõ ràng từ phía các lãnh đạo Việt Nam, xin ông cho biết quan niệm của ông : Liệu có những bằng chứng nào cho thấy một thỏa thuận như vậy là có thật ? Ông Nguyễn Đăng Quang : Hội nghị Thành Đô diễn ra cách đây 24 năm rồi. Nhưng nội dung của thỏa thuận Hội nghị Thành Đô mà hai bên ký kết cho đến nay vẫn nằm trong vòng bí mật, tức là cả hai bên chưa bên nào công khai hóa. Nhưng qua thực tiễn, xã hội có thể thấy rõ, từ năm 1990, sau khi có thỏa thuận Thành Đô, thì Nhà nước, chính quyền không nhắc đến cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nữa. Đấy là điều rõ ràng nhất. Còn cái tin của Hoàn Cầu thời báo của Trung Quốc, và có người nói cả Tân Hoa Xã cũng nói rằng trong Hội nghị Thành Đô này, Việt Nam mong muốn trở thành một khu tự trị của chính quyền trung ương Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Tây Tạng, Nội Mông hay Quảng Tây của Trung Quốc… "Thỏa thuận Thành Đô" : Âm mưu chia rẽ của truyền thông Trung Quốc ? Về chuyện này, cá nhân tôi, tôi không tin là có thật. Tôi không tin là lãnh đạo Việt Nam thời đó đã làm một việc như thế này. Họ bịa ra thông tin này, để phân hóa, chia rẽ nội bộ Việt Nam. Như trong Kiến nghị nói : « Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ ». Tôi cho rằng đây là một việc làm rất cần thiết, vì qua việc này, mình có thể phủ nhận thông tin mà phía Trung Quốc, cụ thể là tờ Hoàn Cầu thời báo tung lên. Cho nên, tôi hy vọng rằng lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ nên lấy dịp này để chính thức phủ nhận thông tin của Hoàn Cầu thời báo và Tân Hoa Xã. RFI : Trong công luận, về thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô, mọi người thường nghe nói đến Hồi ký của Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, hay quan điểm của cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch về « một thời kỳ Bắc thuộc mới », các cựu sĩ quan nghĩ như thế nào về nhận định của các lãnh đạo ngoại giao Việt Nam thời đó, thưa Đại tá ?   Ông Nguyễn Đăng Quang : Câu đánh giá, nhận xét của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch về kết quả hội nghị Thành Đô, tức là câu « Thế là một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu », mà người ta cho rằng đây là câu nói của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, thì thực ra cho đến nay, cá nhân tôi cũng như nhiều người khác thấy rằng chưa thấy có đủ cơ sở để chứng minh. Ngoại trưởng nói với ai, cụ thể như thế nào, chưa có tài liệu nào xác nhận điều này cả. Nhưng nếu Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch có nhận định như thế, thì tôi tin trong Hồi ký của ông, chắc chắn sẽ đề cập đến vấn đề này, khẳng định vấn đề này. Còn Hồi ký của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đến khi nào sẽ công bố, tôi cũng không biết được có công bố hay không, và nếu có thì khi nào. Điều đó thuộc về gia đình quyết định. RFI : Kiến nghị này, thưa ông, đã nhận được phản hồi gì chưa ? Ông Nguyễn Đăng Quang : Kiến nghị này được gửi đi từ ngày 02/09. Bản thân tôi cũng như các vị khác ký Kiến nghị này nhận được rất nhiều điện thoại, thư từ email hoặc tin nhắn, của nhiều người trong công an và quân đội, bạn bè trên toàn quốc, và cả ở nước ngoài, tỏ sự hưởng ứng, ủng hộ, đồng tình với Kiến nghị rất cao. Nhiều người còn đề nghị cho họ tham gia việc ký tên. Nhưng chúng tôi trả lời là Kiến nghị đã được gửi bằng đường chuyển phát nhanh cho Chủ tịch Nước và Thủ tướng chính phủ rồi. Bây giờ chúng tôi không chủ trương lấy chữ ký nữa. Còn việc hưởng ứng đồng tình với Kiến nghị, thì các vị cứ thể hiện trên phương tiện thông tin đại chúng. Điều đó chúng tôi rất hoan nghênh. Đối với nơi nhận, tức Chủ tịch nước và Thủ tướng, thì chúng tôi chưa nhận được hồi âm. Trong một hai tuần nữa, hy vọng sẽ có hồi âm.   Ảo tưởng chung ý thức hệ Về đất nước, chúng tôi có nhiều trăn trở lắm. Hiện nay, nhiều người có xu hướng (nghĩ rằng) các quốc gia có cùng ý thức hệ với nhau, thì không có khả năng xẩy ra chiến tranh, nhưng thực tế lịch sử có nhiều việc phủ nhận suy nghĩ này. Chiến tranh biên giới Trung – Xô năm 1969 rất lớn. Rồi chiến tranh biên giới phía Bắc 1979, rồi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, Trung Quốc cũng mượn tay Khmer Đỏ gây hấn với Việt Nam, và có ý đồ sử dụng lực lượng này làm suy yếu Việt Nam, gây nên đại diệt chủng. Những ai còn hy vọng là cùng một ý thức hệ, sẽ nhân nhượng nhau, hòa hoãn với nhau không để xảy ra chiến tranh, thì tôi cho đó là ảo tưởng. RFI : Xin chân thành cảm ơn Đại tá Nguyễn Đăng Quang. Ông Nguyễn Đăng Quang (Hà Nội) Bấm vào nghe - http://www.viet.rfi.fr/aef_player_popup/rfi_player# Nguồn: viet.rfi.fr
......

Tâm địa đại Hán - ngàn năm không đổi.

Trong tình hình hiện nay, khi giới lãnh đạo đảng CSVN đang lập lại các tiểu Thành Đô - khẩn khoản cầu hòa sau những hành động xâm lấn của Bắc Kinh vào chủ quyền Việt Nam, thì việc ôn lại những dữ kiện lịch sử như bài khảo cứu sau đây của Gs. Nguyễn Huệ Chi là điều rất cần thiết. Xin trân trọng giới thiệu một lần nữa đến quí độc giả. BBT Thủ đoạn tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam của Minh Thành Tổ trong cuộc chiến tranh xâm lược 1406-1407   Nguyên đây là một phần trong thiên khảo luận dài có tên “Cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm lược Minh và văn học yêu nước thế kỷ XV cùng những bước nối tiếp về sau” viết năm 1980, in trong công trình Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi (NXB Giáo dục, 2013) đã được phê bình, giới thiệu trên nhiều trang mạng và báo chí trong nước thời gian gần đây. Diễn Đàn trân trọng cảm ơn GS Nguyễn Huệ Chi đã cho phép trích đăng bài viết đó để giúp bạn đọc nhìn sâu vào một khía cạnh đặc biệt thâm hiểm của Hoàng đế Minh Thành Tổ – kẻ thiết kế toàn bộ kế hoạch đánh chiếm Việt Nam ở đầu thế kỷ XV: âm mưu đồng hóa người Việt bằng một chủ trương rất bài bản và “cao tay”... là lệnh cho quân lính xóa sạch tại chỗ văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc Việt tại những nơi chúng tràn đến như nước lũ. Hầu hết cứ liệu để cập trong bài được rút từ một cuốn sử Trung Quốc – cuốn Việt kiệu thư 越 嶠 書 của sử thần Lý Văn Phượng 李 文鳳, soạn năm 1540. Bauxite Việt Nam --------------------------   Vào năm cuối cùng của thế kỷ XIV, lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam diễn ra một bước ngoặt: Hồ Quý Ly lật đổ ngai vàng của nhà Trần mà thành lập một triều đại mới – triều đại nhà Hồ. 32 năm trước đó, năm 1368, lịch sử chế độ phong kiến Trung Hoa cũng đã từng diễn ra một bước ngoặt: nền thống trị của đế quốc Nguyên – Mông bị phong trào nông dân Trung Quốc đánh đổ; Chu Nguyên Chương nhảy lên ngai vàng với bộ lễ phục của một triều đại mới – triều đại đế quốc Minh. Trước sau 30 năm, trên hai đất nước láng giềng, các ông chủ mới đã lần lượt thế chân các ông chủ cũ. Nhưng tình hình đó tuyệt không làm thay đổi một chút nào mối quan hệ vốn có. Trái lại, nó chỉ càng làm nặng nề thêm những gì trong quá khứ vốn đã quá nặng nề. Những vị Hoàng đế nhà Minh – mới nắm được “ngôi trời” – cảm thấy mình còn dư sức, con mắt thèm khát nhìn ngay xuống mảnh đất giàu có phương Nam với lòng tự tin rằng, mình có thể làm được cái việc “chinh phục” Đại Việt mà những đế chế trước mình đã phải bó tay. Về phía các vua nhà Hồ, cố nhiên họ hiểu rất rõ dã tâm đó của “thiên triều”. Ngay khi vừa lên ngôi, họ đã tích cực chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó. Thế rồi, vào ngày 19 tháng 11 năm 1406, chiến cuộc đã nổ ra, gay gắt, chớp nhoáng. Nhà Hồ thất sách về chính trị và sai lầm chiến thuật về quân sự nên chưa đầy một năm sau đành lâm vào thất bại. Vua Minh lập tức cho đổi trở lại tên Đại Việt thành quận Giao Chỉ, quàng vội ách đô hộ lên khắp nước ta. Nhưng nhân dân Đại Việt vốn đã có truyền thống hàng nghìn năm cảnh giác với kẻ thù phương Bắc, đâu dễ dàng cam chịu ngồi yên. Và khi mà Minh Thành Tổ tưởng mọi việc đã xong, ra lệnh cho quân lính sửa soạn rút lui, thì cũng chính là lúc một phong trào kháng chiến cứu nước của nhân dân bắt đầu trỗi dậy. Rồi từ đó, hết phong trào này đến phong trào khác, cuộc chiến đấu vì độc lập của xã tắc đã kéo dài hơn 20 năm cho kỳ đến thắng lợi. *   Điều cần nói ngay là bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV đã hiện ra với tất cả vẻ khốc liệt và dữ dội. Không phải bản thân chiến cuộc 1406 với tầm mức gay gắt của nó quyết định sự dữ dội này. Mấy thế kỷ trước, đám chúa trùm phong kiến Tống, Nguyên chẳng cũng đã mở những cuộc tấn công quy mô xuống Đại Việt, và về so sánh lực lượng, lần tấn công nào của họ mà lại không có cái thế tưởng như áp đảo kinh hồn? Nhưng vấn đề đặt ra trong cuộc xâm lăng lần này là nó nhằm thực hiện một mưu đồ còn hiểm sâu hơn cái việc cướp nước, giết dân thông thường, của một tên “Đại Hán” mà sự tàn bạo, xảo quyệt và man rợ trong thời đại của y có thể đứng vào loại nhất nhì thế giới. Ở tên Đại Hán đó có sự tích lũy tất cả những kinh nghiệm tàn ác của cha ông y trong quá khứ, kết hợp với những mánh khóe ranh ma mới mẻ nhất mà thời đại mới mang lại cho y. Chính vì vậy, nguy cơ của cuộc xâm lăng lần này đã đặt người dân Đại Việt trước một yêu cầu thức tỉnh toàn diện để có thể đứng vững, hơn thế nữa, để lớn vượt lên. Cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền và xây dựng đất nước của các thế hệ cha ông ta trong vòng hơn 20 năm (1406 - 1427) rõ ràng là một cuộc vật lộn oanh liệt mà kết quả đã tạo ra một bước đổi thay lịch sử phi thuờng. Nắm cho được bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV chính là nắm cho được hai điển hình đối lập tuyệt đối trong bước đổi thay lịch sử phi thường đó: kẻ thù là kẻ thù mới với những thủ đoạn xưa kia chưa từng thấy, nhưng về mặt mưu đồ và bản chất hiểm ác vẫn chính là hiện thân của những tên xâm lược cũ; và dân tộc ta tuy gắn bó với quá khứ sâu nặng nhưng lại là một dân tộc đang thăng hoa khỏi tầm vóc quá khứ, biểu hiện một sức mạnh hồi sinh.   Ngón đòn cổ điển nhất của các vị Hoàng đế phương Bắc trước hết là những âm mưu gây hấn đối với Việt Nam. Về phương diện này, nhà Minh đã tỏ ra không kém cạnh chút nào so với các triều đại cha anh của họ. Vì thế, cũng giống như tình hình của rất nhiều cuộc “Nam chinh” trong quá khứ, chiến cuộc 1406 thật ra đã được “thiên triều” chuẩn bị chu đáo trước đấy lâu lắm rồi. Vấn đề là về hình thức, phải tìm ra một cái cớ thích hợp để mà “sinh sự”, và về thực chất, phải làm sao dò thật trúng thực lực của Đại Việt để lượng sức mình. Hai mặt này thường vẫn gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình chuẩn bị âm thầm của họ. Năm 1377, chỉ mới chín năm sau ngày giành được địa vị “con trời”, ông vua Minh đầu tiên đã nóng nảy muốn vin cớ vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận trong cuộc thân chinh phương Nam (1377) mà cất quân sang hỏi... “tội” (!). Nhung “hỏi tội” một vị vua vì “chống nạn cứu dân” mà không may bị chết? Trước lời lẽ cứng rắn của Trần Đình Thâm, sứ giả nước ta, vua Minh đuối lý, không những phải cử người sang dự lễ viếng, mà còn đành phải gác lại bao nhiêu mưu kế những toan đem thi thố phen này(1). Dĩ nhiên, gác lại không có nghĩa là xếp bỏ hẳn, mà chỉ là buộc lòng nén lại những dự định bên trong ngày một sục sôi. Tháng 9 năm 1384, nhân cho quân lính tiến xuống đánh Vân Nam, vua Minh thảo công văn đòi nước ta cấp lương cho đạo quân “tiễu phạt” của y. Ta nhân nhượng. Rồi các năm 1385, 1386, vua Minh vẫn đưa ra những yêu sách vô lý, phiền hà. Nào bắt nộp hoạn quan, nào muốn tìm giống cây xứ nóng, thậm chí đòi cả voi để “thiên triều” mang đi đánh trận. Năm 1395, Minh còn trắng trợn sai bọn Nhâm Hanh Thái sang xin ta giúp 5 vạn quân, 50 con voi và 50 vạn hộc lương với dụng ý chộp bắt sứ giả của ta để kiếm chuyện. Nhưng Nhâm Hanh Thái lại mật báo cho ta biết trước, vì thế ta đã kịp thời đề phòng, chỉ cho chở một ít lương lên biên giới rồi rút về ngay chứ không cấp lính và voi. Một vài ví dụ như trên cũng đủ thấy tên lãnh chúa phong kiến phương Bắc mới phất lên này nóng lòng dòm ngó Đại Việt đến đâu. Nhưng mặt khác, một thực tế cũng dễ thấy là mặc dù rất tham lam, các ngài ngự “Đại Minh” vẫn phải kéo dài việc chuẩn bị xâm lược suốt 30 năm, từ đời vua cha đến đời vua cháu(2). Vì sao có cái mâu thuẫn hết sức lạ đời đó? Chắc hẳn trong khi rút kinh nghiệm quá khứ, bài học thảm bại chưa xa xôi gì của những kẻ “đi trước” đã không khỏi làm cho các ngài đâm ra e ngại, trùng trình: “Nước An Nam tuy ở góc biển nhưng xưa kia đã là quận huyện của Trung Quốc. Từ đời Ngũ quý về sau sức ta không còn chế ngự nổi họ. Qua Tống đến Nguyên, tuy muốn mưu đồ nhưng không thành, chỉ để tiếng chê cười cho hậu thế”(3). Đấy là lời thú nhận của Minh Thành Tổ trong sắc chỉ y gửi viên Tổng binh Chu Năng – viên tướng đầu tiên cầm quân sang đánh Đại Việt theo lệnh của y – đề ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Cũng ở sắc chỉ đó còn nêu một lời nhận xét của Minh Thành Tổ về nguyên nhân thất bại của Tống và Nguyên: “Tống cũng như Nguyên đều cho quân sang đánh An Nam, nhưng tướng thì kiêu, binh thì lười, lại còn tham tài hiếu sắc, vì thế mà không thành”(4). Sự thật thì tuy làm ra vẻ cười ngạo tổ tiên mình, ông Hoàng đế khét tiếng về tham vọng và tàn bạo này cũng chẳng can đảm hơn bao nhiêu trên vấn đề xâm lược Việt Nam. Năm 1403, bốn năm sau khi Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, tình hình mâu thuẫn và bế tắc trong tập đoàn phong kiến Trần – Hồ không những không giải quyết được mà còn thêm gay gắt, cái cớ gây hấn đã có thể kiếm ra rất dễ, điều kiện gây hấn cũng đã hết sức thuận lợi; lại cũng là năm Minh Thành Tổ vừa dùng mọi thủ đoạn đoạt được ngôi từ trong tay cháu ruột của mình; ấy thế mà đối với nước ta, ông ta vẫn sợ và gờm, chỉ mới dám cho bọn hoạn quan người Việt trở về làm do thám một lần cuối, và chuẩn bị nội ứng, ước hẹn ngoài đánh vào thì trong cắm cờ vàng làm hiệu. Thế rồi, phải ba năm sau nữa, khi mọi yêu cầu tìm hiểu đã được đáp ứng đầy đủ, cảm thấy không còn một trở ngại nào đáng kể trên con đường tiến xuống kinh đô Đại Việt, Minh Thành Tổ bấy giờ mới thật quyết tâm khởi thế công. Một mặt, ông ta vờ làm to chuyện lên rằng đến lúc này không ai còn chịu đựng nổi những việc Hồ Quý Ly truất ngôi các vị vua Trần và giết hại đám con cháu nhà Trần (vốn là việc đã xảy ra sáu, bảy năm về trước!): “Bề tôi [cũ của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi lòng lang sói, rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc vương, tàn sát người trong dòng họ Trần, cả những bề tôi của họ Trần cũng trong vòng thảm khốc, bị hãm vào chỗ chết. Bọn chúng gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không yên sống, tiếng hờn oán dấy lên đầy đường”(5). Mặt khác, với ngón bịp sở trường từ tổ tiên mình truyền lại, ông ta lại cũng ra điều ta đây bất nhẫn, không định gây việc can qua làm gì, chỉ vì Hồ Quý Ly quá lắm nên phải động binh; song động binh mà vẫn rất nhân từ, muốn thu xếp ổn thoả bằng cách cho cha con họ Hồ “đem trăm vạn lạng vàng và một trăm con voi ra chuộc tội. Nếu không đủ thì cho phép đem châu ngọc bảo bối thế vào cho đủ. Có thế đại quân mới không tiến sang”(6). Kỳ thực, có đúng thế hay không? Trong đạo sắc bí mật gồm 10 điều căn dặn riêng viên Tổng binh Chu Năng – gửi mấy ngày trước ngày ban bố tờ chiếu công khai trên đây – Minh Thành Tổ đã thổ lộ “can tràng” của ông ta: “Nay sai Chu Khuyến, Trương Anh đem công văn của Bộ Lễ sang An Nam đòi nộp voi và vàng. Làm kế ấy để cho chí chiến đấu của chúng buông lỏng chứ không phải là thực bụng. Khi bọn Chu Khuyến ra đi, trẫm từng gặp mặt phủ dụ, bảo chúng đến nuớc họ chỉ ở lại 5 ngày, nếu 5 ngày chưa xong thì cho phép được bao nhiêu hãy cứ nộp truớc, sau sẽ sai người mang tiếp sang nộp cho đủ. Ngươi chờ cho bọn Chu Khuyến đi rồi thì đại quân phải tức khắc xuất phát theo sau. Nếu gặp kẻ đuợc phái sang nộp voi và vàng thì cứ bắt giữ lại để tra hỏi tin tức, nhưng đừng hở cho họ biết kẻ sai đi đã bị bắt... Nay bọn Chu Khuyến vào nước đó, mọi việc ngươi nhất thiết chớ hở ra cho ai biết”(7). Gớm ghê thay miệng lưỡi từ bi và lòng dạ thực của đấng “thiên tử”! Duy có điều là ngay cả vào lúc đó rồi mà ngài vẫn còn e dè gửi tiếp những sắc chỉ căn dặn: nào là “nước An Nam giàu mạnh đã lâu”(8), nào là “quân lính của họ tất có phòng bị trước”, nào là “cha con họ Lê – tức họ Hồ – lắm mưu mẹo giảo quyệt”, tuyệt nhiên không thể sơ hở hoặc xem thường. Trong nhiều đạo sắc, Minh Thành Tổ đều tỏ ý lo lắng khi quân mình vượt sông Phú Lương là chỗ hiểm yếu bậc nhất, sẽ thua mưu kế của Hồ Quý Ly. Y viết rõ trong một sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407) nói về đạo binh của Trương Phụ: “Cứ đóng quân mãi trên sông giằng co với giặc chính là rơi vào mưu kế của giặc Lê [Quý Ly] nhằm giữ chân quân ta thật lâu, đợi cho dịch lệ phát sinh; vì thế phá được mưu này thì phải thần tốc không được trì hoãn”(9). Rõ ràng, vừa khát thèm lại vừa e sợ, vừa hung hăng lại vừa lo ngại, vừa ráo riết sửa soạn lại vừa trù trừ cho đến tận phút cuối cùng, cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Minh ở thế kỷ XV quả đã không còn là ngón đòn mới mẻ gì đối với nhân dân Việt Nam. Bước ra quân ban đầu của “thiên triều” phải mang tính chất hai mặt: nhanh mà chậm, nóng mà lạnh, đánh thực mà cũng là đánh dứ, cũng chính là vì vậy.   *Tuy nhiên, đấy chỉ là cái dè dặt của buổi ban đầu. Khi đã dấn sâu vào đất nước ta, thấy rõ chỗ thất thế của nhà Hồ, bọn giặc xâm lược liền lộ hết vuốt nanh và hành vi táo tợn. Một chiến lược tập kích ồ ạt nhằm phá vỡ phòng tuyến chính để tiến thẳng đến Thăng Long, và từ Thăng Long đánh toả xuống phía Nam, được thi hành. Một chế độ thống trị ngoại bang được dựng lên chớp nhoáng ở khắp mọi miền, thành thị cũng như nông thôn mà chúng vừa đặt chân đến. Và một chính sách chém giết thẳng tay cũng được đem ra ban phát lập tức cho dân chúng. “Trương Phụ đi đến đâu là giết hại, hoặc chất thây người thành núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có kẻ mổ bụng người chửa, moi thai, cắt lấy tai của mẹ và con để tính làm hai mạng người”(10). Có thể nói, nói đến đặc điểm thứ hai trong chân dung của tên xâm lược mới ở thế kỷ XV là nói đến hình ảnh các viên quan cai trị nhà binh với tất cả những thủ đoạn giết người – trị người – dùng người gắn bó với nhau một cách tinh vi và nham hiểm. Sau nhiều lần cố gắng phản công ở Hàm Tử, Lỗi Giang, Điển Canh, Kỳ La,... nhưng đều thất bại, vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ cùng quẫn và bị bắt ở núi Thiên Cầm. Cả nước rơi vào tay giặc, và trở thành một lò sát sinh, một công trường lao dịch khổ sai, một nơi để giặc Minh thoả sức tìm tòi thức ngon của quý. Ngay trong những ngày đang trên đường tiến sang nước ta, bọn tướng tá viễn chinh đã nhận được sắc chỉ của vua Minh căn dặn hễ đến đâu là phải tịch thu hết giấy tờ, sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất đến đấy; phải lập ngay chế độ thuế khóa trên những vùng vừa chiếm đóng; và chú ý khai thác các mỏ bạc, mỏ vàng. Kể cả những mỏ nằm trên biên giới Việt – Chiêm, chưa rõ thuộc phần đất bên nào, cũng được lệnh cứ cướp lấy chứ không cần tra xét hư thực(11). Hai cơ quan Kim trường cục và Châu trường cục được thành lập, nhằm xua dân miền biển và miền núi vào mọi công việc đãi vàng, mò vàng, mò ngọc. Chưa hết. Còn chế độ lao dịch ở đồng quê, ở thành thị... Đâu đâu cũng cái cảnh “bị người Minh sai khiến mà mất cả gia thuộc”(12), “bị bắt hết làm nô tỳ và chuyển bán đi mà tan tác bốn phương” (13). Đẩy nhân dân Đại Việt đến chân tường, giặc Minh phải đâu đã thoả. Chúng còn tìm cách thâu tóm vào tay mình hoặc nếu không thì triệt cho hết trong đám người còn sống sót những ai thật sự có tài năng. Hễ nghe ở đâu trong các châu quận nước ta có thầy hay, thợ giỏi, bọn quan cai trị đều cho lập danh sách đem “tiến” về Yên Kinh. Các loại người bị tiến nhiều nhất là thầy thuốc, thợ thủ công, ca nữ tuyệt sắc, thầy bói và thầy địa lý;... Mỗi năm Minh hoàng lại gửi sang một lệnh. Mỗi năm, hàng nghìn người dân Việt lại lìa bỏ gia đình xứ sở, ra đi, để rồi không bao giờ trở về. Nhưng cho dù có tìm mọi mưu kế bắt và giết người dần mòn để bổ sung cho những cuộc tàn sát hàng loạt thì vẫn không thể nào là kế sách cai trị vẹn toàn. Giặc Minh biết vậy nên cũng lại ra sức thi hành một chính sách “mặt trái” rất khôn khéo: chính sách mỵ dân. Trong một đạo sắc, vua Minh khẩn khoản dặn đám tướng tá: hễ người dân Việt nào chống lại thì diệt kỳ sạch, nhưng ai đã đầu hàng thì phải tha ra, không giết bừa(14). Tưởng chừng đại Hoàng đế ngài nhân từ có một. Có ngờ đâu, tha, theo ý ngài, là bắt đem “cung hình” (thiến) nhất là đối với lớp người Việt trẻ(15), sau đó cung cấp cho cái chế độ quan liêu đồ sộ của Minh hoàng vốn đang rất thiếu nô bộc và thái giám hầu hạ!   Đặc biệt, trong chính sách dùng người, nhà Minh đã tỏ rõ khả năng vượt hơn những kẻ xâm lược xưa kia một bước rất dài. Trừ những chức quan cao cấp ra, chúng đặt người Việt vào mọi địa vị quan chức từ quận, huyện trở xuống. Và một chính sách lục dụng đám trí thức, quan lại cũ của Đại Việt được ban bố trong rất nhiều đạo sắc từ 1406 đến mãi những năm sau khi khởi nghĩa Lam Sơn đã nổi dậy, có thể nói là nhiều nhất trong số sắc chỉ của các vua Minh về vấn đề Việt Nam. Đây quả là một đường lối mà nhà Minh kiên nhẫn theo đuổi đến cùng. Có trường hợp những người có tên tuổi, hoặc có ảnh hưởng trong dân chúng như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất, Phạm Thế Căng, Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao,... chính vua Minh trực tiếp chỉ thị phải dụ dỗ cho bằng được(16). Có trường hợp khác như Bùi Bá Kỳ, bọn quan lại dưới quyền sơ ý để đến nỗi ông ta từ chỗ chạy sang Minh cầu cứu đến chỗ mất hết lòng tin tưởng, vua Minh cũng trực tiếp xuống chỉ rút kinh nghiệm về việc “dùng người” và than thở không thôi(17). Sự chu đáo trong chính sách “chiêu hồi” này còn biểu hiện ở cung cách chiêu hồi: tất cả đều được lập thành danh sách, mời về Yên Kinh khoản đãi và để cho bọn quan lại cao cấp nhà Minh chủ yếu là Hoàng đế “bồi dưỡng về lập trường quan điểm”, rồi sau đấy lại được trả trở về Giao Chỉ, phân bổ đi nhận các chức quan(18).   Nhưng thủ đoạn mỵ dân mà nhà Minh lưu tâm hàng đầu – và từ đây cũng sẽ đẻ ra nhiều nhiệm vụ phức tạp cho cuộc đấu tranh chính trị chống xâm lược – chính là một phương sách hai mặt: vừa triệt để thống nhất về bản chất với những tên xâm lược trong quá khứ, lại vừa làm ra vẻ giữa mình và quá khứ có một bước ly khai. Ngay trong đạo sắc 10 điều của Minh Thành Tổ đề ngày 8 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406) gửi viên tướng viễn chinh Chu Năng trên đường y cất quân sang Đại Việt, đã dẫn một phần ở trên, có một điều thứ tư rất đáng chú ý: “Hỏi xem cột đồng trụ hiện dựng ở đâu, phải đập cho nát và ném ra ngoài đường, để cho nguời trong nước đều trông thấy”(19). Chắc ai cũng phải lấy làm lạ: một bằng chứng “chinh phục” tiếng tăm của Mã Phục Ba thời Hán, cũng là một dấu vết của sự sỉ nhục mà người Việt nhiều đời đã phải ném đá chồng lên cho mất tích, ấy thế mà vua Minh lại bắt phá đi? Ông ta hớ hênh dại dột, hay ngông cuồng, hay thật bụng nhân đức? Đâu có phải vậy! Thực tình Minh Thành Tổ coi đây là một việc hệ trọng, và trong những sắc chỉ ban bố một năm sau đó, ông ta còn nhắc lại điều này(20). Dám hy sinh đến cả “sự nghiệp” vênh vang của “tiền nhân”, phải chăng tên đầu sỏ xâm lược ở thế kỷ XV muốn nhờ đấy đánh đổi lấy một bộ mặt mới, chí ít cũng giúp y che giấu phần nào cái bản chất “một đồng một cốt” giữa y với Mã Viện, để y có thể thừa cơ tung hoành? Có lẽ! Nhưng chắc chắn còn những lý do thâm trầm hơn. Kinh nghiệm xương máu đã cho tên trùm Đại Hán thấy, đụng đầu vào xứ sở Đại Việt quả là điều gay. Một cột đồng trụ những tưởng nhục mạ được dân Nam và trói chặt họ vào một cái mốc “chiến bại”, thì rốt cuộc cũng có nghĩa gì đâu khi mà, vượt lên trên tất cả những thứ cột mốc hình thức kia, một quy luật lịch sử lạnh lùng – mà ngay nhiều tên xâm lược cũng phải đành lòng thừa nhận – cứ tự nó phát huy tác dụng: “... dù có cướp được nước họ thì rồi cũng không thể giữ được”(21). Có nghĩa là chỗ khó khăn nhất, mà quả là khó, là làm sao biến được dân tộc Việt thành người Trung Quốc, để vĩnh viễn họ không còn tìm cách nổi dậy, và đất nước họ vĩnh viễn là quận huyện của “thiên triều”? Thủ đoạn đập phá cột đồng trụ của Minh Thành Tổ chính là một cách lý giải mới đối với bài tính nát óc này. Y quyết tâm phủ nhận những ràng buộc vô hiệu bề ngoài mà tìm kiếm những ràng buộc lợi hại hơn hẳn. Đó là những trói buộc nghiệt ngã trên lĩnh vực tư tưởng, những quy định có tính chất chuyên chế, độc đoán về sinh hoạt tinh thần. Lần đầu tiên, trong lịch sử xâm lược Đại Việt của bọn chúa tể phong kiến Trung Quốc, tên xâm lược nhà Minh áp đặt một cách gay gắt vấn đề hệ tư tưởng đối với xã hội Việt Nam. Trong bản bố cáo đề ngày 8 tháng Tư năm 1407, sau khi chiếm xong nước ta, Minh Thành Tổ dành hẳn một đoạn khá văn hoa để nhấn mạnh rằng, một trong những tội trạng của Hồ Quý Ly khiến “ngài” không thể không “chinh thảo”, là họ Hồ đã tự coi “đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn Ngũ đế, cho Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công Khổng Tử không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di], Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng [Tải], Chu [Hy] là phường trộm cướp”(22), v.v. Cơn giận của “ngài” kể cũng dễ hiểu, bởi một nước tự xưng là “thần tử” của Hoa hạ làm sao có thể dám coi thường cái đạo mà các Đại Hoàng đế Trung Quốc tôn thờ? Nhưng còn một lẽ sâu xa nữa là có đưa đạo Nho lên làm “đạo thống” thì mới dễ dàng phát huy ảnh hưởng của “thiên triều” tới các cõi xa, nói như họ Khổng là “làm cho xa thư về một mối”. Và khi đã “gắn bó với nhau về ý thức hệ” thì há miệng mắc quai, cúi mọp đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu. Dù sao, vấn đề không chỉ giản đơn có vậy. Minh Thành Tổ muốn lấy đạo Nho để thống trị nhân dân Đại Việt, nhưng rồi y lại còn muốn đi xa hơn. Cuồng vọng bá chủ sôi sục khiến y cảm thấy như thế vẫn chưa thoả lòng. Tốt nhất là làm sao cho nước “man di” kia không còn có gì gọi là long mạch tư tưởng, tinh thần. Y muốn xóa sạch ở cái dân tộc nhỏ bé phương Nam đầy sức tự cường mà trong lòng nhiều thế hệ những tên giặc Bắc vẫn rất khiếp sợ, toàn bộ ý thức về quá khứ lịch sử của chính họ. Mà xóa sạch được quá khứ của một dân tộc chính là cách cắt đứt nguồn tiếp sức quan trọng của dân tộc đó, đặt họ vào chỗ mù mịt tối tăm, phá tan đi cái nền tảng làm cho họ tồn tại và sinh thành. Muốn vậy phải làm thế nào? Không có cách nào hữu hiệu hơn là tàn phá không thương tiếc tất cả những gì là sản phẩm trí tuệ của dân tộc này, nó là biểu trưng cho văn minh, văn hóa. Trong sắc chỉ 10 điều của Minh Thành Tổ gửi Tổng binh Chu Năng đã nói ở trên, bên cạnh những điều căn dặn tỉ mỉ về cách chế ngự “hoả khí” lợi hại của cha con họ Hồ, về việc tịch thu sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất, hoặc đập phá cột đồng trụ,... còn một điều đặc biệt hơn mọi điều kia: “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn”(23).   Thử lần tìm cái động cơ chính ẩn trong đạo sắc văn này. Tên vua Minh nói: tất cả những gì thuộc nền văn hóa chính quốc Trung Hoa, kể cả sách kinh của Phật và Lão, đều được giữ lại đầy đủ. Trái lại, bao nhiêu trước tác thuần túy Việt Nam thì đều phải phá hủy. Vậy ra, sự lựa chọn của y chẳng phải là đạo Nho hay một hệ tư tưởng chính thống nào cả. Đối với người Giao Chỉ cũng như các dân tộc bị y xâm lược, y chỉ cần một sự lựa chọn đơn giản, mà lại thực dụng hơn nhiều: hãy bắt họ từ bỏ tất cả những gì sinh ra trong đầu óc của chính dân tộc họ kể cả trong quá trình tiếp nhận những gì là vốn liếng tinh thần của “nước mẹ Đại Minh”. Ý hẳn Hoàng đế nhà Minh muốn bắt các dân tộc thôi đừng có tự mình tư tưởng nữa. Mà không tư tưởng, thì có nghĩa là... không tồn tại. Thế rồi, từ trong thâm cung tại Yên Kinh, Hoàng đế nhà Minh ngày đêm lo theo dõi, đôn đốc việc thi hành lệnh chỉ đã ban ra. Đến nỗi khi thấy có một bộ phận quân lính không chịu làm theo đúng lệnh, nghĩa là không đốt ngay sách vở cướp được của nước ta mà còn giữ lại, y lập tức gửi một tờ lệnh thứ hai nhắc lại đúng những điều đã chỉ thị từ trước, lại giải thích rõ vì sao cần đốt ngay tại chỗ chứ không nên giữ lại: “Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An Nam có tất thảy những sách vở văn tự gì, kể cả các câu ca lý dân gian, các sách dạy trẻ, như loại “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết, và tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh một chữ hễ trông thấy là phá hủy lập tức, chớ để sót lại. Nay nghe nói những sách vở do quân lính bắt được, không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Quân lính phần đông không biết chữ, nếu đâu đâu cũng đều làm vậy thì khi đài tải sẽ mất mát nhiều. Từ nay các ngươi phải làm đúng như lời sắc trước, truyền cho quân lính hễ thấy sách vở văn tự ở bất kỳ nơi nào là phải đốt ngay, không được lưu lại”(24).   Dĩ nhiên, ngay những tên đã trù mưu định kế ăn cướp nước ta cũng cảm thấy một chủ trương tàn bạo như thế thực muôn phần nguy hiểm. Nó sẽ dẫn đến làm nổ bùng lòng căm phẫn ngút trời của cả một dân tộc, và sức mạnh có tính dây chuyền của sự bùng nổ đó chắc sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Cũng vì thế, đi kèm với những điều lệnh, Minh Thành Tổ còn bắt quân lính phải giữ thật kín chủ trương của mình. Sau gần một năm đốt phá, biết rằng yêu cầu của việc phá hoại về căn bản đã xong, ngày 19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 - 6 - 1407), y lại gửi một sắc chỉ xuống phương Nam ra lệnh cho các tướng lĩnh của y phải cấp tốc thu hồi những đạo dụ y đã ban ra từ trước: “Nay An Nam đã bình định xong; [...] trừ các loại chế dụ ra còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành quốc công đã lĩnh, hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi việc, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại, rơi vào tay bọn kia(25) thì rất bất tiện”(26).   Tưởng cũng khó có thể chê trách gì về sự cao tay của Minh Thành Tổ trong việc xếp đặt đâu ra đấy từng bước “tiến”, “thoái”, “thắt”, “cởi” cho mọi hành động tàn phá kinh khủng nhất của mình. Nếu nghệ thuật diệt chủng của y thâm thúy đến mức đẩy đối tượng bị tiêu diệt vào một tình trạng trống rỗng, hư vô, không còn quá khứ cũng không còn tương lai, nghĩa là cứ dần dần “tự diệt”, thì nghệ thuật xóa dấu vết của y cũng tinh vi đến mức y vừa ăn cướp lại vừa có thể hùng hổ la làng rằng bị cướp đe dọa. Âu đây chính là những dáng nét hiện đại nhất của tên xâm lược Đại Hán ở thế kỷ XV vốn sẵn có trong mình cái bản chất xâm lược dã man của nhiều thế hệ cha ông đã thấm vào máu thịt; là cái được nhân lên, biến hóa sinh động hơn những thủ đoạn cướp đất giết dân hôm qua hôm kia còn rất quen thuộc mà nay đã bị xem là quá cổ lỗ và thật thà. N.H.C. --------------- Chú thích: Những chú thích dưới đây, so với bản in lần đầu của bài này (ngày 14.9.2013), đã được chỉnh sửa theo chỉ dẫn của tác giả, thống nhất theo bản Việt kiệu thư của viện Viễn Đông bác cổ thời Pháp, nay là Thư viện Viện Khoa học xã hội (xem chú thích số 1., bài Sách Việt kiệu thư trong con mắt giới sử học đương đại). Diễn Đàn. (1) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 189. (2) Thật ra, khi cháu Minh Thái Tổ lên nối ngôi thì chú y, tức Chu Đệ 朱棣 liền cướp lấy mà lập ra triều đại thứ ba của nhà Minh (1402 - 1424), tức Minh Thành Tổ. (3) Lý Văn Phượng 李 文 鳳, Việt kiệu thư 越 嶠 書 (1540). Đây là một tài liệu quý, ghi chép khá đủ theo trật tự thời gian những đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi đều đặn (thường là vài ngày một đạo) đến các tướng chỉ huy trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1406-1407. Trước đây chúng tôi chỉ tham khảo duy nhất cuốn sách này của Thư viện Viện Khoa học xã hội vốn là sách của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp cũ, ký hiệu: 1731, (nay thay đổi ký hiệu là: VH. 000276 - HV. 000281), nhưng năm 2001, sang làm việc ở Thư viện Yenching Harvard, tìm thêm được văn bản do Tề Lỗ thư xã xuất bản, Nam Kinh, 1996. Tuy vậy, trong bài này, vẫn xin ghi chú số quyển và trang và theo bản của Thư viện Viện Khoa học xã hội để cho thống nhất. VH. 000276, Q. 2, tờ 19a: 今 安 南 雖 在 海 陬 。自 昔 為 中 國 郡 縣 。五 季 以 來 力 不 能制 。歷 宋 及 元 雖 欲 圖 之 而 功 無 所 成 。貽 笑 後 世 (Kim An Nam tuy tại hải tưu, tự tích vi Trung Quốc quận huyện. Ngũ quý dĩ lai lực bất năng chế. Lịch Tống cập Nguyên tuy dục đồ chi nhi công vô sở thành, di tiếu hậu thế). (4) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 20a (Điều ghi chú thứ 9 trong 18 điều khoản kèm theo tờ sắc này): 宋 元 皆 發 兵 征 討 安 南。將 驕 兵 懦。貪 財 好 色。以 此 不 能 成 (Tống Nguyên giai phát binh chinh thảo An Nam, tướng kiêu binh nọa, tham tài hiếu sắc, dĩ thử bất năng thành). (5) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên văn: 其 臣 季 孷 黎 蒼 久 畜 虎 狼 之 心 。竟為 吞 噬 之 。舉 弒 其 國 王。 戕 其 本 宗。覃 被 陪 臣 重 罹 慘 酷 。掊 剋 殺 戮 。毒 病 生 民 。雞 犬弗 寧 。怨 聲 載 路 (Kỳ thần [Lê ] Quý Ly, Lê [Hán] Thương cửu súc hổ lang chi tâm, cánh vi thôn phệ chi, cử thí kỳ quốc vương, thương kỳ bản tông, đàm bị bồi thần trọng duy thảm khốc, bồi khắc sát lục, độc bệnh sinh dân, kê khuyển phất ninh, oán thanh tái lộ). (6) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 18a. Nguyên văn: 今 廣 西 奏 。安 南 遣 人 來 貢 謝 罪 。原 胡 奄 。 父 子 罪 本 難 容 。 今 既 改過 自 新 。只 著 他 辨 黃 金 五 萬 。象 一 百 隻 。 以 贖 其 罪 。 金 象 不 足 。許 以 珠 玉 寶 貝 代 之。以 足 其 數 即 止 。大 軍 不 進 (Kim Quảng Tây tấu: An Nam khiển nhân lai cống tạ tội. Nguyên Hồ yêm, phụ tử tội bản nan dung. Kim ký cải quá tự tân, chỉ trước tha biện hoàng kim ngũ vạn, tượng nhất bách chích, dĩ thục kỳ tội. Kim tượng bất túc, hứa dĩ châu ngọc bảo bối đại chi, dĩ túc kỳ số tức chỉ, đại quân bất tiến). (7) Điều thứ 10 trong 10 điều căn dặn trong đạo sắc chỉ bí mật, xếp sát ngay sau đạo sắt đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 17b: 今 遣朱 勸 張 瑛 齎 禮 部 咨 文 往 安 南 索 其 金 象。此 計蓋 欲 弛 其 鬥志。非 真 實 意 也 。 朱 勸 等 臨行 朕 曾 面 諭 之 。今 到彼 只 住 五 日 。若 五 日 內 措 辨不 足 。 許 隨 多 少 先 將 來 。 後 卻 差 人納 足 。爾 待 朱 勸 等 人 去 。大 軍隨 後亦 進 。 若 遇 差 出 納 金 象 之 人 就 執 之 。訖 問 聲 息 。須 勿 令彼 知 差 來 被 執 。今 朱 勸 等 到 處 。爾 事 機 切 不 可 令 人 知 之 (Kim khiển Chu Khuyến, Trương Anh tu Lễ bộ tu văn vãng An Nam sách kỳ kim tượng. Thử kế cái dục thỉ kỳ đấu chí, phi chân thực ý dã. Chu Khuyến đẳng lâm hành, trẫm tằng diện dụ chi, kim đáo bỉ chỉ trú ngũ nhật. Nhược ngũ nhật nội thố biện bất túc, hứa tùy đa thiểu tiên tương lai, hậu khước sai nhân nạp túc. Nhĩ đãi Chu Khuyến đẳng nhân khứ, đại quân tùy hậu diệc tiến. Nhuợc ngộ sai xuất nạp kim tượng chi nhân tựu chấp chi, cật vấn thanh tức. Tu vật linh bỉ tri sai lai bị chấp. Kim Chu Khuyến đẳng đáo xứ, nhĩ sự cơ thiết bất khả linh nhân tri chi). (8) Sắc chỉ ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd tờ 20a: 安南 自 我 朝 以 來 [。。 。] 數 十 年 不 曾 用 兵 。其 國 中 富 庶 (An Nam tự ngã triều dĩ lai, [...] sổ thập niên bất tằng dụng binh, kỳ quốc trung phú thứ). (9) Sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407), Việt kiệu thư, Sđd; Q.2, tờ 24a. Nguyên văn: 頓 兵 江 上 與 賊 相 持 。黎 賊 之 計 正 欲 持 久 以 待 瘴 癘 之 發 。破 之 貴 在 神 速。不 宜 遲 緩 (Đốn binh giang thượng dữ tặc tương trì, Lê tặc chi kế chính dục trì cửu dĩ đãi chướng lệ phát. Phá chi quý tại thần tốc, bất nghi trì hoãn). (10) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 262. (11) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 22a đề rõ, ngày 6 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ ban hành một điều khoản như sau: 安 南 金 場 。銀 場 遙 聞 原 是 占 城 之 地 而界 相 爭 已 久 。亦 未 可 信 。平 定 之 後 。只 以 見 得 地 界 為 準 。縱 然 占 城 有 請 亦 不 可 擬 還(An Nam kim trường, ngân trường dao văn nguyên thị Chiêm Thành chi địa, nhi giới tương tranh dĩ cửu, diệc vị khả tín. Bình định chi hậu, chỉ dĩ kiến đắc địa giới vi chuẩn. Túng nhiên Chiêm Thành hữu thỉnh, diệc bất khả nghĩ hoàn). Nghĩa là: Từ xa trẫm nghe nói mỏ vàng mỏ bạc nguyên là phần đất Chiêm Thành, địa giới hai bên tranh chấp đã lâu, cũng chưa rõ thế nào. Sau khi bình định xong, cứ lấy địa giới mà mình trông thấy làm chuẩn, nếu Chiêm Thành có cầu xin cũng không trả. (12), (13) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 250, 262. (14) Sắc chỉ đề ngày 4 tháng Mười một năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 23b. Nguyên văn: 大 軍 入 安 南 。但 有 助 黎 寇 來 拒 敵 者 殺 之 。 若 有 能 棄 甲卻 戈 降 者。一 人 不 可 妄 殺 (Đại quân nhập An Nam, đãn hữu trợ Lê khấu lai cự địch giả, sát chi. Nhược hữu năng khí giáp khước qua hàng giả, nhất nhân bất khả võng sát). (15) Sắc chỉ đề ngày 16 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 22b. Nguyên văn: 其 有 年 少 而 罪 當 死 者 。宜 處 以 宮 刑 。亦 可 以 保 全 其 命 。他 日 又 得 以克 使 令 (Kỳ hữu niên thiếu nhi tội đáng tử giả, nghi xử dĩ cung hình, diệc khả dĩ bảo toàn kỳ mệnh, tha nhật hựu đắc dĩ khắc sử lệnh). (16) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 37b. (17) Sắc chỉ đề ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 29b. Nguyên văn: 敕 傳 奏 言 裴 伯 耆 事 為 將 之 。道 在 於 用 人 。一 裴 伯 耆 不 能 用 何 以 能成 事 功 俠 。朕 有 南 鄙 又 憂 。古 人 用 人 之 法 具 右 方 冊 。爾 宜 審 觀 故 敕 (Sắc truyền tấu ngôn Bùi Bá Kỳ sự vi tương chi. Đạo tại ư dụng nhân, nhất Bùi Bá Kỳ bất năng dụng, hà dĩ năng thành sự công hiệp? Trẫm hữu Nam bỉ hựu ưu. Cổ nhân dụng nhân chi pháp cụ hữu phương sách, nhĩ nghi thẩm quan cố sắc). (18) Sắc chỉ đề ngày 22 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 25b - 26a. Nguyên văn: 凡 安 南 官 吏 來 歸 降 者 。即 陸 續 遣 之 來 朝 。聽 朕 面 諭 。給 與 印信 俾 還 管 事 。如 或 事 世 未 可 又 在 。隨 宜 處 置 。不 可 執 一 (Phàm An Nam quan lại lai quy hàng giả, tức lục tục khiển chi lai triều, thính trẫm diện dụ, cấp dữ ấn tín, tỷ hoàn quản sự. Nhu hoặc sự thế vị khả hựu tại, tùy nghi xử trí, bất khả chấp nhất). (19) Điều thứ tư trong Sắc chỉ bí mật, đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 17a. Nguyên văn: 訪 問 古 時 銅 柱 所 在 亦 便 碎 之。委 之 於 道 以 示 國 人 (Phỏng vấn cổ thời đồng trụ sở tại, diệc tiện toái chi, uỷ chi ư đạo dĩ thị quốc nhân). (20) Điều ghi thêm thứ hai trong Sắc chỉ đề ngày 9 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407),Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 25b. (21) Trích thư bọc sáp của tướng Minh Vương Thông gửi về nước năm 1427. Một viên quan cai trị khác của nhà Minh là Giải Tấn cũng từng tâu lên vua Minh những lời tương tự. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1972; tr. 47. (22) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên văn: 自 以 為 道 優 於 三 王 。 德 高 於 五 帝。以 禹 湯 文 武 不 足 法 。周 公 孔 子 為 不 足 師 。毀 孟 子 為 盜 儒 。謗 周 程 張 朱 為 剽 竊 。欺聖 欺 天 。無 倫 無 理 (... tự dĩ vi đạo ưu ư Tam vương, đức cao ư Ngũ đế, dĩ Vũ Thang Văn Vũ bất túc pháp, Chu Công Khổng Tử vi bất túc sư, hủy Mạnh Tử vi đạo Nho, báng Chu Trình Trương Chu vi phiếu thiết. Khi thánh khi thiên, vô luân vô lý). (23) Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, xếp thứ tự ngay sau đạo sắc đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 16a - 17b. Nguyên văn: 兵 入 。除 釋 道 經 板 經 文 不 燬 。外 一 切 書 板 文 字 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習。如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻 字 悉 皆 燬 之 。其 境 內 中 國 所 立 碑 刻 則 存 之 。 但 是 安南 所 立 者 悉 壞 之 。 一 字 不 存 (Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn). (24) Điều khoản bổ sung vào sắc chỉ đề ngày 21 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, tờ 33a. Nguyên văn: 屢 嘗 諭 爾 凡 安 南 所 有 一 切 書 板 文 字 。 以 至 俚 俗 童蒙 所 習 。 如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻字及 彼 處 自 立 碑 刻 。見 者 即 便 毀 壞勿存 。今 聞軍 中 所 得 文 字 不 即 令 軍 人 焚 毀 。必 檢 視 然 後 焚 之 。 且 軍 人 多 不 識 字 。 若 一 一 令 其如 此 。必 致 傳 遞 遺 失 者 多 。爾 今 宜 一 如 前 敕 。號 令 軍 中 但 遇 彼 處 所 有 一 應 文 字 即 便焚 毀 。 毋 得 存 留 (Lũ thường dụ nhĩ, phàm An Nam sở hữu nhất thiết thư bản văn tự, dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự cập bỉ xứ tự lập bi khắc, kiến giả tức tiện hủy hoại vật tồn. Kim văn quân trung sở đắc văn tự bất tức lệnh quân nhân phần hủy, tất kiểm thị nhiên hậu phần chi. Thả quân nhân đa bất thức tự, nhược nhất nhất lệnh kỳ như thử, tất trí truyền đệ di thất giả đa. Nhĩ kim nghi nhất như tiền sắc, hiệu lệnh quân trung đãn ngộ bỉ xứ sở hữu nhất ứng văn tự tức tiện phần hủy, vô đắc tồn lưu). (25) Chỉ người Việt. (26) Sắc chỉ đề ngày19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25.6.1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 32a. Nguyên văn: 今 安 南 已 平 [。 。 。] 除 制 諭 外 應 發 去手 敕及 記 事 小 帖 成 國 公 領 帶去 小 冊 子。及 條 畫 事 件 。盡 數 檢 對 。 密 封 繳 來 。 不 許 存 留 一 字 。 漏 落 在 彼 不 便 (Kim An Nam dĩ bình [...] Trừ chế dụ ngoại ứng phát khứ thủ sắc, cập ký sự tiểu thiếp Thành Quốc công lĩnh đới khứ tiểu sách tử, cập điều hoạch sự kiện, tận số kiểm đối, mật phong kiểu lai. Bất hứa tồn lưu nhất tự, lậu lạc tại bỉ bất tiện). Nguồn: boxitvn.net
......

Thế Dũng - Từ Hộ Chiếu Buồn đến Đau Thương Hành

Năm nay, có khá nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, từ trong nước sang nghỉ hè và làm việc ở châu Âu. Có lẽ, nhiệt độ từ nơi xứ nóng, theo chân các nhà văn sang Đức chăng? Nên mới đầu tháng sáu, trời đã chuyển sang nắng ấm. Trên lối đi ngát một màu xanh cây lá. Bầu trời cao và xanh thẳm, thả xuống những cơn gió lành mát dịu, nhưng dường như vẫn chưa trút bỏ được, những ngột ngạt, chua xót, đắng cay… trong lòng người thi nhân, lữ khách. Có thể nói, đã lâu lắm rồi, châu Âu mới có một mùa hè đẹp đến như vậy. Hình nhà thơ Thế Dũng   *Vẫn còn đó một bức tường vô hình. Trong lúc rong chơi, bù khú, có bác hỏi tôi, về tình hình văn học cũng như những nhà văn Việt, điển hình ở Đức. Qủa thật, tuy xa quê, xa Tổ Quốc đã rất lâu, nhưng khi nghe các bác nhắc lại, những từ tiêu biểu với điển hình, làm tôi vẫn phải giật mình, sởn sởn trong người, cứ tưởng mình trở về cái thời mậu dịch, hợp tác xã, đang bóp nặn ra những nhân vật điển hình tiên tiến. Thành thật mà nói, câu này, rất khó trả lời thẳng và trọn vẹn với các bác, vì người Việt ở Đức, hoàn toàn khác với cộng đồng người Việt ở Mỹ, Anh Nga Pháp, hay Séc, Ba Lan. Bởi, nguyên do lịch sử và địa lý, nên nước Đức có hai cộng đồng người Việt với ý thức hệ khác nhau rõ ràng, sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Người Việt sống ở phía Tây Đức chủ yếu là những thuyền nhân, từ miền Nam trốn chạy CS. Và vùng phía đông nước Đức, là nơi cư ngụ phần đông của những công nhân lao động, những cựu du học sinh ra đi từ miền Bắc, lúc nào cũng thấy màu đỏ vẫn còn rực cháy trong lòng. Dù đã một phần tư thế kỷ trôi qua, nhưng chính kiến cũng như nhận thức tư tưởng của hai cộng đồng người Việt, cùng sống trên một nước Đức tự do dân chủ vẫn không thể hòa đồng. Những ngăn cách ấy, dường như ngày càng cô lại, rắn chắc hơn cả bức tường ô nhục chia cắt Đông Tây trước đây. Vì vậy, những sinh hoạt văn chương và xu hướng sáng tác, hoàn toàn khác nhau. Thực trạng là thế, nhưng trong hố sâu ngăn cách đó, vẫn chợt có những bước chân tạo ra con đường, nối lại khoảng cách ấy. Vâng! Nhà thơ Thế Dũng, là một trong những bước chân tự do, can đảm đó, ông đang cần mẫn, mở ra con đường từ Đông sang Tây, không chỉ bằng văn học. Phần đông độc giả trong và ngoài nước, biết đến Thế Dũng là một nhà thơ, chứ có lẽ, không nhiều người biết ông còn là tác giả đã viết khá nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản điện ảnh, sân khấu và phê bình. Ba cuốn tiểu thuyết, Tình Cuội, Hộ Chiếu Buồn, Một Nửa Lá Số, được viết ngay khi ông tới Đức, giữa lúc bức tường Berlin sụp đổ. Trong bối cảnh đó, cùng với sự mẫn cảm của nhà thơ, tư tưởng của Thế Dũng đã chuyển biến một cách dứt khoát rõ ràng. Nếu như Hộ Chiếu Buồn miêu tả diễn biến tâm lý của một trí thức, bằng mọi cách, vùng vẫy, đào thoát ra khỏi cái bí bức, hèn mọn, với tư duy “toàn xã hội nuôi gà công nghiệp“, thì đến tác phẩm Đau Thương Hành, Thế Dũng đã hoàn toàn cởi được cái vòng kim cô đó: “Độc đảng không gánh hết Tổ Quốc/ Dân chủ tự sinh thành đa nguyên“ (ĐTH) Nhân nói đến tiểu thuyết Hộ Chiếu Buồn của Thế Dũng, làm tôi sực nhớ đến giai thoại ồn ào trước đây, trong giới văn chương. Số là, thời đó có lẽ, Thế Dũng còn yêu mến Hội Nhà Văn VN chăng? Nên ông đã gửi cuốn này, đến dự thi. Và nghe nói, Hộ Chiếu Buồn đã vào đến chung khảo, chung kết gì đó, của cuộc thi tiểu thuyết năm 2001-2004. Sau đó, Hộ Chiếu Buồn được vào sâu hơn nữa và nằm trong danh sách 14 tác phẩm được lãnh giải, và giấy mời cũng đã gửi đến Thế Dũng. Vào một ngày đẹp giời, bất chợt, Thế Dũng nhận được điện thoại của một ông bạn họa sĩ, khuyên: Có giấy mời lãnh giải cũng chưa chắc đâu, ông nên phong bao cho ban giám khảo, chắc ăn. Thế Dũng cười, dứt khoát không tin như vậy. Ngày đến lãnh giải, quả thực, Hộ Chiếu Buồn của Thế Dũng, đã bị gạch tên trong danh sách, được thay bằng tiểu thuyết Cán Cờ Tre, đã bị loại từ vòng ngoài, của đồng chí Trịnh Đình Khôi, chuyên viên ban văn hóa tư tưởng trung ương. Chủ tịch hội nhà văn Hữu Thỉnh, ghé tai thì thào: Thế Dũng thông cảm, ra lãnh giải chung khảo vậy. Cuốn Hộ Chiếu Buồn ngay sau đó, được nữ nhà văn người Đức, dịch sang tiếng Đức với cái tựa Der Traum Von Orly (Giấc Mộng Orly) do nhà xuất bản Horlemann phát hành. Giấc Mộng Orly được độc giả Đức đón nhận. Từ đây tên tuổi Thế Dũng gần gũi với độc giả người Đức hơn. Nhà xuất bản Horleman đã tổ chức ra mắt cuốn sách này, khá nhiều nơi trên nước Đức. Tôi đã được đọc bài phỏng vấn Thế Dũng của Radio Hamburg, cảm thấy khá sâu sắc và thú vị.   Nghe kể câu chuyện này, có bác nhà văn già gật gù, đế tiếp: Kể cả việc muốn vào hội nhà văn, nếu không đủ đạn bắn vỡ ổ khóa, cũng chỉ có nước đứng ngoài cửa. Luật bất thành văn: Vào, dấm dúi cửa sau - Ra, đàng hoàng cửa trước. Nhất là mấy ông viết văn ở Đức, Việt kiều Việt kiếc rủng rỉnh, lại phải bắn đạn to hơn, dày hơn, mới có thể chui lọt. Thế mới biết, đằng sau cái tưởng là cao sang ấy, lù lù một đống bốc mùi đến như vậy. Chả trách, đọc mấy cuốn sách được giải của các bác, chắng khác gì phải uống bát nước ốc luộc.  Thật vậy, đã mang tên Hộ Chiếu Buồn, thì Thế Dũng làm sao có thể cưỡng được số phận buồn của nó. Có lẽ, sau vụ này Thế Dũng tởn các bác hội nhà văn VN đến già?      Nhà thơ Thế Dũng, người Hải Dương, sinh năm 1954 tại Tuyên Quang, nơi cha mẹ ông tham gia kháng chiến. Ông xuất thân từ người lính chiến, vào những năm tháng ác liệt nhất của chiến tranh. Sau cuộc chiến, Thế Dũng trở thành sinh viên văn khoa, đại học sư phạm Hà Nội. Và từ đó, ông cứ tưởng sẽ được thỏa trí tang bồng với những ước mơ, dự định về thơ văn của mình. Thế nhưng, cuộc sống Thế Dũng có khá nhiều biến cố, thăng trầm và đã trải qua nhiều công việc, nghề nghiệp khác nhau. Những lúc đắng cay ấy, tưởng như ông đã gục ngã, nhưng may mắn thay, lại chính thơ văn đã nâng đỡ ông đứng dậy và bước tiếp... Hiện ông là hội viên, Hội văn bút CHLB Đức. Khi tìm tòi, nghiên cứu về Thế Dũng, tôi chợt nhận ra một điều, văn xuôi, tiểu thuyết là vỏ, là thân xác hình hài, thơ mới chính là tư tưởng, hồn cốt trong cái hình hài đó của ông. Chính hai yếu tố này, đã song hành, tạo nên một Thế Dũng, thật vạm vỡ, vững chãi của ngày hôm nay. Thật vậy, ba cuốn tiểu thuyết trên và những tác phẩn văn xuôi khác, đều xoay quanh chính cuộc đời thật của ông, trong cái xã hội lươn lẹo, dối trá đương thời. Tuy cái vỏ đó khá chật chội, luôn bứt rứt, nhưng nếu không có biến cố bức tường Berlin sụp đổ và được tận mắt chứng kiến, thì có lẽ, ông chưa thể bứt nó ra, để hồn thơ ấy, bật lên với những tiếng kêu cùng nhân dân, Tổ Quốc, đau đớn đến ngút trời như vậy. Đêm giao thừa đầu tiên trên nước Đức, cũng là mùa xuân đầu tiên nước Đức thống nhất, Thế Dũng thấy mình như trẻ lại. Nhưng nỗi vui mừng đó chợt dừng lại, bởi đất dưới chân mình đâu phải đất quê hương. Dù pháo vẫn nổ, chai đã cạn, nhưng  dường như, ông lại càng thấm sự cô đơn, khi ngoảnh lại, nơi quê nhà, còn bao người bị giam hãm nơi lao tù? Thế Dũng đã dồn nỗi đau, sự cay đắng ấy vào trong thơ, ông đứng ngay ở cổng thành Brandenburg để viết. Và mầm tự do đã bắt đầu nở hoa trong Thế Dũng từ đây: “…Nước Đức đêm nay - vừa khóc vừa cười! Đêm trừ tịch đầu tiên tôi được thấy Đông với Tây cởi mở nỗi lòng mình? Chân phiêu lãng chợt buồn trên xứ lạ! Dưới chân mình đâu phải đất khai sinh! Xin nhớ mãi một giao thừa du ngoạn Tôi rong chơi như trẻ nhỏ la đà... Tây Berlin chợt cười tôi cay đắng. Thèm nghe nhạc pháo hồng trên cổng ngõ nhà ta!“                   (Viết ở cổng thành Brandenburg) Không chỉ bức tường Berlin mở, mà cánh cửa tâm hồn Thế Dũng cũng được mở toang ra. Và ngay sau đó (năm 1992) ông viết bài Ta Mở Cho Nhau Cửa Tới Vô Cùng, gửi nhà văn Ngô Nguyên Dũng. Đây là bài thơ hay, tiêu biểu nhất về sự chuyển biến nhận thức, và là nhịp cầu nối Đông Tây trong tư tưởng của Thế Dũng. Nhà thơ muốn liệm, giã từ quá khứ chăng? Nhưng nấm mồ dĩ vãng kia, vẫn còn chôn chặt nơi tâm hồn. Vâng! Qúa khứ của những ngày, cứ hân hoan làm thằng lính được đi đầu. Và ai sẽ là người mở cửa, dọn đi những nấm mồ đó? Khi nhà thơ thảng thốt kêu lên. Nhưng có lẽ, thời gian cũng khó có thể xóa đi những ngày đen tối, khờ dại ấy:   “…Dăm ngôi mộ trong hồn… Hoa héo úa Âm ti cười văng vẳng tiếng đa đoan Mây như khói tóc ai chiều thu xõa Liệm làm sao?- Dĩ vãng chửa tro tàn!   Ngày tháng mở giùm tôi từng ô cửa Hốc tâm linh toang hoác một hang buồn Tôi chưa chín nên tôi còn hăm hở… Hộc từng cơn! Thơ vỡ ngực ngậm hờn…“ (TMCCNTVC)   Thế Dũng đã chỉ ra, cái chủ nghĩa ngoại lai, là một thứ dịch bệnh. Sự phỉnh lừa đó, đã cướp đi bao sinh linh vô tội, dẫn đến tận cùng tội ác: Xẻ nát, chia cắt mấy đời đau. Và ai là người đã thốt lên: Đốt cả dãy Trường Sơn- Để cháy nát hồn dân tộc, và khắc sâu thêm oan nghiệt, lòng hận thù bằng những cuộc chiến tranh:   “ Đời thuở ấy, quê hương nhiều giặc giã Một nhà ta chia “ta-địch”.  Khóc u…oa Đốt cả dãy Trường Sơn mà được thế? Những chiến hào xẻ nát triệu đời hoa Đời thuở ấy thịt xương sao lãng mạn Cứ hân hoan làm thằng lính đi đầu Chỉ vì cuộc dối lừa nhau ý hệ Một bầu trời chia cắt mấy đời đau…” (TMCCNTVC) Thật ra, tôi thích đọc Thế Dũng không hẳn vì tài năng, nghệ thuật viết, mà tư tưởng, con đường của ông đi, đang hành cùng nỗi đau của đất nước và thân phận con người, đó mới là yếu tố chính, làm cho tôi rung động. Đau Thương Hành, được Thế Dũng viết vào năm 2013. Đây là một bài thơ đã đạt đến đỉnh cao của nhận thức, tư tưởng cũng như tài năng, nghệ thuật viết của ông. Đọc bài thơ này, ta thấy được, Thế Dũng đã hoàn toàn bốc được ngôi mộ quá khứ, ra khỏi tâm hồn mình. Hành thuộc thơ cổ, dường như có xuất xứ từ Trung Quốc, thường viết theo thể thất ngôn, ngũ ngôn, hoặc dài ngắn tùy thuộc tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nó là thể thơ khó nhằn, khó viết. Nhìn chung, các nhà thơ Việt, rất ít sử dụng thể loại này. Đã đọc khá nhiều thơ thể hành, nhưng quả thực, còn đọng lại trong tôi không nhiều. Bởi, tuy là thể thơ mang tính tự do, phóng khoáng, nhưng để đạt đến cái đỉnh bi tráng, thực sự lay động lòng người, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Với tôi, kể từ khi có thơ mới đến nay: Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Hành Phương Nam của Nguyễn Bính, Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên, Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư và Đau Thương Hành gần đây của Thế Dũng là những bài thơ hay, mang lại cho tôi nhiều cảm xúc nhất, khi đọc thể loại này. Đau Thương Hành được chia thành sáu đoản khúc, là tiếng nấc sinh ly sau chiến tranh, dưới một xã hội độc tài, man rợ. Sự bắt bớ, tù đày, sự ra đi và trốn chạy, đó không phải cái đau của nhà thơ hay một cá nhân, một bộ phận mà của cả một dân tộc. Từ cái nhìn khách quan đó, Thế Dũng đã can đảm vạch ra, nguyên do của cái bi thương ấy: “ Độc đảng/ Độc tài/ Độc hành đau“ (ĐTH) *Những cuộc trốn chạy, chia ly đẫm máu và nước mắt Là một người lính trực tiếp cầm súng nơi chiến trường miền Nam, trong những năm tháng ác liệt nhất, giữa cái chết và sự sống, và trên hai mươi năm khắc khoải trên xứ người, nên Thế Dũng hiểu hơn ai hết, cái giá của sự biệt ly. Khi người ta cố quàng hoa lên cái chết cho những người lính phía Bắc, thì tác giả lại chỉ ra cái chết đau thương của những người lính phía Nam thua trận, ở nơi tù đày phương Bắc. Và sau chiến tranh, cứ ngỡ, đất nước sẽ thanh bình, nhưng không chỉ riêng Thế Dũng, mà cả một thế hệ đã lầm: Có nơi nào bình yên? Khi hàng ngàn, hàng vạn chiếc thuyền lá tre kia, cố nhoài đi tìm lại sự sống, trong bão tố, mông mênh của biển cả. Thật vậy! Đánh đổi một nửa lá số, một nửa cuộc đời, ông mới cay đắng nhận ra, sự sinh ly còn đáng sợ hơn cả cái chết:   “Tống biệt chưa ghê bằng tử biệt Tử biệt chưa kinh bằng sinh ly Sinh ly? –  Giời ạ! – Thật thảm thiết … Nước nát – Nhà tan-Đành biệt ly? Biệt ly! –  Mười chết, một sống sót Sinh Nam Tử Bắc huyết lệ nhòa Vạn xác trẻ già vùi đáy biển Sinh Bắc Tử Nam máu thành hoa?...“ (Đau Thương Hành- Đoản khúc 1) Cuộc chiến đã lùi xa gần bốn mươi năm, nhưng sự bức tử, hiếp chế ngày càng đè nặng lên những sinh linh, cùng chung một giống nòi. Độc tài, độc đảng là tự mê tự trói, dẫn đến cái đau cho toàn dân tộc. Sẽ chẳng có sinh khí, linh hồn nào còn tồn tại, nếu những người cầm quyền vẫn còn chìm trong những cơn hoang tưởng, và mộng mị. Vâng! Sự thật đau thương đó, Thế Dũng không chỉ bóc trần ra, mà ông còn lý giải, vạch ra lối thoát cho những kẻ u mê cầm quyền:       “…Cả hồn lẫn xác đều bị hiếp Mà vẫn say sưa uống ngẩn ngơ Tâm thần phân liệt dưỡng ma quỷ Dương Khí suy tàn hoại Thiên Cơ Ngót bốn mươi năm liền một dải Hà cớ chi còn bức tử nhau? Sợ bị thủ tiêu thà tự tử Độc đảng! Độc tài! Độc hành đau ! Tống biệt đôi khi giống tự sát Tử biệt-Sinh ly dù tai ương Em thành người mới ta cũng khác Không  biết đau thì không biết thương! Tự mê tự trói cơ chế ác Bao nhiêu thủ lĩnh đành ra đê Sao không  đa đảng, đa phương sách Để tinh hoa dân tộc tự tìm về ?...”  (ĐTH- Đoản khúc 1) Thật vậy, chẳng có giọt nước mắt và lời ru nào, xóa hết nỗi đau và sự phân ly, chia cắt, mà chỉ có đa phương, đa đảng trong tình yêu con người, thì hoa dân tộc mới có thể nở trên những vết thương đang mưng mủ ấy. *Sự u muội, ươn hèn-trong canh bạc chư hầu Nhìn lại mấy ngàn năm lịch sử, chưa bao giờ có triều đại nào, chế độ nào run sợ trước giặc Tàu như hiện nay. Để mặc cho kẻ thù, cắt cáp, cướp tầu, là nhẫn nhục, ươn hèn, u muội hay là sự cắt biển dâng rừng? Một loạt câu hỏi mà người thi sĩ buộc phải đi tìm, trong cơn say đau đớn. Vâng! Nỗi đau không muốn đó, sao cứ đánh vào hồn kẻ tha hương, làm người thi sĩ, quặn lên tiếng cười, tưởng mình như vừa lạc mất hồn Ngựa Gióng hoang:   “…Cạn  cốc tha hương bên miệng vực Tưởng đã buông hồn Ngựa Gióng hoang? Đau đớn cười vang như sấm giật Càng  say…  Càng cay câu lai căng Không muốn mà đớn đau cứ đánh Là người sao cứ nghiện đớn đau ? Cam phận chịu trận hóa lỳ lợm ? Mặc Trung Hoa cắt cáp, cướp tầu?...” (ĐTH-Đoản khúc 2) Một ngàn năm nô lệ đã qua, không chỉ đè nặng lên người thi sĩ, mà nó còn là vết thương nhức nhối nhất trong lòng người dân Việt. Lịch sử có lẽ nào, lại quay lại cái đau thương của ngàn năm cũ, chỉ vì quyền lực, độc quyền mà bán rẻ linh hồn. Mười sáu chữ vàng, chỉ là thứ bùa ngải, để ru người vào cõi u mê. Và câu hỏi ấy, đã được Thế Dũng tìm ra lời giải đáp:   “ …Đau và sợ đã làm ta bất  lực Thua cháy tim trong canh bạc chư hầu ! Mượn hơi rượu cười khan  tình hối lộ Mấy chữ vàng đánh úp đảo Gạc Ma? Ngàn năm cũ bóng đè chưa hết uất…“ (ĐTH-Đoản khúc 3) Người thi nhân, dám hóa thân làm câu hát, để cất lên trong cái màn đêm u tối: “Ta đập vỡ ta thành câu hát“. Đây là câu thơ đầy hình tượng, khí phách, hay và tôi thích nhất trong bài này. Đọc nó, ta không chỉ gặp lại, cái chất hào sảng của Thế Dũng trước đây, mà còn thấy được hồn của dân tộc đang vặn mình trở lại. Thật vậy, trong một xã hội, nếu vắng đi tiếng nói thức tỉnh, phản biện của những thi nhân, thì có khác chi xã hội đó đã bị câm bị điếc. Vậy thì, không thể không cảm ơn Thế Dũng, người đã dũng cảm, đang làm biến đi những u muội, cho biển được phục sinh: “…Ta đập vỡ ta thành câu hát Biến khúc đau buồn…Biển khát phục sinh Việt Nam tôi đâu? Mẹ không kịp nấc ? Nước mắt Cha hóa bùn đỏ nghẹn lời? Kẻ du ca không thích hát vong quốc Không bao giờ Nước hết biển người ơi!...“ (ĐTH- Đoản khúc 2) *Hoa đã nở- trong địa ngục “Chúng tôi nằm xuống, để đất nước này đứng lên”. Vâng! Đó là câu nói bất hủ của người tù bất khuất Bùi Hằng. Viết đến đây, chợt thấy hiện về trong tôi và dường như, nó đã xuyên suốt tác phẩm Đau Thương Hành của Thế Dũng. Trong lao tù ấy, là con đường cụt, nhưng không hẳn là con đường chết, con đường cuối cùng, khi người thi nhân đã nhận ra: “Đôi khi ở cuối con đường cụt/ Vụt hiện huy hoàng một lối ra”. Thật vậy, nếu không có những đau thương, tù tội chắc hẳn không thể thức tỉnh những giấc mơ ươn hèn đang ngủ gục, làm sống lại lương tri con người. Và từ đó cháy lên, hồi quang lại linh khí ngàn năm. Đoạn thơ trích dưới đây, Thế Dũng đã cho chúng ta thấy rõ điều đó:  “…Bao nhiêu Nguyên Khí bị bỏ ngục Mê được làm Người…quên đau thương ! Tuổi trẻ  tọa kháng chấp  vùi dập Chí Đức, Bùi Hằng**** đuổi u mê ---------------------------------------- Đau thương hành khúc hóa biệt khúc Biệt  khúc nấc hoài  thành tráng ca Đôi khi ở cuối con đường cụt Vụt hiện huy hoàng một lối ra Dân chủ -Tự do đòi bằng được Dẫu tù dẫu ngục chẳng hề chi ! Có lúc đớn đau thành linh khí Mặc  tình  sống mái cuộc Thiên Di!” (ĐTH-Đoản khúc 4)   Có những cuộc ra đi, chia cắt của hàng triệu con người và còn có cả những cuộc chia cắt ngay trong lòng người, trên mảnh đất quê hương, nơi mình đang sống. Đó là sự chia cắt với tự do, tống biệt với chính linh hồn mình, là cái mất mát đau đớn nhất. Thế Dũng đã dùng hình tượng thật, ngọn đuốc sống của bà mẹ Việt Nam, người mẹ của nhà báo Tạ Phong Tần, làm bật lên cái dã man, tàn bạo của chế độ, trong nỗi oan trái ngút trời của người dân lương thiện. Ngọn đuốc ấy, sáng rực trong đêm trường tăm tối và mở ra một lối đi, một con đường mới:   “….Sinh ly là sống mà như chết Nào đã Tự do được mấy kỳ? Tống biệt chính mình !- Đau đớn lắm… Đất nước đứng lên cùng quan tài ? Phong Tần**** giã biệt tang oan khúc Cánh buồm đỏ thắm tự thiêu ai ? Ngót bốn mươi năm liền một dải Linh Khí bây giờ đã hồi quang Ngó lên trông xuống muôn dặm biển…”  (ĐTH-Đoản khúc 5) Với Thế Dũng, để giữ hồn dân tộc cũng như chủ quyền đất nước, chỉ có một con đường khai sáng duy nhất là đa nguyên, đa đảng. Vâng! Một con đường phải trả bằng ngục tù và bằng xương máu của chính mình: “…Đa nguyên tự do sinh đa đảng Sinh lực đa phương giữ chủ quyền ! Cùng vác thương đau gánh vận nước? Sao cứ chân mây, cứ cuối trời? Đau thương không vỡ…Không thành sẹo Mặc những bầy sâu… mầm xanh ơi!...”  (ĐTH-Đoản khúc 5) Khi người ta cố kêu réo, tìm ra Quốc Hoa, để che đậy bộ mặt thật của chế độ, thì Thế Dũng vạch ra sự lưu manh, giả dối đó: “Còn hoa xấu hổ còn Tử Sinh”. Với ông để đến tự do, dân chủ chỉ có con đường duy nhất, đứng dậy đấu tranh, phá bỏ độc tài. Đó là  Đường Con Người. Con đường ấy, tuy thương đau, nhưng: Có những nỗi đau đã trở thành ánh sáng:   “Dã ngoại Nhân quyền giữa ngực tôi ? Không chỉ chiều nay là dữ dội ! Đã mấy trăm chiều chợt lớn khôn… Đau thương nhiều lúc thành đuốc sống… Cho ta biết ta còn là Người! ---------------------------- Đau thương có lúc biết xấu hổ Để ta nhận ra Đường Con Người! Quốc Hoa ?- Giời ạ! – Tang thương quá Còn hoa xấu hổ còn Tử Sinh Đau thương hành khúc thành ánh sáng Để ngàn Chí U thành Chí Minh !”     (ĐTH-Đoản khúc 6) Nếu chúng ta đã đọc những bài hành của các thi sĩ trước đây, cảm xúc được gói gọn trong phạm vi cá nhân, hay vùng miền nào đó, thì đến Đau Thương Hành, đã mở ra những vấn đề rộng lớn của quốc gia, dân tộc. Và nó còn đi đến tận cùng nỗi đau, nỗi thống khổ của con người. Đỗ Trường Nguồn:  DienDanCTM
......

Quyền được biết

Mọi chế độ độc tài và không chính danh đều tồn tại dựa trên sự dối trá và bạo lực.  Điều đó cũng không khác, trong trường hợp của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam. Đảng và nhà nước cộng sản vừa tổ chức kỷ niệm 69 năm ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2 tháng Chín, 1945-2 tháng Chín, 2014). Cũng là 69 năm đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo ở miền Bắc và 39 năm trên toàn đất nước, sau ngày 30 tháng Tư, 1975. Đạo diễn Song Chi Nhìn lại quãng thời gian dài đó, người dân Việt Nam toàn bị đảng cộng sản lừa dối. Đảng viết lại lịch sử, đổi trắng thay đen, đánh tráo các khái niệm. Đảng vẽ ra những cái bánh Tự Do, Độc Lập, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội tươi đẹp để mỵ dân. Đảng sử dụng học thuyết Marxism-Leninism mà thế giới đã vứt vào sọt rác từ lâu, cộng với tư tưởng Hồ Chí Minh do đảng cố nặn ra, để trói buộc từ tư tưởng cho tới tâm hồn của nhân dân. Người dân còn bị đảng cộng sản bịt mắt, bịt tai, bịt miệng không cho nhìn/nghe/nói lên những sự thật.   Theo thời gian, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, internet, sự giao lưu hội nhập với thế giới bên ngoài, nhiều người Việt Nam thuộc các thế hệ khác nhau đã dần dần tìm biết được nhiều điều. Sự thật về nhân vật lãnh tụ Hồ Chí Minh, về tính chính danh và công lao giành lại độc lập cho đất nước, dân tộc, công lao đánh Pháp đuổi Mỹ của đảng cộng sản, nhất là sự thật về cuộc chiến tranh chống “đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước”. Sự thật về mối quan hệ bất xứng giữa hai đảng, hai nhà nước Việt-Trung trong suốt mấy chục năm qua, khi từ tài nguyên của đất nước cho tới một phần lãnh thổ lãnh hải thiêng liêng bị mất hoặc được dâng, cúng cho “người bạn láng giềng phương Bắc”. Sự thật về thực trạng xã hội mọi mặt của đất nước cũng như vị trí của Việt Nam hiện tại đang đứng ở đâu trên thế giới… Mọi thứ dần dần được phơi bày.   Sự thật chính là điều mà mọi chế độ độc tài toàn trị trên thế giới đều sợ hãi.   Nhưng dưới sự kiểm soát chặt chẽ của đảng và nhà nước cộng sản, vẫn chỉ mới có một phần sự thật của lịch sử bị rò rỉ. Rất nhiều thông tin, sự kiện liên quan đến vận mệnh đất nước, dân tộc, đã và đang xảy ra, vẫn còn trong vòng bí mật. Trong đó có những thông tin, sự kiện vô cùng nghiêm trọng, ví dụ như những Hiệp định được ký kết bí mật giữa hai đảng, hai nhà nước cộng sản Việt-Trung bao lâu nay, đặc biệt là Hội nghị Thành Đô 1990 mà người dân chỉ có thể đồn đoán.   Từ trước đến nay, đảng và nhà nước cộng sản luôn luôn hành xử như thể đất nước này là của riêng của đảng, đảng muốn làm gì thì làm, nhân dân không được quyền hỏi, không được quyền biết. Đã đến lúc người dân phải đòi lại cho mình cái quyền chính đáng là quyền được biết. Thời gian qua rất nhiều lần các nhân sĩ, trí thức, các cá nhân, tổ chức dân sự khác nhau đã thực hiện quyền được biết đó thông qua việc gửi các loại kiến nghị đòi hỏi nhà cầm quyền phải có câu trả lời, hoặc phải hành động. Tất nhiên, nhà cầm quyền không bao giờ hồi đáp cũng như hoàn toàn không muốn đối thoại. Và những ngày gần đây lại nổi lên hai sự việc. Một là phong trào “Chúng tôi muốn biết” do Mạng lưới Blogger Việt Nam phát động. Hình ảnh những con người khác nhau, phần lớn là những khuôn mặt quen thuộc của các cựu tù nhân lương tâm, nhà bất đồng chính kiến, nhà hoạt động nhân quyền, các thanh niên, sinh viên, blogger…cầm những tấm biều ngữ với dòng chữ “Tôi muốn biết-I want to know”, “Được biết là quyền công dân-It’s our right to know” v.v… Chỉ giản dị thế thôi, nhưng phong trào thật sự có ý nghĩa. Bởi, đất nước này là của hơn 90 triệu con dân Việt Nam. Mọi chủ trương, chính sách, hành động của đảng và nhà nước, nhân dân phải được biết, nhân dân có quyền tham gia bàn bạc, phủ quyết hoặc chấp nhận. Nếu đảng và nhà nước nào đi ngược lại điều đơn giản này thì phải bị loại trừ. Sự kiện thứ hai là kiến nghị của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ CHXHCN Việt Nam, trong rất nhiều đòi hỏi đối với nhà cầm quyền, cũng lại có “quyền được biết”:   Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc gia. Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô năm 1990... Một điều chắc chắn rằng kiến nghị này cũng sẽ rơi tõm vào cái hố đen mịt mùng của sự im lặng, từ phía nhà cầm quyền. Như từ trước đến giờ vẫn thế. Nhưng, khi nhà cầm quyền càng tiếp tục đánh bài lờ, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Thứ nhất, ngay trong những người còn cố biện minh, còn cố tin vào đảng và nhà nước cộng sản, cũng sẽ cảm thấy sự hồ nghi và đánh giá của nhân dân dành cho cái đảng này, nhà nước này là đúng. Nghĩa là một đảng cầm quyền không chính danh, độc tài và bán nước. Nếu sự mất mát lòng tin ấy không chỉ trong nhân dân, giới trí thức, bất đồng chính kiến mà từ các cựu sĩ quan gửi thư kiến nghị, lan rộng ra cả trong quân đội, công an, đảng viên, từ người lính đến tướng tá, thì số phận của đảng cộng sản thực sự rủi ro. Quân đội mà nổi dậy đòi đảo chính, làm cách mạng thì nhà cầm quyền tiêu tùng. Thứ hai, sự im lặng đánh bài lờ của đảng chỉ khiến cho các loại tin vỉa hè, tin ngoài luồng hay tin đồn khác nhau, càng có đất sống, sinh sôi nảy nở ở đất nước này. Đã là tin vỉa hè, tin đồn thì khó mà ngăn ngừa hay dập tắt được. Một xã hội mà tin đồn luôn luôn nhanh nhạy, phong phú hơn, mạnh hơn tin chính thức, chứng tỏ xã hội đó không có sự công khai, minh bạch đồng thời cũng chứng tỏ sự bất lực của nhà cầm quyền. Những thông tin chưa được xác thực sẽ tàn phá lòng tin còn sót lại, nếu có, của người dân đối với nhà cầm quyền nhanh hơn bao giờ hết. Và cuối cùng, trong những sự kiện có liên quan đến hai quốc gia, khi nhà cầm quyền Việt Nam không tìm mọi cách giải thích, thông tin chính thức cho người dân thì chỉ làm lợi cho Trung Cộng. Bắc Kinh thừa biết Hà Nội khiếp sợ sự thật, luôn tìm cách che chắn sự thật trước nhân dân, cho nên cứ lâu lâu họ lại tung ra tin này tin khác. Từ những thông tin úp mở về nhân thân của ông Hồ Chí Minh cho đến các thỏa thuận, ký kết bí mât giữa hai đảng, càng làm cho nhà nước Việt Nam bị “mất điểm” trong mắt nhân dân và thế giới. Về phía người dân Việt Nam, từ “tôi muốn biết”, sẽ chỉ là một khoảng cách ngắn đi đến chỗ “tôi muốn thay đổi”, và “chúng tôi muốn sống tốt đẹp hơn”. “We want to change. Can we change? Yes, we can”. Như thông điệp ứng cử của Tổng thống Barack Obama trước đây. Nguồn: facebook.song-chi
......

Buổi tọa đàm về UPR tại Sài Gòn

Buổi Tọa Đàm về UPR (Kiểm điểm định kỳ toàn cầu) diễn ra tại số 38 Kỳ Đồng   (05.8.2014) – Sài Gòn – Để ‘phổ biến kết quả Kiểm điểm định kỳ toàn cầu 2014 (Universal Periodic Review – UPR) của Việt Nam’, và để áp dụng cơ chế nhân quyền này nhằm ‘chuyển tiếng nói [đối lập] ra diễn đàn quốc tế’, liên minh 3 tổ chức xã hội dân sự bao gồm Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Phong trào Con đường Việt Nam, Văn phòng Công Lý-Hòa Bình đã tổ chức buổi tọa đàm chuyên đề: “UPR Việt Nam: Tiến trình – Tiềm năng và Thực tiễn”. Buổi tọa đàm diễn ra hôm nay, thứ Sáu, 5/9 tại số 38 Kỳ Đồng quận 3 Sài Gòn (DCCT), với sự tham gia của các đại diện đại sứ quán Hoa Kỳ, Canada, Thụy Sỹ, các tổ chức Xã hội Dân sự (XHDS) và các chức sắc tôn giáo. Sự kiện diễn ra chỉ hơn hai tháng sau khi Việt Nam hoàn thành kỳ Kiểm điểm định kỳ Phổ quát (UPR) nhân quyền lần 2 tại Geneva hôm 20/6/2014. Diễn giả của buổi tọa đàm bao gồm những nhân vật đã tham dự các kỳ UPR Việt Nam như tiến sĩ Nguyễn Quang A, thân phụ ông Trần Huỳnh Duy Thức, ông Phạm Lê Vương Các và ông Bùi Tuấn Lâm. Kiểm điểm Định kỳ Toàn cầu (The Universal Periodic Review – UPR) là một tiến trình độc nhất trong đó các thành tích nhân quyền của tất cả 193 thành viên Liên Hợp Quốc sẽ được kiểm điểm định kỳ. Cơ hội chuyển tiếng nói nhân quyền ra quốc tế Trong kỳ UPR 2014 vừa qua, Việt Nam chấp nhận 182 trong tổng số 227 kiến nghị của 106 nước. Tuy nhiên ông Phạm Lê Vương Các, một blogger cho biết, “trong thời gian vừa qua, chúng tôi ghi nhận nỗ lực rất ít của nhà nước trong việc phổ biến kết quả [UPR] này” vì thế qua buổi tọa đàm “chúng tôi hy vọng rằng công chúng sẽ biết đến UPR nhiều hơn”. Ông Các nhấn mạnh: “theo tôi đánh giá, cái cơ chế để mình có thể chuyển tiếng nói nhân quyền từ trong nước ra đối với quốc tế, không gì khác hơn ngoài việc tham gia vào tiến trình UPR này.” Ông Các giải thích thêm: “ở trong nước, giữa nhà nước và các tổ chức XHDS có một khoảng cách chênh lệch rất lớn, tuy nhiên khi tham gia diễn đàn quốc tế [UPR] thì chúng ta [các XHDS] bình đẳng với nhà nước”, đây cũng “là cơ hội để các nhóm XHDS phát biểu trước Hội đồng nhân quyền LHQ.” Tiến sĩ Nguyễn Quang A thuộc tổ chức Diễn Đàn XHDS cũng đồng thuận với ý kiến trên và cho rằng: “sự hiện diện của các tổ chức XHDS” tại các diễn đàn quốc tế là điều quan trọng. Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một trong 4 người thuyết trình tại buổi tọa đàm Ông nói: “ở trong nước, các tổ chức XHDS chưa được đăng ký bị chính quyền coi là tổ chức thù địch và phản động. Sự hiện diện của họ tại LHQ, EU, các bộ ngoại giao … chứng tỏ họ là một đối tác được quốc tế công nhận, tôn trọng” vì “quy định của quốc tế là một tổ chức có được đăng ký hay không là không quan trọng, miễn là nó hoạt động như thế nào… và trách nhiệm của nhà nước là phải để họ được đăng ký”   “Các tổ chức XHDS hiện nay chưa có cơ hội đối thoại với chính quyền nên phải thông qua sự hiện diện như thế để đối thoại một cách gián tiếp,” ông nói tiếp: “chúng tôi kỳ vọng sẽ dần dần, [các XHDS] có thể đối thoại trực tiếp” vì các tổ chức ”XHDS rất cần cho chính hoạt động của chính quyền và xã hội.” ‘Một thông điệp gửi tới chính phủ’ Buổi tọa đàm về UPR cũng có sự tham gia của các đại diện đại sứ quán nước ngoài. Ông Andrej Motyl, Đại sứ Thụy sĩ, chia sẻ, ông đến để ‘học hỏi và tìm hiểu’ những gì đang xảy ra. Ông còn cho biết, sự hiện diện của ông như là ‘một thông điệp’ gửi tới chính phủ Việt Nam về sự ủng hộ của Ông đại sứ đối với hoạt động của các tổ chức XHDS. Quá trình UPR còn cần đến các XHDS chứ không chỉ của nhà cầm quyền Việt Nam. Tuy không đưa ra phát ngôn chính thức nào, nhưng Charles Sellers thuộc Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ cũng cho biết, ông đến “để học hỏi và quan sát.” Ông khẳng định, Hoa Kỳ muốn cải thiện quan hệ với Việt Nam và mong muốn Việt Nam thi hành đầy đủ các hiệp ước về quyền con người, trả tự do vô điều kiện các tù nhân chính trị. Bên cạnh việc thừa nhận tầm quan trọng của cộng đồng quốc tế, tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng lưu ý không nên kỳ vọng quá nhiều. Ông nhận định thêm, tuy Việt Nam Việt Nam chấp nhận 182 trong tổng số 227 kiến nghị của các nước trong kỳ UPR vừa qua, nhưng các kiến nghị bị bác bỏ đều là ‘những khuyến nghị hết sức cốt lõi về nhân quyền’ về ‘đa nguyên, quá trình dân chủ, tự do biểu đạt.’ Các tổ chức XHDS cần tìm ra những điểm tích cực mà Việt Nam đã chấp nhận để đối thoại, ông kết luận. Đức Thiện, VRNs Nguồn: VRNs
......

Báo TQ: Hà Nội đang chơi trò…liều giữa Mỹ và Trung Quốc

UV BCT Lê Hồng Anh vừa thăm Bắc Kinh, về Hà Nội, chưa làm xong báo cáo gửi BCT, thì Trung Quốc đã xỏ xiên bằng một bài báo trên Hoàn Cầu Thời báo (HCTB – Global Times) – phát ngôn của Nhân dân Nhật báo bằng tiếng Anh – với cái tít “Việt Nam đang chơi trò liều giữa Trung Quốc và Mỹ”. Chưa dừng ở đó, HCTB còn đăng cái ảnh giễu một anh nông dân đội nón cầm ô, chân đi dép thái, mặc áo nâu sồng gì đó, mồ hôi túa ra và đang…leo dây. Trông na ná ông khách vừa ở Trung Nam Hải. Nhìn mà tức điên. Tranh châm biếm của Hoàn Cầu Thời báo. Xem bài này thấy cái tone của Ngoại giao thuyền thúng. Dịch lược như sau – by Cua Times :)   Vào giữa tháng 8, tướng Mỹ Martin Dempsey thăm VN, như một biểu tượng về quốc phòng và an ninh Mỹ – Việt. Nhiều người cho rằng, đây là bước “đại nhảy vọt” của hai quốc gia về quốc phòng. Sau chuyến đi của Dempsey, ông Lê Hồng Anh, đặc phái viên cao cấp của TBT Trọng đến Bắc Kinh nhằm khai thông bế tắc sau vụ giàn khoan. Hai chuyến đi phát ra hai thông điệp. Dempsey sang Hà Nội để hợp tác an ninh và quốc phòng, với hy vọng VN mua được vũ khí Mỹ để tự tin đối trọng với Trung Quốc. Nhưng chuyến đi của ông Lê Hồng Anh lại gửi một tín hiệu khác: Hà Nội muốn sự ổn định và hàn gắn với Bắc Kinh, dù đã bị sứt mẻ trong mấy tháng qua. Hai thông điệp này xem ra đầy mâu thuẫn. Quan hệ Mỹ Việt tốt hơn sẽ làm Bắc Kinh nghi ngờ về sự thật lòng của Hà Nội. Ông Lê Hồng Anh tới Bắc Kinh cũng chỉ cho Mỹ biết là Hà Nội không quá thiết tha gì với Mỹ đâu. Theo một nghĩa nào đó, trò ngoại giao leo dây này làm cho cả Mỹ và Trung Quốc đều thất vọng. Có vẻ Việt Nam đang áp dụng chiến thuật “tự mâu thuẫn mình”  trong bảo vệ quyền lợi quốc gia. Một mặt, Hà Nội muốn Washington chống lưng, nhưng lại không thể phụ thuộc hoàn toàn vào Washington. Những gì xảy ra tại Iraq, Afghanistan, Ukraine, những động thái yếu đuối và nhu nhược của Washington chứng tỏ rủi ro cao nếu có quốc gia nào tìm cách chọn Mỹ làm đồng minh để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Hơn thế, những gì xảy ra trong lịch sử Mỹ-Việt thì không thể một sớm một chiều để quan hệ có thể đơm hoa kết trái. Vì thế, cho dù hợp tác quân sự và an ninh có tốt hơn thì hai bên còn dò xét nhau chán mới có thể tin được. Mặt khác, Việt Nam không thể đối đầu với Trung Quốc trên biển Đông với cái giá làm đóng băng quan hệ láng giềng. Người ta có thể chọn bạn mà không thể chọn láng giềng. Nước nhỏ và trung bình không thể đối đầu với các nước lớn nếu không còn lựa chọn nào khác. Việt Nam đối đầu với Trung Quốc là chiến lược không khôn ngoan. Việt Nam nên uyển chuyển hơn khi quan hệ Việt Trung trở nên canh chẳng ngọt, cơm chẳng lành. Hai nước cần nhìn vào thực tế để thỏa hiệp trong những thời điểm nhất định. Kịch bản lý tưởng đối với Việt Nam là Hà Nội được Washington ủng hộ về chính trị, an ninh quốc gia, và ngoại giao, khi căng thẳng với Trung Quốc. Và có thể dùng lợi thế đó, dù rất hạn chế, để làm nhặng xị trên biển Đông. Nhưng kịch bản lý tưởng này chỉ có thể có được khi giữ thế cân bằng giữa Washington và Bắc Kinh. Tuy nhiên, trong cuộc chơi này, không chỉ Việt Nam đang cầm cái. Hà Nội đang leo dây bằng cách lợi dụng cả Mỹ lẫn Trung Quốc. Trung Quốc đã rất kiềm chế, nhưng tình hình có thể mất kiểm soát nếu Việt Nam tiếp tục khiêu khích. Chơi trò leo dây giữa Mỹ và Trung Quốc xem ra nguy hiểm cho Việt Nam. Hà Nội cần dừng kiểu xoay trục và giữ một thái độ nhất quán về biển Đông. Hà Nội cần chiến lược bài bản và khôn ngoan chứ không phải thói khôn vặt và cơ hội. Tiếng Anh gốc ở đây – Nhờ ai đó dịch chuẩn hơn :)http://www.globaltimes.cn/content/879564.shtml Theo Global Times Nguồn: hieuminh.org
......

Chính quyền VN 'cố đấm ăn xôi' với yêu cầu 'viết đơn xin tha tù'

Ngày 28/8 vừa qua, Nguyễn Văn Hải, tức blogger Điếu Cày, bị chính quyền Việt Nam bỏ tù về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” vào tháng 4 năm 2012, đã gọi điện về gia đình và báo là người của Bộ Công an đã yêu cầu ông “viết đơn xin tha tù" để được “đặc xá” nhân Quốc khánh 2/9 nhưng ông đã không chấp nhận. Tôi không ngạc nhiên về yêu cầu này của công an Việt Nam vì nó đã xảy ra với bản thân tôi, người cũng bị chính quyền Việt Nam bỏ tù theo “tội danh” này một năm trước đó, vào tháng 4 năm 2011. Cuối tháng 8 năm ngoái, 2013, cũng khoảng ngày 28, hai sĩ quan Tổng cục An ninh - Bộ Công an Việt Nam đã đến gặp tôi tại trại giam số 5 – Bộ Công an (Yên Định, Thanh Hóa) và nói: “Anh Vũ viết đơn xin định cư ở Mỹ thì anh sẽ được Chủ tịch nước đặc xá nhân Quốc khánh 2/9”. Ngay lập tức tôi thẳng thừng: “Không bao giờ tôi viết đơn xin định cư ở Mỹ hay bất cứ nước nào khác để ra khỏi nhà tù! Ngược lại, Nhà nước phải trả tự do cho tôi ngay tức khắc và vô điều kiện vì việc tôi đấu tranh chống chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Việt Nam để Việt Nam có Dân chủ và Nhân quyền là hoàn toàn chính nghĩa, tôi chỉ có công với Nước, với Dân chứ không có tội!”. Hơn 3 tháng sau, ngày 10 tháng 12, cảnh sát trại giam đưa tôi ra khỏi buồng giam với lý do Đại sứ quán Mỹ muốn gặp tôi. Trước sự có mặt của hơn chục công an, bà Jenifer Neidhart de Ortiz, đại diện Đại sứ quán Mỹ, qua phiên dịch là anh Mạnh, nói với tôi: “Chính phủ Mỹ rất vui mừng và hân hạnh mời Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ để làm việc cho Dân chủ và Nhân quyền ở Việt Nam cũng như cho quan hệ tương lai giữa Mỹ và Việt Nam. Chính phủ Mỹ cũng bảo đảm cho gia đình của Tiến sĩ cùng sang Mỹ với Tiến sĩ”. Tôi đáp: “Tôi cảm ơn thiện chí này của Chính phủ Mỹ. Tuy nhiên đây là việc hệ trọng liên quan đến cả gia đình tôi nên tôi cần trao đổi việc này với gia đình tôi. Tôi sẽ sớm thông báo Đại sứ quán Mỹ về quyết định của tôi”. Đến tháng 1 năm nay, 2014, bà Neidhart de Ortiz một lần nữa vào trại giam để nhận câu trả lời chính thức của tôi. Tại buổi gặp, vẫn trước mặt hơn chục công an của cả Bộ ông an lẫn trại giam, tôi nói với vị đại diện Đại sứ quán Mỹ: “Sau khi đã trao đổi với gia đình tôi, tôi quyết định chấp nhận lời mời của Chính phủ Mỹ để sang Mỹ làm việc cho Dân chủ và Nhân quyền của Việt Nam. Tuy nhiên một lần nữa để Chính phủ Mỹ không ngộ nhận về tôi - Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, ngay lúc này trong nhà tù của chính quyền cộng sản Việt Nam tôi khẳng định cho dù sang Mỹ thì trái tim và khối óc của tôi luôn thuộc về Tổ quốc và nhân dân Việt Nam và tôi sẽ đấu tranh đến cùng chống lại chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Việt Nam (I will fight the dictatorship of the Communist party of Viêt Nam until the end)”.   Bà Neidhart de Ortiz cảm ơn tôi về việc tôi đã nhận lời mời của Chính phủ Mỹ. Ngay lúc đó Đại tá, phó giám thị trại giam Lê Duy Sáu đứng lên nói: “Anh Vũ phải viết đơn xin tha tù thì mới đi Mỹ được”. Bà Neidhart de Ortiz phản ứng: “Trong các buổi làm việc với Đại sứ quán Mỹ về việc trả tự do cho Tiến sĩ Vũ để Tiến sĩ Vũ đi Mỹ, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an Việt Nam không hề nói đến việc Tiến sĩ Vũ phải viết đơn xin tha tù. Đây là việc phát sinh”. Cai ngục này lúng búng: “Đây chỉ là thủ tục để anh Vũ đi Mỹ thôi”. Tôi nghiêm giọng: “Không bao giờ có chuyện tôi viết đơn xin tha tù vì tôi không có tội! Ngược lại, tôi sẽ gửi cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang văn bản yêu cầu trả tự do cho tôi ngay lập tức và vô điều kiện vì Nhà nước bỏ tù tôi trái pháp luật. Tôi cũng sẽ gửi cho Đại sứ quán Mỹ một bản sao văn bản này”. Và đó là điều mà tôi đã làm ngay sau cuộc gặp với vị đại diện Đại sứ quán Mỹ. Cũng cần nói thêm rằng cuối buổi gặp với tôi, bà Neidhart de Ortiz đề nghị công an cho bà một bản sao ghi cuộc gặp mà công an thực hiện bằng camera nhưng đề nghị này của bà đã không được đáp ứng. Đầu tháng 4 vừa rồi, công an đưa tôi tờ khai đề nghị cấp hộ chiếu gửi cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Việt Nam. Xét thấy đây là thủ tục cần thiết để xuất cảnh nên tôi đã điền họ, tên và ký vào tờ khai này. Và đến 6 giờ chiều ngày 6 tháng 4 thì công an đưa tôi từ trại giam thẳng ra phi trường Nội Bài (Hà Nội) để bay sang Mỹ bất chấp yêu cầu trước đó của tôi là qua nhà tôi tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội để tôi thắp nén hương trước bàn thờ tổ tiên và ôm hôn tạm biệt người thân cũng như qua Nghĩa trang quốc gia Mai Dịch để thắp nén hương cho thân phụ tôi là Nhà thơ Huy Cận và bác ruột đồng thời là cha nuôi của tôi là Nhà thơ Xuân Diệu. Chỉ ngay khi máy bay hãng Korean Air nơi vợ tôi là Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà và bà Neidhart de Ortiz, đại diện Đại sứ quán Mỹ, đợi sẵn chuẩn bị cất cánh, người của Bộ Công an mới dúi cho tôi “Quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù” cho người bị kết án là Cù Huy Hà Vũ do Chánh án Tòa án Nhân dân tỉnh Thanh Hóa ký cùng ngày với lý do “người bị kết án bị bệnh nặng”! Trước khi bước lên máy bay, tôi giơ tay hình chữ “V” hô to với tất cả mọi người có mặt, từ hành khách cho đến công an, an ninh và nhân viên phi trường: “Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ chiến thắng!” Có thể nhận định gì từ yêu cầu “viết đơn xin tha tù” mà công an Việt Nam đã đặt ra với tôi, với Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và với những tù nhân khác nữa? Không nghi ngờ gì nữa, việc công an Việt Nam yêu cầu tù nhân “viết đơn xin tha tù” hoàn toàn mang động cơ chính trị. Thực vậy, nếu chỉ cần viết một lá đơn như thế mà được ra tù thì nhắm mắt cũng có thể nói 100% những tù nhân thừa nhận bản thân phạm tội sẽ làm ngay tắp lự đồng nghĩa việc bỏ tù họ là thừa, nếu không muốn nói là ngớ ngẩn. Do đó yêu cầu này của công an Việt Nam chỉ có thể nhắm đến tù nhân luôn khẳng định bản thân vô tội và được công luận trong và ngoài nước hối thúc trả tự do. Vậy tại sao lại có tù nhân như vậy?   Trước hết cần nhắc lại rằng Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 1992, Điều 25 Hiến pháp Việt Nam 2013 cũng như Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên bảo đảm cho công dân quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Nói cách khác, việc thực hiện các quyền này một cách ôn hòa, bất bạo động là hoàn toàn hợp pháp và vì vậy không thể là tội phạm. Thế nhưng với bản chất độc tài cộng sản, chính quyền Việt Nam quyết xóa sổ các quyền con người này trên thực tế bằng cách đặt ra Điều 88 – “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Điều 258 – “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, Điều 79 – “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” trong Bộ Luật hình sự để đàn áp, bỏ tù những công dân thực hiện các quyền chính đáng này. Tóm lại, ba điều luật hình sự này là trắng trợn vi Hiến và vi phạm công pháp quốc tế mà Việt Nam đã cam kết tuân thủ. Điều đáng chú ý là để né tránh sự phản đối quyết liệt ba điều luật hình sự phản nhân quyền đồng nhất với trái pháp luật nói trên từ công luận, đặc biệt từ các nước dân chủ phương Tây, nhất là trong bối cảnh chính quyền Việt Nam đang ra sức ve vãn các nước này để có được lợi ích kinh tế lớn như TPP nhằm cứu vãn nền kinh tế quốc gia bên bờ sụp đổ vì tham nhũng, chính quyền Việt Nam bèn tạo dựng cho người đấu tranh cho Dân chủ và Nhân quyền ở Việt Nam hành vi phạm tội phi chính trị để bỏ tù họ cho bằng được. Đó là điều đã xảy ra với Lê Quốc Quân, bị bỏ tù theo Điều 161 – “Tội trốn thuế”, Trần Khải Thanh Thủy, bị bỏ tù theo Điều 104 – “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”, hay mới đây nhất, Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh, bị bỏ tù theo Điều 245 – “Tội gây rối trật tự công cộng”… Như trên phân tích, những người thực hiện các quyền tự do, dân chủ không phải là tội phạm dưới bất kỳ hình thức nào và do đó việc bỏ tù họ là hoàn toàn trái pháp luật. Điều này giải thích vì sao chính quyền Việt Nam tìm mọi cách buộc họ nhận tội, kể cả dưới dạng “viết đơn xin tha tù” cốt hợp pháp hóa hành vi đàn áp nhân quyền của chính quyền này. Thực vậy, “viết đơn xin tha tù” là thừa nhận bản thân phạm tội và xin được khoan hồng. Do đó tù nhân bị tù do đấu tranh bất bạo động chống độc tài cộng sản, vì Dân chủ và Nhân quyền ở Việt Nam, thường được gọi là tù nhân chính trị - tù nhân lương tâm, mà “viết đơn xin tha tù” thì chẳng những hợp pháp hóa hành vi bỏ tù họ trái pháp luật của chính quyền Việt Nam mà còn phủ nhận tính chính nghĩa cuộc đấu tranh này, điều mà những kẻ đưa ra yêu cầu mong ngóng nhất. Ngay dù không “viết đơn xin tha tù” mà tù nhân chính trị - tù nhân lương tâm “viết đơn xin định cư ở Mỹ hay nước khác” thì cũng là hủy hoại cuộc đấu tranh chính nghĩa nói trên vì làm thế chẳng khác nào thừa nhận cuộc đấu tranh này rốt cuộc sẽ không đi đến đâu. Vì thế những tù nhân chính trị - tù nhân lương tâm có niềm tin sắt đá vào tất thắng của cuộc đấu tranh nhằm thiết lập Dân chủ và Nhân quyền ở Việt Nam đều thà ở tù đồng nhất với chấp nhận cái chết có thể đến bất cứ lúc nào chứ nhất định không chịu “viết đơn xin tha tù”, “viết đơn xin định cư ở nước ngoài” như nhà cầm quyền cộng sản thúc ép. Tóm lại, việc chính quyền Việt Nam ép tù nhân chính trị - tù nhân lương tâm “viết đơn xin tha tù” hay “viết đơn xin định cư ở nước ngoài” khi buộc phải trả tự do cho họ do áp lực trong nước và ngoài nước, đặc biệt từ Mỹ và các nước dân chủ phương Tây khác, rõ ràng là hành vi vớt vát điều không thể có của kẻ yếu bởi không có chính nghĩa, hay “cố đấm ăn xôi” như lời cổ nhân nước Việt. Điều này có nghĩa cách tốt nhất đối với chính quyền cộng sản Việt Nam để không phải “cố đấm ăn xôi” và hơn thế nữa, để sớm thiết lập chế độ Dân chủ - Đa đảng nhằm bảo đảm Nhân quyền đầy đủ như toàn dân Việt Nam và cộng đồng văn minh quốc tế đang quyết liệt đòi hỏi, là xóa bỏ không chậm trễ các điều luật hình sự phản nhân quyền cũng như trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị - tù nhân lương tâm ngay lập tức và vô điều kiện. Nguồn: voatiengviet.com
......

Nhất quyết không trả cho Ceasar

Đầu tháng, tôi thường để ý xem tháng đó những sự kiện gì cần lưu ý để chuẩn bị trước. Những sự kiện này cũng thay đổi theo thời gian và tuổi tác của tôi. Khi còn đi học, Tháng 9 có ngày Khai trường vào đúng ngày Mùng 5 là cần lưu ý nhất. Trước ngày đó, chúng tôi không hề bước chân vào trường trong suốt mấy tháng hè. Đúng bong ngày Khai giảng, cả trường tề tựu làm lễ ở sân như khi chào cờ, sau đó về lớp của mình để nghe Thầy Cô Chủ nhiệm mới dặn dò, bầu Ban Cán sự lớp, chép Thời Khóa biểu mới. Cứ thể chúng tôi nhẹ nhàng bước chân vào năm học mới. Thế hệ 7x đời đầu chúng tôi chỉ được nghe nói đến bài “Tôi Đi học” của Nhà Văn Thanh Tịnh chứ không được học vì bài này không có trong Sách Giáo khoa. Tuy vậy, thời chúng tôi, mọi thứ vẫn còn trong trẻo như bài hát “Đi học” cho dù mầm mống cái xấu đã bắt đầu lác đác xuất hiện qua việc học thêm và hệ lụy của nó là ai không học thêm thì không được ưu ái như  các bạn “nhà có điều kiện” khác. Tôi nhớ năm lớp 9, Cô Chủ nhiệm cũng là Cô giáo dạy Văn có gọi tôi và một bạn khác đến và bảo: “Điểm của hai em đủ để được tuyển thẳng lên Lớp 10 (không phải thi), nhưng còn thiếu 0.25 điểm Môn Văn của cô nữa mới được. Hai đứa cho cô ăn chè đi rồi cô nâng điểm cho!” Nhà tôi khi đó lo ăn còn không đủ, có ai ngó ngàng được đến chuyện học của tôi. Tôi học sao cũng được, miễn đừng ở lại lớp là được! Cần phải nói thêm là tôi chưa từng là học trò cưng của Thầy Cô dạy Văn hồi còn học Phổ thông. Thú thật, cho tới giờ, tôi cũng chẳng biết tôi đã học được gì về Văn dưới mái trường Xã nghĩa! Quay trở lại với vấn đề lớn của tôi. Tôi băn khoăn rất nhiều về lời Cô nói nhưng chẳng biết phải làm gì. Sau cùng, tôi đành xin Má tôi một cái bánh Trung thu lớn để biếu Cô (đang mùa Trung thu, gia đình tôi làm bánh bán). Bà Mẹ buôn thúng bán bưng của tôi chẳng hiểu “tuyển thẳng” là gì, nhưng cũng cho tôi một cái bánh. Bây giờ, nghe đến bánh Trung thu thấy bình thường, chứ ngày ấy, bột, đường, đậu, thịt, v.v rất đắt đỏ, cái bánh ấy không hề nhỏ đối với gia đình tôi. Tôi rủ nhỏ bạn đồng cảnh ngộ đến nhà Cô. Khi gặp nhỏ bạn ở điểm hẹn, tôi thấy cô nàng đi tay không, chẳng quà cáp gì cả. Nhỏ bạn tỉnh bơ trả lời tôi: “Bả thích ăn chè thì tao cho bả ăn chè”. Nói là làm. Nó kêu tôi dừng lại ở một quán chè rồi mua 10 bịch chè, bỏ vô một cái bao đưa tới cho “bả”. Khi gặp Cô, chúng tôi trao cho Cô “lễ vật” của mình. Cô cầm bịch chè bự chảng của nhỏ bạn rồi hỏi: “Cái gì vậy em?”. Nó lại tỉnh rụi: “Bữa hổm Cô nói muốn ăn chè?” Cô tôi tặc lưỡi bảo: “Hai cái đứa này, Cô nói chơi mà làm gì kỳ vậy!” Đã 30 năm rồi, câu chuyện ăn chè này vẫn còn ám ảnh tôi, nhà Cô chỉ có 3 người, tôi cứ thắc mắc Cô đã làm gì với 10 bịch chè đá ấy! Phải chi ngày ấy Cô đừng nói chơi cho tâm hồn non trẻ của hai đứa tôi vẫn còn lành lặn! Thôi thì tôi cũng vẫn còn may, nhờ cái bánh ấy mà tôi được vào lớp học tốt và cuộc đời tôi cũng đi theo một ngã rẽ khác. Cái giá cũng không đến nỗi mắc! Giờ thì tôi thấy các bậc phụ huynh vất vả về sự học của con cái hơn Cha Mẹ chúng tôi ngày trước. Bây giờ chưa hết Tháng 8 mà cách đây hai tháng tôi đã thấy mọi người xung quanh nháo nhác chạy trường cho con. Vợ chồng cậu em họ tôi, làm việc cho Xí nghiệp May mà cũng phải bấm bụng chi 25 Triệu để bé gái con nó được học ở trường của Phường bên cạnh vì trường của phường nhà gần ngay ổ xì ke. Cậu nhân viên trong văn phòng tôi thì hí hởn vì chỉ phải trả 15 Triệu để con học ở một trường tiện đường cho Bà nội đón đưa. Cô bạn làm ở văn phòng kế bên kể rằng cô phải o bế cả tay bảo vệ để hắn xi nhan cho cô ấy khi nào Thầy Hiệu Trưởng về để cô tới chạy trường! Cách đây một năm, mọi người đã rất bàng hoàng chứng kiến trên tivi hình ảnh phụ huynh sếp hàng chờ phát đơn từ tờ mờ sáng và họ đã xô xập cả cửa trường để giành lấy một lá đơn cho con. Chẳng biết họ mong con mình học được gì ở ngôi trường bị chính họ hè nhau đẩy xập cổng! Sự đảo điên và dối trá của Giáo dục Việt nam còn được thể hiện qua cả cái ngày Khai giảng. Những năm gần đây, các em bắt đầu học từ giữa Tháng 8, nhưng ngày Khai giảng vẫn là ngày 5/9. Chẳng biết tâm trạng của các em trong ngày đó ra sao nữa. Lẩn thẩn, tôi lần mò trên mạng thì thấy giải thích tính ưu việt của việc học sớm: học sinh không phải thi vào mùa Noel, được nghỉ Tết dài ngày, v.v… còn khai giảng 5/9 là làm cho đúng với lời dặn của ông cụ! Tôi thì chỉ thấy khôi hài cho cái sự máy móc làm theo lời bác dặn ấy! Đã trót càm ràm thì tôi phải nói cho nốt cả sự xuống cấp về đạo đức của một ngành cao cả khác cũng có những người Thầy, nhưng các Thầy không dạy học mà chuyên chữa trị cho bệnh nhân. Tháng trước, có quy định cấm không cho Thầy thuốc nhận phong bì! Tôi cũng như mọi người, chỉ cười ruồi vào cái quy định ấy. Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi, viết khơi khơi quy định mà chẳng quyết tâm thực hiện nó thì các cửa hàng Văn phòng phẩm vẫn còn kiếm bộn tiền nhờ bán phong bì cho bệnh nhân. 25 năm trước, tôi nuôi chị gái phải làm phẫu thuật ở bệnh viện. Khi hai hộ lý đẩy xe đưa chị từ Phòng hồi sức lên phòng bệnh, tôi làm đúng lời mọi người dặn, nhét vội tiền bồi dưỡng vào túi áo một cô hộ lý. Tôi dại quá, khiêng chị tôi lên giường là trách nhiệm của hai người, vậy mà tôi chỉ nhét tiền vào túi của một người vì nghĩ họ sẽ chia nhau. Người kia không thấy tôi đưa tiền cho mình, liền hất thật mạnh chị tôi lên giường! Giờ thì tôi hiểu tại sao áo của Y, Bác sỹ và cả Hộ lý trong bệnh viện lại có nhiều túi như vậy và cái nào cũng to ơi là to. Cách đây 14 năm, một người chị của tôi được chẩn đoán ung thư giai đoạn 3. Là người trong ngành Y, chị cứ tự loay hoay đi khám bệnh ở Bệnh viện Ung bướu, nhưng chờ hoài, chẳng thấy được sắp lịch mổ dù bệnh chị đã nặng. Chị hỏi thăm một người bà con làm trong bệnh viện này, họ tình thật hỏi chị đã “ghé nhà” Bác sỹ chưa. Ngay tối đó, tôi chở chị đến nhà Bác sỹ vẫn khám cho chị và đưa cho ông phong bì chứa 2 Triệu đồng (Năm 2001: 1 US$ = 15.000đ; Năm 2014: 1 US$ = 21.150đ). Hai ngày sau, chị lên bàn mổ. Số tiền chị bỏ ra còn rẻ chán so với số tiền của những bệnh nhân ở xa đến, vì không biết “ghé nhà” mà phải ăn dầm nằm dề ở hành lang bệnh viện hàng tháng trời chờ lịch mổ trong khi bệnh tình cứ diễn biến xấu đi hàng ngày. Sự thể đến nước này, theo tôi là do sự quản lý yếu kém của nhà nước. Cứ như trước năm 1975, nhà nước ở Miền Nam có hệ thống trường học và bệnh viện công/tư phục vụ cho những đối tượng khác nhau. Nhà nước lo quản lý các trường học và bệnh công cho tốt, còn hệ thống của tư nhân có chuẩn riêng của họ và thước đánh giá chính là sự chọn lựa của người sử dụng dịch vụ. Riêng tôi, tôi đánh giá rất cao hệ thống giáo dục và y tế do các tôn giáo đảm trách, đặc biệt là Công giáo. Trong khu vực do VNCH quản lý từ Miền Trung đổ vào khắp Miền Nam, rất dễ nhận thấy các trường học và bệnh viện do Công giáo lập nên. Thông thường bên cạnh hoặc sau lưng một Nhà thờ Công giáo thế nào cũng có một bệnh viện hoặc một trường học. Bên giáo dục, hệ thống trường học của Dòng tu La san được đánh giá rất cao. Các vị tu sĩ của dòng này đi tu với tôn chỉ phục vụ giáo dục. Họ là những nhà Giáo dục chuyên sâu và rât tận tâm. Còn có Dòng tu Don Bosco, chuyên chú trọng đào tạo nghề cho các thanh thiếu niên. Tôi có một người chú học từ trường này ra, ông có thể tự dựng một căn nhà cho mình. Các Dòng tu nữ lại chuyên về giảng dạy ở cấp Mẫu giáo, các Viện Mồ côi. Tóm lại, các vị tu sỹ nam nữ này đã đảm trách công việc giáo dục của mình một cách xuất sắc vì họ làm việc vô vụ lợi và với lòng nhiệt huyết xuất phát từ trong tim. Về Y tế, bệnh viện do Công giáo xây dựng thì nhiều lắm. Trong số các bệnh viện đó, tôi ấn tượng nhất là những Khu chữa trị cách biệt cho bệnh nhân phong hủi mà hầu như chỉ có những tu sỹ với tinh thần hy sinh cho tha nhân triệt để mới dám dấn thân đến với những bệnh nhân bất hạnh này. Bây giờ vẫn còn những bệnh viện mang tên của Dòng tu cũ như Bệnh viện Saint Paul ở Hà nội và Sài gòn. Nhưng tất cả chỉ còn lại cái tên mà thôi. Sau năm 1975, tất cả những cơ sở này của Công giáo đều bị quốc hữu hóa, những bức tượng Thánh trong các bệnh viện cũng bị hạ xuống. Gần 40 năm qua, họ đã làm gì với những cơ sở này thì ai cũng biết. Từ những nơi trước đây được gọi là Nhà thương thì bây giờ vào đây, bệnh nhân nghèo chỉ muốn chết đi vì tủi thân mà thôi. Giờ thì tôi có thể quay trở lại với cái tít của entry này. Chúa Giêsu đã phán “Những gì của Ceasar hãy trả lại Ceasar. Những gì của Thiên Chúa hãy trả lại Thiên Chúa “. Tôi thấy không cần thiết phải kể lại điển tích của câu chuyện này. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến những người cố tình cầm những cái không phải thuộc về mình và làm hỏng nó đi, khi bị đòi trả lại cho chủ nhân của món đồ thì họ nhất định không chịu trả, dù trong thâm tâm họ cũng biết họ là những người chủ tồi! Cũng may là vạn sự đều tuân theo quy luật “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Những ngày này, tôi đã thấy vài tín hiệu le lói báo hiệu điều tốt lành. Ờ Sài gòn và vài ba tỉnh thành khác, có những trường Mẫu giáo do các Dì phước mở ra được phụ huynh đặt chỗ cho con từ lúc mẹ mới mang thai. Họ tin tưởng giao con cho các Dì vì các bé học ở đây sẽ rất lễ phép và phụ huynh không phải lo phong bì cho các Dì. Các cậu thiếu niên không ngoan cũng được Cha Mẹ đưa đến gửi các Linh mục Don Bosco. Lại nữa, những ngày này, nhiều người (kể cả cán bộ CS) đã cho con tham gia sinh hoạt Hướng đạo (Scout) ở các công viên vào sáng Chủ nhật vì  họ biết tổ chức này tốt hơn Đoàn/Đội trong việc giúp con em họ trở nên tự trọng và tự lập. Dù có người không chịu trả thì “của Ceasar” cũng sẽ tự tìm về với Ceasar mà thôi! Nguồn: uyenvysaigon70.wordpress.com
......

Một góc khuyết trong lịch sử Việt Nam

Tôi không biết bạn nghĩ gì khi nghe câu phát biểu này của ông Vũ Ngọc Hoàng, một quan chức cấp cao của ban tuyên giáo Trung Ương. Còn tôi thì thấy lỗ tai điếc ù, chân tay rụng rời và tim thì hoá đá. Dù thực tế đã nghe nói nhiều, đã thấy hiển nhiên, nhưng đây lại là lời phát biểu của một ông quan lớn. Những người chỉ quen nổ về những thành tựu vĩ đại qua những con số vĩ đại và được thực hiện bởi những con người “VĨ ĐẠI”: ... đi xin việc làm osin ... “Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin…” Thú thật, tối không am hiểu nhiều về lịch sử. Nhưng khi đọc tác phẩm đồ sộ Tri thức tinh hoa Việt Nam đương đại của Hàm Châu thì tôi thấy rằng lịch sử nước ta đang thiếu một thứ, một thứ vô cùng quan trọng, đó là một thế hệ DÁM DẤN THÂN CHO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VÀ CÁCH TÂN ĐẤT NƯỚC. Một sự nghiệp có thể dẫn tới sự vinh quang đi kèm với bi kịch cá nhân. Lịch sử đang thiếu một lớp người như vậy. Đất nước đang thiếu một thế hệ như vậy.   Qua sự kiện HD981 tôi đã rất hy vọng rằng đất nước sẽ có một cú CHUYỂN MÌNH vĩ đại, tôi đã hy vọng như thế và rất kỳ vọng như thế. Nhưng có lẽ tất cả đã sụp đổ. Phe thân Tàu lại tiếp tục thân Tàu. “Quả bom” 981 đã tiễn hơn 4000 dân Tàu về nước nhưng giờ họ lại sang với số lượng gấp ba. Một con số khiến cho tất thảy những người con yêu nước đều hoang mang và kinh hãi. Suốt bốn tháng qua chủ đề thoát tàu nóng sốt trên mọi phương tiện, mọi ngõ ngách của đời sống người Việt. Với 90 triệu con tim, hàng trăm ngàn bài viết, vô số những kế sách, kiến nghị, hội thảo, hội đàm… Nhưng bây giờ tất cả thành vô nghĩa. Chuyến thăm của Lê Hồng Anh sang Trung quốc giống như một nhát dao ngoáy sâu vào từng khúc ruột và cắt đứt cuống tim của hàng triệu con người, là một sự PHẢN BỘI đắng gắt của Đảng với nhân dân. Hy vọng cái gì nữa, kỳ vọng cái gì nữa. Rồi cũng thế thôi, chúng ta lại phải chứng kiến một thời kỳ mà trở lại sự bi kịch và bế tắc như ban đầu, tiếp nối một thời kỳ nô lệ cho quân Tàu và dân Tàu. HD981, sự kiện ấy đã nói lên tất cả, nó phơi bày sự yếu kém của chúng ta, nó cũng phơi ra sự hủ bại của xã hội. Chúng ta đang thiếu những nhà lãnh đạo kiệt xuất. Đang thiếu một thế hệ dám dấn thân mình vì nước vì dân. Chúng ta đang thiếu, lịch sử cũng đang thiếu. Chúng ta có quá nhiều anh hùng vang danh trong thời chiến, nhưng chưa có một vị anh hùng thực thụ trong thời bình. Chúng ta có những chiến thắng vang dội năm châu và những vị tướng lừng danh thế giới. Nhưng không có những nhà kinh doanh giỏi, những nhà khoa học giỏi, những nhà văn hóa, nghệ thuật giỏi, có ảnh hưởng với thế giới. Để đổi mới, để vươn lên, cải tổ mình trong cảnh đổ nát. Chẳng còn cách nào khác là chúng ta phải dấn thân, phải có một “Giấc mơ Việt Nam” thái bình, thịnh vượng và con đường để đến giấc mơ đó. Một giấc mơ đủ lớn, đủ thực và đủ đẹp để tất cả mọi người Việt Nam tự hào dấn thân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nếu dân tộc ta không có khát khao mãnh liệt về một xã hội tốt đẹp hơn cho chính thế hệ mình và các thế hệ con cháu trong tương lai thì chúng ta chỉ mãi ở trong vòng xoáy đói nghèo và lạc hậu, tự vấp chân nhau rồi dẫm đạp lên nhau. Chúng ta cần hiểu rằng, thay đổi đến từ chính bản thân chúng ta. Ta là người nắm giữ vận mệnh cuộc đời ta, vận mệnh của đất nước. Khi xã hội đã như vậy, nhà nước đã như vậy thì trách nhiệm của ta càng khó khăn hơn, càng nặng nề hơn gấp bội. Nhưng ta không được nhụt chí mà lùi bước vì khi xã hội càng tệ hại thì ta lại càng phải dấn thân. Phải học tinh thần Samurai của Người nhật, khát vọng Starup của người Irael và nghệ thuật “ăn mày” chất xám của người Hàn. Phải có khát vọng, chỉ khát vọng mới giúp ta có sức mạnh để đạp phăng mọi thử thách trên con đường nhiều gập nghềnh và giăng dắc những gian truân. Thiết nghĩ, chúng ta cần phải đọc nó, đọc Tri thức tinh hoa Việt Nam đương đại để hiểu được con đường của cha anh, trí tuệ của cha ông. Để thấy rằng, đất nước chúng ta đang thiếu, lịch sử chúng ta đang thiếu một trang sách mang tên VĂN MINH VÀ HIỆN ĐẠI. Với tất cả sự kính trọng đối với cha ông, tôi cho rằng, để thay đổi định mệnh của đất nước, dân tộc thì nhiều khi phải dám nghĩ và làm khác cha ông. Và chúng ta đang chờ đợi một thế hệ như vậy. Những con người dám quên mình để dấn thân, để cách tân, đổi mới, đưa đất sang một trang mới hào hùng mang tên “giàu mạnh và thịnh vượng”. Hôm nay ngày quốc khánh, tôi ngồi lặng nghe về quá khứ hào hùng và anh dũng của cha anh trong thời kỳ chiến tranh đổ máu. Nhưng sao tôi không nghe thấy một trang sử hào hùng của thời đổi mới, một trang sử TINH HOA thời hiện đại. Góc khuyết ấy kéo dài đến bao giờ sẽ tiếp tục ì trệ đến bao lâu? Nó là câu hỏi cho tất cả chúng ta, cho bạn, cho tôi và cho cả thế hệ mai sau. Một góc khuyết của lịch sử Việt Nam. Nguyễn Văn Thương   Nguồn: triethocduongpho.com Văn phong và nội dung của bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.  
......

Nhiều tướng tá lên tiếng về vai trò quân đội, công an

KIẾN NGHỊ của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ CHXHCN Việt Nam Hình Trung Tướng Lê Hữu Đức, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham Mưu Ngày 2 tháng 9 năm 2014 Kính gửi : - Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang Nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh - Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng   Chúng tôi là những người lính trọn đời “Trung với Nước, Hiếu với Dân”, luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân. Đứng trước tình hình nghiêm trọng, đe dọa an ninh, chủ quyền và sự phát triển của Quốc gia, chúng tôi vô cùng lo lắng và thấy cần phải kiến nghị với Lãnh đạo Nhà nước một số điểm như sau. 1. Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân dân, nên không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân. Sức mạnh của Lực lượng vũ trang chỉ có được khi dựa vào Nhân dân, nên không được đánh mất tín nhiệm đối với Nhân dân. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định “quốc phòng”, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… Để khôi phục uy tín của Công an, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ hiến định “bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”, tuyệt đối không lạm dụng lực lượng Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội, chỉ yêu cầu giải quyết quyền lợi hợp pháp của mình. 2. Các chiến sĩ Lực lượng vũ trang chỉ có thể yên tâm rèn luyện và sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc khi tin tưởng rằng cống hiến của họ luôn được Nhà nước ghi nhận thỏa đáng và gia đình của họ sẽ được Nhà nước chăm sóc chu đáo. Việc cố tình phớt lờ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 và mấy trận chiến bảo vệ biển đảo không chỉ phủ nhận lịch sử, xúc phạm đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tinh thần và quyết tâm chiến đấu của Lực lượng vũ trang. Đó là sai lầm không được phép tái phạm. Để khắc phục hậu quả, phải nhanh chóng giải quyết những cách cư xử không đúng đối với với thương binh và gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía bắc và ngoài biển đảo, gấp rút tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ dọc biên giới phía Bắc đã bị bỏ bê hơn hai chục năm qua.   3. Lực lượng vũ trang cần được xác định rõ ràng và chính xác đối thủ, không thể mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù. Đối tượng tác chiến của Quân đội phải là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai, chứ không thể là những đối thủ đã thuộc về quá khứ. Đối tượng khống chế của Công an phải là những kẻ tội phạm và các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, dù ở trong hay ngoài bộ máy cầm quyền, chứ không thể là những người dân vô tội. Lịch sử đã chỉ ra rằng Nhân dân ta phải thường xuyên đề cao cảnh giác trước nguy cơ ngoại xâm từ nước láng giềng phương Bắc. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền kinh tế của của chúng ta, tuy nay đã tạm rút đi, nhưng vẫn cho thấy họ không hề từ bỏ quyết tâm bá chiếm Biển Đông. Lịch sử cũng cho thấy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước cựu thù đã hợp tác với nhau rất hiệu quả và bền vững, ví dụ như mối quan hệ giữa CHLB Đức và ba nước Mỹ, Anh, Pháp, giữa Nhật Bản và Mỹ, giữa Việt Nam và hai nước Pháp, Nhật Bản. Do đó, không thể vì những quan niệm bảo thủ, giáo điều mà đánh mất các cơ hội hợp tác với các cường quốc tiên tiến văn minh, nhằm phát triển kinh tế, công nghệ, nâng cao sức mạnh quốc phòng và tăng cường sự ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.   4. Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc gia. Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chuyến đi thăm Trung Quốc gần đây của đặc phái viên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận với phía Trung Quốc về ba nguyên tắc chỉ đạo phát triển quan hệ Việt-Trung mà nội dung chỉ nhắc lại những câu sáo ngữ, không nói gì tới thực trạng và các biện pháp chấm dứt các hành động ngang ngược của thế lực bành trướng Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta trong mưu đồ bá chiếm Biển Đông. Chưa biết bên trong còn có những thỏa thuận cụ thể gì, nhưng toàn dân và toàn quân yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trong Quốc, không thể chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ, và càng đòi hỏi phải công khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai bên. Trên đây là mấy đòi hỏi cấp bách, nhằm khôi phục uy tín của Quân đội và Công an trong Nhân dân, đồng thời tăng cường sức chiến đấu của Lực lượng vũ trang, để có thể đáp ứng được những thách thức to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. DANH SÁCH NGƯỜI KÝ   1. Lê Hữu Đức, Trung tướng – nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham Mưu. 2. Trần Minh Đức, Thiếu tướng – nguyên Phó Tư lệnh về hậu cần Mặt trận Trị Thiên – Huế. 3. Huỳnh Đắc Hương, Thiếu tướng – nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào. 4. Lê Duy Mật, Thiếu tướng – nguyên Tư lệnh Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2. 5. Bùi Văn Quỳ, Thiếu tướng – nguyên Phó Tư lệnh về chính trị bộ đội Tăng–Thiết giáp. 6. Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng – nguyên Chính ủy Quân khu 4. 7. Bùi Văn Bồng, Đại tá – nguyên Trưởng Đại diện báo Quân đội Nhân dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. 8. Phạm Quế Dương, Đại tá – nguyên Tổng Biên tập tạp chí Lịch sử Quân sự. 9. Nguyễn Gia Định, Nghệ sĩ ưu tú Điện ảnh quân đội. 10. Lê Hồng Hà – nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an, ủy viên Đảng đoàn Bộ Công an. 11. Phạm Hiện, Đại tá – nguyên Chánh Văn phòng B 68 đoàn chuyên gia giúp Campuchia. 12. Xuân Phương, Đại tá – nguyên chuyên viên Cục Nghiên cứu Tổng cục Chính trị. 13. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá – nguyên cán bộ thuộc Bộ Công an. 14. Đào Xuân Sâm, Cựu chiến binh Hà Nội – nguyên chủ nhiệm khoa Quản lý kinh tế Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 15. Tạ Cao Sơn, Đại tá – nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2. 16. Đoàn Sự, Đại tá– nguyên Phó Cục trưởng Cục Xuất bản Tổng cục Chính trị. 17. Lê Văn Trọng, Đại tá – nguyên Trưởng Ban lịch sử Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham Mưu. 18. Nguyễn Thế Trường, Đại tá – nguyên Tổng Biên tập báo Quân giải phóng Trung Trung bộ. 19. Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá cán bộ tiền khởi nghĩa – nguyên cán bộ Viện Lịch sử Quân sự. 20. Nguyễn Huy Văn (tức Kim Sơn), Đại tá lão thành cách mạng – nguyên Phó Trưởng phòng Sở chỉ huy Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham Mưu.
......

Tại sao các nhà hoạt động bị cấm xuất cảnh?

Cựu tù nhân lương tâm Đỗ thị Minh Hạnh bị chặn tại sân bay Nội Bài, bị tịch thu hộ chiếu và an ninh làm việc, không cho xuất cảnh sang Áo để thăm mẹ đang bị bệnh nặng. Đây là trường hợp mới nhất công dân bị cấm xuất cảnh tại Việt Nam. Vì sao an ninh lại hành xử  một cách tùy tiện như thế? Người chứng kiến Cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Đức là người đưa Đỗ thị Minh Hạnh ra sân bay vào sáng ngày 3 tháng 9 đề sang Áo theo thị thực nhập cảnh được đại sứ quán nước này cấp, vào lúc 11 giờ 30 trưa kể lại sự việc : Sáng nay vào lúc 7:45 phút, Đỗ thị Minh Hạnh theo hộ chiếu để đi Áo thăm bà mẹ là bà Trần thị Ngọc Minh bị ba lần mổ ở bên đó ( bà Minh cũng rất mong mỏi được gặp mặt con sau khi ra tù). Ba tuần nay Minh Hạnh đã xin dược visa của Áo, đồng thời cũng đã gặp các đại sứ quán như Na Uy, Đức, Áo, Hoa Kỳ ở Hà Nội vì trước đây họ cũng quan tâm đến tình hình của Minh Hạnh. Trương Minh Đức Đến sân bay, hàng hóa gửi sang cho mẹ đều được kiểm tra hết rồi; khi Minh Hạnh vào cổng số 2 là cổng hải quan thì họ bắt giữ Minh Hạnh. Họ thu hộ chiếu và giữ Minh Hạnh tại An ninh Sân bay- phòng Xuất nhập cảnh ở Hải quan Sân bay Nội Bài. Lúc đầu Hạnh còn điện thoại ra được, nhưng sau đó nghe nói họ chuyển Hạnh sang một phòng khác trong sân bay đó để họ thẩm vấn. Từ đó chúng tôi không liên lạc được với Minh Hạnh và đến giờ phút này cũng chưa biết được tin tức của Minh Hạnh ra sao. Đây là việc làm ngăn chặn những người đấu tranh như Minh Hạnh là người hoạt động công đoàn vừa ra khỏi nhà tù mà không bị quản chế. Đây cũng là quyền đi lại của công dân, đi theo visa hợp pháp chứ không phải đi trốn tránh gì hết. Nhưng nhà cầm quyền Việt Nam họ luôn ngăn chặn điều này để làm khó khăn cho những người đấu tranh trong nước, và đây cũng không phải là lần đầu tiên.   Nhận định về lý do Tính đến lúc này có chừng 40 công dân Việt Nam là những nhà hoạt động xã hội bị cấm xuất cảnh. Trong số này có blogger Nguyễn Lân Thắng, anh cho biết nguyên nhân an ninh không cho những người như anh đi ra nước ngoài dù đã được nước sở tại cấp thị thực nhập cảnh: Tôi nghĩ rằng việc cấm chị Minh Hạnh xuất cảnh, tịch thu visa cũng là tình hình chung của tất cả những người hoạt động xã hội ở Việt Nam. Việc này rất phổ biến đối với kể cả những người ‘danh tiếng’ như Hạnh cũng như những người trẻ chưa có tiếng tăm gì. Đầy là chính sách chung của an ninh đối với tất cả mọi người. Tôi nghĩ rằng việc chặn bắt, tịch thu hộ chiếu tất cả những việc đó nhằm mục đích trấn áp tất cả những hoạt động mà chính quyền họ không ưngblogger Nguyễn Lân Thắng Cách hành xử tùy tiện Theo anh Nguyễn Lân Thắng thì hành xử của chính quyền Việt Nam rất khó hiểu và mang tình tùy tiện: Thực ra chính sách, quan điểm của an ninh Việt Nam cũng như của các bộ phận khác trong chính quyền Việt Nam không phải là thống nhất. Điều này phụ thuộc vào vùng miền, phụ thuộc vào thời điểm, phụ thuộc vào chính bản thân nhóm nào ra quyết định. Cho nên đó là một sự phản ứng không đồng bộ, đôi khi thế này, đôi khi thế kia. Họ thay đổi bất thường và điều đó khó có thể biết tại làm sao?   Thiếu nhân đạo Còn theo nhà báo Trương Minh Đức thì bản thân cô Đỗ thị Minh Hạnh hiện đang phải chữa bệnh phụ khoa, nhưng vì tình cảm đối với người mẹ cũng đang trải qua phẫu thuật chữa những chứng bệnh nặng nên phải cố xin Áo cấp vi sa để sang thăm và chăm sóc mẹ. Nước Áo cũng vì nhân đạo mà cấp visa cho cô, trong khi đó thì phía Việt Nam lại ngăn không cho cô lên đường: Tôi cũng vừa biết Minh Hạnh sau khi ra tù cũng mang nhiều chứng bệnh, trong thời gian biết  mẹ bệnh thì bên này Minh Hạnh cũng bệnh chứ không phải khỏe. Cô bị bệnh phụ khoa phụ nữ. Khi xin visa, đợt trước 2 tuần, Minh Hạnh ra điều trị tại Bệnh viện Đa Khoa Hà Nội. Sau đó Minh Hạnh trở vào Sài Gòn để gặp gỡ một số anh em ở phía Bắc vào để tham dự phiên tòa chị Bùi thị Minh Hằng và hai người bạn ở Đồng Tháp. Phiên tòa xong thì Minh Hạnh ra lại Hà Nội vào ngày 27 và chờ cho đến ngày 3 để lên máy bay đi thăm mẹ. Đợt hai này Minh Hạnh cũng phải đến Bện viện Đa Khoa Hà Nội để chữa bệnh.   Đây là việc làm mà tôi thấy đối với một cô gái nhỏ bé như thế rất là tội nghiệp. Đến lúc này chính quyền Việt Nam vẫn ngăn cản việc này, tôi thấy là việc làm không có nhân đạo chút nào hết.nhà báo Trương Minh Đức   Khó khăn trong đòi hỏi quyền Blogger Nguyễn Lân Thắng khẳng định dù bị tước quyền xuất cảnh nhưng những người như anh tiếp tục lên tiếng đòi hỏi quyền được đi lại của công dân dù rằng công việc này ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều  khó khăn: Hiện tại cũng có nổ lực của nhiều nhóm xã hội dân sự khác nhau, để tuyên truyền về quyền con người, rồi những vấn đề tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do thông tin; thế nhưng điều quan trọng là thay đổi nhận thức trong xã hội còn rất chậm chạp. Bởi vì sự lạc hậu của Việt Nam về những vấn đề quyền con người.. Điều đó không thể một sớm một chiều mà có thể tác động được. Và những nhóm nhân quyền, những nhóm hoạt động cho quyền con người đó chỉ thực sự thành công khi mà có thể lay chuyển đám đông lớn trong xã hội ủng hộ họ. Cho đến bây giờ có thể có rất ít những người ngấm ngầm ủng hộ nhưng cũng vì ‘cơm áo, gạo tiền’, cũng vì những cái vướng víu nên chưa thể ra mặt để ủng hộ những hoạt động đó. Hiện tại ở Việt Nam, trong đấu tranh tồn tại hằng chục các hội, nhóm khác nhau. Việc lập hội, lập nhóm, sự tuyên bố rất dễ dàng; nhưng thực chất là những hội ‘hữu danh, vô thực’ chứ không có nhiều hội có khả năng hoạt động để có thể tổ chức, để có thể làm những hành động phản kháng nào đó. Cái khó nhất ở Việt Nam là văn hóa tổ chức, văn hóa hợp tác, làm việc nhóm rất thiếu. Cho nên sự lên tiếng và hành động của các hội nhóm còn rất hạn chế.   Trong thời gian vừa qua một số người sau khi ra nước ngoài về đã bị an ninh chặn lại làm việc ở sân bay, rồi tịch thu hộ chiếu của họ. Một số người khác như trường hợp cựu tù nhân lương tâm Đỗ thị Minh Hạnh trong ngày 3 tháng 9, chưa ra nước ngoài bao giờ nhưng khi đến sân bay thì bị an ninh chặn lại không cho xuất cảnh. Ngoài 40 người từng gặp trở ngại với phía an ninh trong việc xuất nhập cảnh, tin cho biết danh sách những người bị cấm xuất cảnh như thế tại Việt Nam hiện nay lên đến cả vài ngàn người. Nguồn: rfa.org
......

VÌ SAO MẶT TRẬN TỔ QUỐC KHÔNG THẾ CÓ TIẾNG NÓI ĐỘC LẬP ?

Bù nhìn rơm còn tác dụng đuổi chim, giữ cho ruộng lúa chín. Còn MTTQ VN, quả là hình nộm để Đảng khoác lên đó chiếc áo dân chủ ma mị. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam – một văn bản như Luật Đảng: “Đảng viên có nhiệm vụ phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng”. (Điều 2) Cũng theo Luật Đảng, nhân sự trong bộ máy nhà nước, tất cả đều phải là đảng viên. Những nhân sự chủ chốt như bí thư các tỉnh, thành phố, bộ, ngành đều phải được Bộ Chính trị - cơ quan cao nhất của Đảng chuẩn y. Các tổ chức tiếng là “xã hội nhân sự”, như Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) cũng không ngoại lệ, tất cả đều phải là đảng viên. Mà đảng viên thì có nhiệm vụ phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. Một tiếng nói trái tai Đảng là không thể. Độc lập trong vòng kim cô của Đảng Vừa qua đã diễn ra Hội nghị Đoàn chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ VN lần thứ 15 khóa VII, thảo luận các báo cáo và công tác nhân sự Đại hội Mặt trận lần thứ 8. Nhiều ý kiến cho rằng, vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận vừa qua còn mờ nhạt. Nguyên Phó chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ VN Lê Truyền góp ý: Cần làm rõ tính độc lập của Mặt trận trong điều kiện Đảng vừa lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận. “Tính độc lập không phải là Mặt trận thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, mà độc lập để nói được tiếng nói của các tầng lớp nhân dân", ông Truyền nói. Quan điểm của ông Lê Truyền cho thấy sự mâu thuẫn: đã gọi là “độc lập” sao lại phải lệ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng? Tiếng nói của các tầng lớp nhân dân hiện nay, có thể như lời của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, là không còn tin Đảng. Như vậy, đây có thể coi là “thoát ly sự lãnh đạo của Đảng”? Bù nhìn rơm còn giữ được ruộng lúa Hiến pháp 2013, tại Điều 9 quy định “MTTQ VN là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. “MTTQ VN là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, quyền được trao cho MTTQ VN là “tham gia xây dựng Đảng”, mà lại tự ti cho rằng mặt trận không được thoát ly sự lãnh đạo của Đảng – như lời của ông Lê Truyền, thì quả thật khó lòng kỳ vọng vào điều gì ở MTTQ VN. Bù nhìn rơm còn tác dụng đuổi chim, giữ cho ruộng lúa chín. Còn MTTQ VN, quả là hình nộm để Đảng khoác lên đó chiếc áo dân chủ ma mị. Nước đẩy thuyền thì cũng lật thuyền Ông Lê Truyền cũng không sai. Ở văn bản có tên “Quy định 172-QĐ/TW quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của đảng đoàn, ban cán sự đảng Trung ương do Bộ Chính trị ban hành”, do ông Lê Hồng Anh ký ngày 7-3-2013, tiếp tục trao cho đảng viên “quyền bắt buộc” là lãnh đạo, chỉ đạo những định hướng chính trong các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng mà cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể có trách nhiệm trong soạn thảo; những nội dung quan trọng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị theo quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. (Trích Điều 2.2) Đã nói đến “tiếng nói độc lập” thì không thể chấp nhận một cơ chế giám sát hay hạn chế nào riêng biệt, vì những hành vi quá đà tự thân nó không còn là “tiếng nói độc lập” và đã được các bộ luật hành chánh, dân sự và hình sự điều chỉnh.   Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, kể rằng năm 2011, khi ông cùng cộng sự thành lập hãng truyền thông tại Hoa Kỳ. Sau khi hoàn thành mọi thủ tục và đã ra mắt, ông đề nghị những cộng sự viên của mình là công dân Hòa Kỳ đến cơ quan quản lý báo chí tiểu bang và liên bang để đăng ký và xin phép cấp mã số báo chí để làm thẻ cho các nhà báo. Các cơ quan chức năng xứ Mỹ bảo rằng quý vị hãy về tự cấp thẻ lấy và tự chịu trách nhiệm về uy tín của tấm thẻ của mình. Ngay các hãng lớn như CNN hay AP cũng làm thế đó. Nói thật, mất lòng. Trung ngôn thì nghịch nhỉ. Dẫu vậy, mất lòng và nghịch nhỉ cùng lắm chỉ tạo sự khó chịu. Ở đây, nếu “tiếng nói độc lập” không theo ý “lãnh đạo của Đảng” thì chuyện tù tội như từng xảy ra với các anh, chị Nguyễn Văn Hải (tức Điếu Cày), Tạ Phong Tần, Lê Công Định, Trương Duy Nhất…, có lẽ sẽ còn xảy đến dài dài khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang công nhiên vi hiến. “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Trích Điều 4.3, Hiến pháp 2013).   Minh Tâm Nguồn: Trí Nhân Media
......

Hãy vứt đi "Đảng anh em". Hãy nghĩ về dân tộc

Đặc phái viên của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam vừa đi thăm Trung Quốc trong hai ngày 26-27/8/2014 mang về thỏa thuận “Nhận thức chung nguyên tắc ba điểm về phát triển quan hệ Trung - Việt” cho thấy lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam không thoát khỏi cạm bẫy của lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc.   Bỏ lỡ cơ hội Vụ dàn khoan HD 981 là cơ hội tốt nhất cho lãnh đạo Việt Nam thoát khỏi quỹ đạo nhà cầm quyền Trung Quốc. Nhưng bảo bối “Nguyên tắc ba điểm” mà Đặc phái viên Tổng bí thư mang về cho thấy mọi sự đã an bài. Tất cả không chỉ y nguyên như cũ, mà sẽ tiếp tục xấu hơn cho Việt Nam. Có thể tóm tắt năm bất lợi lớn mà Việt Nam phải đối mặt do “Nguyên tắc ba điểm” đưa lại như sau. 1. Dưới chiêu bài lấy “đại cục” làm trọng, Trung Quốc đã cản trở lãnh đạo Việt Nam đưa vấn đề Biển Đông ra Tòa án quốc tế, để dễ bề chèn ép Việt Nam trong đàm phán song phương. 2. Trung Quốc tiếp tục xây căn cứ quân sự ở Hoàng Sa Trường Sa. Trung Quốc tiếp tục đưa tàu cá ra khắp Biển Đông. Trung Quốc sẽ khai thác tài nguyên trên vùng biển Việt Nam nơi nào và khi nào mà Trung Quốc thích. 3. Trung Quốc tiếp tục thắng thầu và hàng Trung Quốc tiếp tục tràn ngập thị trường Việt Nam. 4. Người Trung Quốc tiếp tục tràn sang làm việc và sinh sống ở Việt Nam. 5. Trung Quốc cản trở Việt Nam xích gần với Mỹ và các đối tác khác.   Tại sao lại là “hai Đảng”? Không ai trong giới lãnh đạo Việt Nam không ghét nhà cầm quyền Trung Quốc. Nhưng tại sao một số người lại cố bám vào Trung Quốc? Tại sao phải đồng ý với “Nguyên tắc ba điểm”? Câu trả lời rõ như ban ngày: Vì sợ mất sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sợ mất ghế của chính mình. Thật ra họ đã nhầm. Mất sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là do nhân dân Việt Nam quyết định chứ không phải từ lãnh đạo Trung Quốc. Có chăng trong thời điểm hiện nay, với chính sách lãnh đạo hiện hành, giới cầm quyền Trung Quốc có thể tham gia làm vững chắc ghế cho một ai đó.   Sự phản bội lý tưởng Nhìn lại ngày “Tuyên ngôn độc lập” 2-9-1945, hàng triệu người Việt Nam không thể không chạnh lòng chua xót. Con đường Dân tộc lựa chọn sáu mươi chín năm trước hiện đang bị bẻ chệch lái về một hướng hoàn toàn khác biệt. Tưởng thoát ra khỏi chiến tranh rồi thống nhất đất nước thì có điều kiện để “Sánh vai cùng các cường quốc năm châu”, nhưng không ngờ số phận nghiệt ngã đã đưa Đất nước rẽ sang một đường gấp khúc. Một đường gấp khúc đầy gian nan làm cho Đất nước mỗi ngày một tụt xa với bạn bè quốc tế. Đường gấp khúc đi ngược lại mục đích của cả Dân tộc đã dấn thân, của hàng triệu người đã đổ xương máu. Chậm còn hơn không bao giờ. Những người cầm quyền trong Đảng Cộng sản Việt Nam phải đặt quyền lợi Dân tộc lên trên quyền lợi đảng cầm quyền. Chỉ có mở rộng cánh cửa Dân chủ mới phá được xiềng xích cản bước tiến của Dân tộc. Phải bảo vệ Dân tộc chứ không phải bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng. Chừng nào còn nói đến “hai Đảng” thì chừng đó còn lấy mục đích cầm quyền của Đảng là cao nhất. Chừng đó còn phụ thuộc vào nhà cầm quyền Trung Quốc. Chừng đó còn hy sinh quyền lợi Dân tộc để bảo tồn sự cầm quyền của Đảng. Sự hy sinh quyền lợi Dân tộc này không chỉ giới hạn trong nội bộ quốc gia, mà còn cả sự lệ thuộc ngoại bang ê chề nhục nhã. Hàng chục vạn đảng viên và hàng triệu người Việt Nam đã hy sinh, không ngờ rằng lý tưởng mà họ lựa chọn đã bị phản bội. Họ dấn thân vì sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi ách thống trị thực dân phong kiến, họ hy sinh vì Độc lập Tự do của Dân tộc, chứ nhất định không phải vì sự cầm quyền của Đảng Cộng sản, cũng như không mảy may vì đảng cầm quyền. Ngay cả những nhà lãnh đạo tiên phong của Đảng dấn thân không màng tính mạng, không sợ tù đày, là vì sự nghiệp giải phóng Dân tộc, chứ không phải vì vai trò lãnh đạo của Đảng. Thế mà hiện nay, một số người cầm quyền trong Đảng lại lấy nhiệm vụ bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu tối thượng, bất chấp bước tiến của Dân tộc, thậm chí cam chịu sự o ép của kẻ thù truyền kiếp. Đảng Cộng sản Trung Quốc không bao giờ là anh em với Đảng Cộng sản Việt Nam cả. Đừng để nhà cầm quyền Trung Quốc lợi dụng “Đảng anh em” để sai khiến và làm tổn hại đến quyền lợi Dân tộc. Chừng nào còn “Tăng cường giao lưu giữa hai Đảng” thì chừng đó còn lệ thuộc nhà cầm quyền Trung Quốc. Hãy vứt đi “Đảng anh em”. Hãy nghĩ về Dân tộc. V. T. D. Nguồn: boxitvn.blogspot.fr  
......

Quá tồi, quá tệ

Phiên tòa xử 3 chiến sĩ dân chủ chống bành trướng Trung Quốc ở Đồng Tháp đã kết thúc chiều 26/8 với những bản án quá nặng nề, so với tội danh «cản trở giao thông». Cô Bùi Thị Minh Hằng bị tuyên án 3 năm tù giam, anh Nguyễn Văn Minh 2 năm rưỡi, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh 2 năm. Dư luận trong nước và quốc tế cùng chung một thái độ cực kỳ phẫn nộ trước sự xét xử quá đáng, đến mức không ai nghĩ đến của tòa án Đồng Tháp. Theo sự thú nhận của địa phương, đây là quyết định của Bộ Chính trị đảng CS, tòa án Đồng Tháp chỉ đóng kịch theo sự chỉ đạo từ Hà Nội. Không ít người theo dõi tình hình đã phán đoán rằng lãnh đạo sẽ buộc phải tỏ ra nới tay đôi chút so với trước đây, sau khi họ buộc phải cam kết tôn trọng nhân quyền trước Liên Hiệp Quốc, hứa hẹn với các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ, Liên Âu «sẽ giương cao lá cờ dân chủ», «sẽ thực thi dân chủ và pháp quyền là 2 thành quả song sinh của thời đại». Từ lời nói đến việc làm của họ có cả một hàng rào sắt thép. Ðiều bất ngờ là Bộ Chính trị lần này đã lật lọng quá sớm, đã có thái độ tráo trở và tự phản bội một cách ngang ngược, tàn nhẫn chưa từng có. Phiên tòa ô nhục, bản án bất nhân, chính quyền tội ác, hành động côn đồ, chính trị lưu manh, nhà nước tiểu nhân…là những lời nhận định, phê phán, lên án…lập tức nổi lên khắp nơi, từ các blogger tự do, từ những tấm lòng yêu nước, thương dân, bảo vệ lẽ phải, công lý, phẫn uất trước bạo quyền. Sau cơn phẫn nộ chính đáng, dư luận toàn xã hội cần trao đổi ý kiến để hiểu rõ vì sao lãnh đạo lại chỉ đạo cho phiên tòa Đồng Tháp giải quyết vụ án như đã diễn ra, để có phương án đấu tranh tiếp thích hợp và có hiệu quả. Từ gần 25 năm nay, sau cuộc họp bí mật ở Thành Đô tháng 9/1990, Bắc Kinh luôn coi Bộ Chính trị CS ở Hà Nội là đàn em, là phiên thuộc, là chư hầu tự nguyện. Ai nấy đều biết từ đầu tháng 5/2014, khi Bắc Kinh ngang nhiên đưa giàn HD-981 vào vùng biển nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ngỏ lời xin sang Bắc Kinh để gặp lãnh đạo cao nhất của phía TQ, nhưng họ đã ngạo mạn từ chối. Sau khi rút dàn khoan về, họ cử Dương Khiết Trì, nguyên là bộ trưởng ngoại giao, nay là ủy viên Quốc vụ viện đặc trách đối ngoại (một chức vụ cao hơn ngoại trưởng), sang Hà Nội với một sứ mạng được Tân hoa xã và Nhân dân nhật báo Bắc Kinh mô tả là «để khuyên đứa con hư hỏng bỏ nhà quay về». Bị sỉ nhục như vậy, nhưng Bộ Chính trị Hà Nội vẫn im thin thít. Phía Trung Quốc cao ngạo lấn tới là lẽ tất nhiên. Nay họ bỗng nhiên triệu tập đại diện Bộ Chính trị sang Bắc Kinh gấp. Thế là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cử ông Lê Hồng Anh, ủy viên Bộ Chính trị kiêm Thường trực Ban Bí thư Trung ương đảng, mang danh nghĩa Phái viên đặc biệt của Tổng Bí thư, sang ngay Bắc Kinh trong 2 ngày 26 và 27 tháng 8 năm 2014. Theo những tin tức được công bố và theo lời người phát ngôn của 2 bên Lê Hải Bình và Hồng Lỗi sau 3 cuộc gặp tại Bắc Kinh, không có gì mới trong quan hệ giữa 2 bên được thỏa thuận, chỉ toàn nhắc tới những thỏa thuận cũ. Điều mới chăng là cả 2 bên không ai nhắc đến «16 chữ vàng» và mối «quan hệ bốn tốt» đã trở nên mỉa mai chua chát. Và điều rõ nhất là phía VN đã tỏ ra lép vế, nhũn như con chi chi. Ông Lê Hồng Anh đã không hề nhắc đến việc phía TQ ngang nhiên đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển VN, giết hại bắt bớ, khủng bố ngư dân ta, không hề yêu cầu chấm dứt những hành động tương tự trong tương lai. Đã vậy phía VN còn tỏ ra nhún nhường quá đáng khi cam kết sẽ đền bù (!) những tổn thất mà các công ty TQ đã gánh chịu khi có những vụ bạo loạn nổ ra. Ông cũng hứa hẹn sẽ kết nghiêm trị (!) những “kẻ tội phạm” và cử các đoàn đại biểu của Hội Hữu nghị Việt-Trung đến thăm hỏi ủy lạo những gia đình TQ là nạn nhân trong các cuộc bạo loạn đã xảy ra. Có thể phỏng đoán không sai rằng gần đây Bắc Kinh rất khó chịu thấy Bộ Chính trị Hà Nội cử đặc phái viên đi Washington, rồi ngay sau đó một loạt cán bộ cấp cao, nhiều thượng nghị sỹ có thế lực, cho đến cả Đại tướng chủ tịch Ủy ban tham mưu liên quân Hoa Kỳ sang Hà Nội. Họ lo sợ, bực mình, thấy cần ra oai để ngăn chặn một sự «trở mặt» của VN, «xoay trục» hướng sang phương Tây, đi tìm những mối liên kết, liên minh mới. Và thế là cô Bùi Thị Minh Hằng bị kết án 3 năm tù, anh Nguyễn Văn Minh bị 2 năm tù rưỡi, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh bị 2 năm tù. Đây là những bản án làm quà của Bộ Chính trị đàn em dâng lên đúng lúc cho Thiên triều, để biểu thị thật rõ tấm lòng trung thành vô hạn của kẻ phiên thuộc. Đó cũng là lời trần tình, phân bua của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, của đa số Bộ Chính trị quyết một lòng gắn bó keo sơn với phương Bắc. Gần đây, trong một buổi gặp mặt cử tri Sài Gòn, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tiết lộ rằng «ta khỏi lo gì về kinh tế khó khăn, nợ công chồng chất, các đồng chí Trung Quốc vừa mới hứa khi cần sẽ cho ta một khoản cho vay ưu đãi ODA lên đến 20 tỷ đô la, và còn có thể giúp một gói đầu tư cực lớn FDI lên đến 100 tỷ đô la ». Đây là theo lời kể của Phó Đô đốc Lê Kế Lâm, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu của Hải quân VN, hiện về hưu sống tại Sài Gòn và có mặt trong buổi gặp đó (xin đọc bài “Người dân VN sẽ ra sao khi Nhà nước vỡ nợ?” trên báo Thông Luận ngày 25/8/2014). Dưới ánh sáng của những diễn biến thời sự nóng hổi, câu hỏi liệu cuộc họp trưởng đoàn của Khối kinh tế Xuyên Thái Bình Dương TPP 12 nước sẽ diễn ra ở Hà Nội từ 1 đên 10/9 này có thể chấp nhận VN tham gia khối này như dự kiến hay không, sẽ được giải đáp. Và câu hỏi liệu việc nâng cấp trong quan hệ toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ có sẽ thành hiện thực trước mắt với việc Hoa Kỳ hủy bỏ cấm vận bán vũ khí sát thương cho VN hay không, cũng sẽ được giải đáp. Có thật chăng trong Bộ Chính trị có một nhóm đã lựa chọn dứt tình với kẻ bành trướng để đi với nhân dân, với dân tộc, để kết bạn với các nước dân chủ ở châu Á như Philippines, Ấn Độ, Nhật Bản, với Liên Âu và Hoa Kỳ, trong khi vẫn giữ quan hệ láng giềng bình thường, bình đẳng với Trung Quốc? Nhân dân đang nóng lòng chờ xem thực hư ra sao. Hay là họ chỉ diễn tuồng thôi. Tất cả đều thuộc bản chất giáo điều, bản chất tư lợi, chỉ ở mức độ khác nhau. Chẳng có nhóm nào có thể gọi là cấp tiến, là đổi mới, là cải cách trong Bộ Chính trị cổ lỗ, bảo thủ, kiên định học thuyết Mác -Lênin, kiên định chủ nghĩa xã hội ảo tưởng và chủ nghĩa CS viễn vông. Thái độ đàn áp, hãm hại những người yêu nước, thương dân, tàn ác với phụ nữ tay không gan góc là thái độ quá ư tồi tệ. Thái độ quỵ lụy hàng phục kẻ nuôi dã tâm bành trướng gặm nhấm đất nước cũng là thái độ quá ư tồi tệ của kẻ đương quyền. Vụ án Đồng Tháp và chuyến đi của ông Lê Hồng Anh diễn ra cùng một ngày phơi bày nỗi nhục nhã của kẻ đương quyền đang cai trị nước ta, sẽ kích thích suy nghĩ của mọi công dân yêu nước, kể cả những đảng viên có trí tuệ, có công tâm, để chung sức tìm lối ra khỏi cuộc khủng hoảng chính trị - xã hội trầm trọng đã kéo dài quá lâu của đất nước. Bùi Tín  
......

Chúng Tôi Muốn Biết

Tự do ngôn luận liên quan chặt chẽ tự do tiếp cận thông tin. Mỗi người dân đều có quyền tiếp cận những thông tin từ nhà nước như chính sách quốc gia, hoạt động của chính khách nhà nước và/hoặc đảng cầm quyền trên mọi lĩnh vực: giáo dục, môi trường, y tế, an sinh xã hội... đến chủ quyền quốc gia. Đó là một trong những quyền hết sức cơ bản của người dân. Cung cấp thông tin chính xác, minh bạch và có trách nhiệm là bổn phận của nhà nước. Ngược lại, quyền tiếp cận thông tin từ nhà nước giúp người dân có thể tiếp thu, đánh giá, lên tiếng phê bình hay ủng hộ. Đây là yếu tố nền tảng của dân chủ. Động thái phớt lờ quyền cơ bản đó chỉ có ở những thể chế phản dân chủ, độc tài. Đã bao giờ bạn đặt câu hỏi: người dân có quyền được biết những thỏa thuận, những ký kết có liên quan đến chủ quyền quốc gia hay không? Tháng 5/2014 vừa qua, khi Trung Cộng đem giàn khoan HD-981 xâm lấn vùng biển Việt Nam, lần đầu tiên Công hàm 1958 liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký đã được đề cập công khai trên truyền thông nhà nước. Và rất nhiều người Việt Nam sửng sốt, kinh ngạc về cái công hàm vô cùng tai hại này. Dù biện bạch thế nào, Công hàm 1958 được ký với nội dung tán thành Công bố của chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về chủ quyền và lãnh hải (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) khiến người dân quan tâm, lo lắng đến vận mệnh đất nước phải đặt câu hỏi: Tại sao những thỏa thuận ký kết liên quan đến chủ quyền Tổ quốc Việt Nam lại bị ém nhẹm suốt hơn nửa thế kỷ? Và những thông tin này nhà nước Việt Nam chỉ bất đắc dĩ công bố khi Trung Cộng trưng ra như bằng chứng về cái gọi là quyền “sở hữu” của Trung Quốc đối với Hoàng Sa & Trường Sa. Quyền được thông tin là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước. Trong trường hợp này, mỗi chủ nhân của nước Việt Nam phải nắm bắt thông tin, mới có thể chung sức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi chính đáng của chính họ, cũng là của cả dân tộc Việt Nam. Trên thực tế, mối quan hệ giữa chóp bu lợi ích nhóm trong hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc luôn che lấp những thông tin liên quan đến chủ quyền, nhân quyền, các vấn đề kinh tế - xã hội - văn hóa ở Việt Nam. Hậu quả của “vùng tối” này là gì? Nhân dân Việt Nam thường bị động trước các động thái gây hấn, lúng túng trước các thông tin do Trung Cộng đưa ra. Trong khi đó, nhà nước Việt Nam lại chủ trương đàn áp những ai muốn bạch hóa cái “hố đen” đó, khi người dân lên tiếng đòi hỏi hoặc tìm mọi cách để biết sự thật những gì đã và đang diễn ra. Một trong những ký kết có liên quan đến vận mệnh quốc gia Việt Nam là “mật” ước Thành Đô 9-1990. Cho đến nay, gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua, không có bất kỳ thông tin nào liên quan đến hội nghị này được nhà nước Việt Nam chính thức công bố. Mọi người lo ngại trước viễn cảnh Việt Nam sắp biến thành xứ sở phiên thuộc của Trung Quốc qua những thông tin rò rỉ. Đã có những cá nhân, tập thể yêu cầu nhà nước Việt Nam công bố thông tin này. Đáp lại, đang là động thái “mũ ni che tai”, phớt lờ trịch thượng, vô trách nhiệm. Vận nước đang nguy nan, đòi hỏi người dân phải được biết và có quyền được biết những thỏa thuận ký kết trên lưng người dân, 24 năm trước, giữa các yếu nhân hai đảng và nhà nước, gây phương hại nền độc lập của Việt Nam từ đó đến nay và tương lai. Chúng tôi có quyền được biết, và chúng tôi muốn biết những gì đã và đang diễn ra. Các bạn - những người dân Việt Nam nặng lòng yêu nước, với trách nhiệm trước cha ông và hậu thế, hãy cùng chúng tôi cương quyết tranh đấu và kiên trì đòi hỏi trên cơ sở quyền được biết này. Hãy bắt đầu từ nội dung Hiệp ước Thành Đô 9-1990. Chúng Tôi Muốn Biết   Theo Mạng Lưới Blogger Việt Nam
......

Tuyên bố về quyền con người

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” Những lời nói bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh trích dẫn đưa vào bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam năm 1945. Lời nói bất hủ có ý nghĩa là: Mọi người Việt Nam sinh ra đều có quyền bình đẳng, ai cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do dân chủ. Đó là những quyền bất khả xâm phạm và là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được. Thế mà gần 70 năm đã qua, kể từ ngày bản Tuyên ngôn Độc lập được công bố tại quảng trường Ba Đình. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ được hưởng những quyền tự do dân chủ. Đảng CS cầm quyền đã tạo ra sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử trong xã hội. Đảng CS đã hạn chế và tước đoạt hầu hết các quyền con người về chính trị của Nhân dân: Về quyền chính trị: Người dân bị tước đoạt quyền làm báo chí tư nhân, bị tước đoạt quyền lập hội, lập đảng, bị tước đoạt quyền biểu tình. Bất kỳ người dân nào sử dụng quyền tự do ngôn luận một cách ôn hòa để chỉ trích những sai lầm, khuyết điểm, yếu kém của đảng CS, chính phủ thì đều bị sách nhiễu, cầm tù; Những công dân sử dụng quyền lập hội, lập đảng hoặc tham gia các tổ chức chính trị đảng phái cũng bị sách nhiễu, cầm tù. Về giáo dục: Đảng CS áp đặt hệ thống giáo dục lạc hậu, ngu dân, thay đổi thường xuyên, gây tốn kém cho nhân dân và ngân sách quốc gia. Nền giáo dục của VN thua kém rất xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Về kinh tế: Đảng CS thực thi chính sách kinh tế sai lầm, yếu kém trong quản lý và điều hành nên hàng loạt các tập đoàn, tổng công ty nhà nước làm ăn thua lỗ, phá sản. Doanh nghiệp trong nước bị thua thiệt ngay tại thị trường nội địa. Biết bao nhiêu tài sản, tài nguyên quốc gia bị thất thoát, bị chiếm đoạt trái phép. Về thuế má: Đảng CS đặt ra hàng trăm thứ thuế, phí, lệ phí, khiến người dân Việt Nam phải gồng mình đóng thuế, phí. Nhiều sản phẩm tiêu dùng có mức thuế cao gấp nhiều lần các nước trong khu vực, khiến cho người dân khó có điều kiện hưởng thụ. Hàng hóa tiêu dùng: Đảng CS vô trách nhiệm và yếu kém trong kiểm tra, giám sát nên để hàng hóa tiêu dùng, thực phẩm độc hại được nhập khẩu hay sản xuất trong nước đang hàng ngày hàng giờ làm hại sức khỏe, tính mạng của nhân dân, làm suy nhược nòi giống. Bởi thế, Nhân dân Việt Nam cần phải dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi lại những quyền làm người đang bị tước đoạt. Chúng tôi tin rằng người dân Việt Nam ở ngoài nước và cộng đồng quốc tế sẽ hết lòng ủng hộ cuộc đấu tranh đòi lại quyền con người này. Chúng tôi tuyên bố rằng không một thế lực nào có quyền tước đoạt các quyền con người của nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam phải được hưởng mọi giá trị cao quí nhất của quyền con người. Nguyễn Văn Đài
......

Pages