Đảng, Đảng Viên & Tuổi Đảng

  S.T.T.D Tưởng Năng Tiến|   CHXHCNVN, có lẽ, là nơi duy nhất mà danh tính của một cá nhân lại luôn kèm theo tuổi … đảng: Lê Khả Phiêu 71 Nguyễn Thị Bình 73 Lê Đình Kình 58 … Trong một xứ sở theo chế độ đảng trị thì thâm niên tuổi đảng quả là một thuộc tính rất đáng kể, và đáng nể. Chả thế mà vào ngày 26 tháng 8 năm 2019, tất cả cáo báo đài nhà nước đều hớn hở loan tin: “Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã tới dự và trao Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng tặng nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Tham dự buổi lễ có các Ủy viên Bộ Chính trị, các lãnh đạo Văn phòng Tổng bí thư, các đồng chí Ủy viên Thường vụ Quân ủy …” Đồng chí Lê Khả Phiêu được toàn Đảng ưu ái không chỉ vì đã từng giữ quyền cao chức trọng mà còn vì ông là một nhân vật kiệt xuất, đặc biệt trong lãnh vực sáng tạo. Ngoài việc cầm quân, ông còn cầm bút và là tác giả của tuyển tập Mênh Mông Tình Dân mà thiên hạ (đôi lúc) đọc nhầm thành Mênh Mông Tiền Dân. Khác với vị TBT kế nhiệm (Nông Đức Mạnh) đồng chí Lê Khả Phiêu không trang trí nội thất bằng cách dát vàng. Tư thất của ông trưng bầy toàn những sản phẩm đậm đà bản chất văn hoá dân tộc (và đều là hàng độc) như tượng bác Hồ, trống đồng, ngà voi … khiến khách khứa đều phải trầm trồ hay ái ngại – tùy theo cách nhìn của từng người. Lê Khả Phiêu còn có sáng kiến rất độc đáo (tuy hơi kém “mênh mông” chút xíu) là thiết lập một hệ thống tiêu tưới tự động – sprinkler system – trên sân thượng của tư thất để làm thành một vườn rau nhỏ, dành riêng cho bếp ăn của gia đình, để khỏi phải dùng chung rau (bẩn) với bàn dân thiên hạ. Bằng vào những kỳ tích này nên trong buổi “Lễ Trao Huy Hiệu 70 Năm Tuổi Đảng,” Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng đã không tiếc lời tán tụng công đức của người tiền nhiệm: “Chúng tôi luôn học tập ở đồng chí về phương pháp, tác phong làm việc sâu sát, cụ thể và hiệu quả.” Với loại đảng viên ở cấp địa phương thì lễ lạc loại này (thường) giản dị hơn. FB Mạc Văn Trang thuật chuyện: “Hai hôm nay về Bãi Cháy (Hạ Long) mừng Cụ lão thành Cách mạng 90 tuổi đời, 70 tuổi Đảng, thân thiết trong gia đình. Cụ tham gia Cách mạng từ năm 16 tuổi, 20 tuổi (1949) đã vào Đảng CSVN. Con cháu cứ nhấn vào sự kiện Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, tổ chức cho hoành tráng, tưởng Cụ 90 tuổi, lú lẫn, lẩm cẩm rồi, thì làm gì Cụ cũng nghe… Nhưng mình để ý, Cụ quan tâm đến 90 năm tuổi đời hơn là 70 năm Huy hiệu Đảng… Cụ bảo, chúng nó cứ bày ra, nhưng tôi không cho mời ai đương chức cả, chỉ mời anh em, con cháu, bạn bè thân thiết thôi, nhân 90 tuổi mà… Mình bảo, sự kiện 70 năm tự hào lắm chứ nhỉ? – Cụ tặc lưỡi, được 12 triệu… Tôi về hưu, suốt bao nhiêu năm làm Bí thư chi bộ, Tổ trưởng Dân phố, tham gia Mặt Trận, Hội người Cao tuổi … không bao giờ có phụ cấp, tất cả là ‘ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng’, tâm huyết, tận tụy…” Mười hai triệu đồng VN, nếu qui ra Mỹ Kim, là tầm 700 đô la cho bẩy mươi năm năm “tâm huyết tận tụy.” Tính chi li hơn thì mỗi năm được một trăm, và mỗi ngày khoảng 25 xu Mỹ. Chả hiểu có đủ để mua một que kem? Tuy thế, nếu bỏ chuyện tiền bạc qua một bên thì được như thế cũng qúi hoá lắm rồi. Là công dân của một quốc gia đã từng liên tiếp đánh thắng mấy đế quốc to mà ông cụ vẫn còn sống sót, với nguyên vẹn tứ chi hình hài, mãi đến tuổi 90 (tưởng) đã là điều vô cùng may mắn và hy hữu. Sự may mắn hiếm hoi này khiến tôi không khỏi trạnh lòng nhớ đến một trường hợp (không may) khác, của một đảng viên cộng sản khác. Trong bản Tuyên Bố Lên Án Tội Ác Đồng Tâm có đoạn viết về nhân vật này như sau: “Cụ Lê Đình Kình 84 tuổi đời, 58 tuổi đảng, một lão thành cách mạng của đảng cầm quyền, một nhân cách đẹp, một khí phách lớn, kiên cường, bền bỉ, vững tin vào luật pháp nhà nước, vững tin vào lẽ phải, vào nhân dân trong cuộc đấu tranh với quyền lực tham nhũng, một già làng được hầu hết người dân Đồng Tâm kính trọng, tin yêu. Con người như vậy đã bị giết hại và phanh xác quá rùng rợn: Khảo tra, đánh đập bầm dâp khắp thân già. Kề súng tận tim, tận não xả đạn. Mang xác đi mổ bụng, phanh thây…” Tôi trộm nghĩ thêm rằng chính cái “nhân cách đẹp, một khí phách lớn, kiên cường, bền bỉ, vững tin vào luật pháp nhà nước, vững tin vào lẽ phải” của cụ Lê Đình Kình chính là nguyên nhân gây ra thảm nạn. Cái chết tàn bạo của nạn nhân, và  mọi sự sách nhiễu cùng oan khuất mà thân nhân của ông đang phải ghánh chịu, cũng giúp cho tôi chợt hiểu ra thái độ nhận nại (hay nhẫn nhục) của nhiều đảng viên kỳ cựu khác từ nhiều thập niên qua. Cụ Nguyễn Thị Bình, nhân vật đã nhận huy hiệu 70 tuổi đảng từ năm 2017, là một trường hợp điển hình. Theo Wikipedia: “Bà sinh năm 1927 là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nổi tiếng trên thế giới khi giữ cương vị Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn 1968-1973. Bà là một trong những người đại diện các bên ký hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định.” Nhờ vào những “kỳ tích” thượng dẫn nên dù cả MTGPMN lẫn CPCMLT đều bị giải thể (sau khi miền Nam thất thủ) Nguyễn Thị Bình vẫn được cho ngồi vào một cái ghế súp – Phó Chủ Tịch Nước – và bà đã ngồi im thin thít cả chục năm trời (1992 đến 2002) không dám ho he hay hó hé gì ráo trọi. Mãi cho đến khi cuối đời Nguyễn Thị Bình mới rón rén lập ra một cái quỹ văn hóa với kỳ vọng “hưng dân trí, chấn dân khí” nhưng cũng không tồn tại được lâu. Báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 23/02/2019, ái ngại loan tin: “Bà Nguyễn Thị Bình - chủ tịch Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh - ký văn bản thông báo về việc quỹ này chấm dứt hoạt động từ ngày 20-2 vì một số điều kiện khách quan.” Tuy (nguyên) PCTN không nói gì về những “điều kiện khách quan” này nhưng ai cũng hiểu rằng bà (lại) tiếp tục ngậm bồ hòn làm ngọt. Thế mới rõ Nguyễn Thị Bình là người trí thức và là kẻ thức thời, chứ cứ như nông dân Lê Đình Kình (“kiên cường, bền bỉ, vững tin vào luật pháp nhà nước, vững tin vào lẽ phải, vào nhân dân”) thì e khó thọ đến bây giờ, và chưa chắc đã được chết toàn thây. Mà có riêng chi bà Bình, ông Thọ, ông Phát, bà Định … (và ngay cả đến ông Hồ) cũng đều chọn thái độ “thức thời” tương tự vì họ biết cái đảng (cướp) của mình rõ hơn ai hết. Chỉ có những thường dân ngây thơ như chúng ta thì vẫn cùng nhau lên tiếng “đòi hỏi phải truy tố những kẻ đã sát hại cụ Kình.” Làm sao có thể can thiệp vào chuyện trừng phạt đảng viên của một đảng cướp cho dù đây là “một vú án một tội ác trời không dung, đất không tha” chăng nữa? Công lý chỉ có thể được thực thi sau khi mọi người đều đã nhận diện được bọn cướp này, và quyết tâm đánh đuổi cho đến khi chúng ngã gục – bằng mọi giá. tuongnangtien's blog    
......

Trung Quốc và lựa chọn định mệnh đối với Đài Loan

The Economist - Phan Nguyên biên dịch Sự trỗi dậy của Trung Quốc liên quan đến một số quyết định mang tính định mệnh đối với Chủ tịch Tập Cận Bình, nhà lãnh đạo của đất nước. Không gì quan trọng hơn là câu hỏi liệu có nên tấn công Đài Loan để đưa hòn đảo dân chủ, thân phương Tây với 24 triệu dân này vào vòng kiểm soát của Đảng Cộng sản hay không. Nếu một ngày nào đó một chiếc xe limousine Hồng Kỳ bọc thép chở ông Tập trong vai trò “nhà chinh phục” diễu qua các đường phố ở thủ đô Đài Bắc của hòn đảo, ông sẽ trở thành một nhà Cộng sản bất tử. Ông sẽ được xếp ngang hàng Mao Trạch Đông với tư cách là người cùng giành chiến thắng trong cuộc nội chiến Trung Quốc vốn vẫn dang dở từ năm 1949 khi chế độ Quốc Dân Đảng bại trận lưu vong sang Đài Loan. Có lẽ ông Tập sẽ diễu qua những con phố Đài Bắc vẫn còn nghi ngút lửa, đầy máu và vắng bóng dân thường do lệnh thiết quân luật. Nhưng cuộc chinh phục Đài Loan vẫn sẽ đánh dấu sự nâng tầm Trung Quốc lên hàng các cường quốc hùng mạnh đến mức không một quốc gia nào dám thách thức mong muốn của họ. Đối với những lãnh đạo cứng rắn cai trị Trung Quốc, lịch sử không được viết bởi những kẻ mềm yếu. Nếu ông Tập ra lệnh cho Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc chiếm Đài Loan, quyết định của ông sẽ được định hình bởi một nhận định quan trọng nhất: liệu Mỹ có thể ngăn cản ông hay không. Trong 71 năm, sự tồn tại của Đài Loan như một hòn đảo tự trị là nhờ vào khả năng của Mỹ trong việc răn đe ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc. Đúng vậy, Đài Loan cũng được hưởng lợi từ sự kiên nhẫn của Trung Quốc trong khi Trung Quốc muốn thử nghiệm các kế sách khác để có thể tránh được chiến tranh. Kể từ thời Đặng Tiểu Bình, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ràng buộc Đài Loan với đại lục về mặt kinh tế. Họ cũng đã cố gắng lôi cuốn công chúng Đài Loan bằng những lời hứa về quyền tự chủ nếu họ chấp nhận sự cai trị từ Bắc Kinh, theo tiêu chuẩn “một quốc gia, hai chế độ”. Năm ngoái, nhận thức về khái niệm đó đã được chuyển từ ngờ vực thành bác bỏ bởi sự phá hủy các quyền tự do công dân ở Hồng Kông, một lãnh thổ được trao những lời hứa tương tự. Nhưng Trung Quốc đang mất kiên nhẫn với việc “tái thống nhất bằng biện pháp hòa bình”, và những tính toán lạnh lùng hơn luôn quan trọng hơn. Về cơ bản, Trung Quốc vẫn e ngại vì sợ rằng quân đội Đài Loan có thể sẽ cầm cự được cho đến khi lực lượng Mỹ đến ứng cứu. Tổng thống Joe Biden và các trợ lý chính sách đối ngoại của ông, những người rất giàu kinh nghiệm, biết rõ vai trò trung tâm của nước Mỹ trong thế trận này. Đó là lý do tại sao vào ngày thứ tư sau khi chính quyền Biden nhậm chức, Bộ Ngoại giao Mỹ đã lên án các nỗ lực quân sự, kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc nhằm đe dọa Đài Loan, đồng thời tuyên bố cam kết của Mỹ đối với hòn đảo này là “vững như bàn thạch”. Trên thực tế, khả năng của Mỹ trong việc ngăn chặn một cuộc xâm lược Đài Loan đang suy yếu dần. Lý do chính là vì Trung Quốc trong hơn 20 năm đã theo đuổi mục tiêu duy nhất là các vũ khí tiên tiến và các kỹ năng cần thiết để ngăn chặn sự can thiệp của các lực lượng Mỹ. Một yếu tố khác là ý thức về vận mệnh lịch sử của ông Tập và việc ông sử dụng chủ nghĩa dân tộc dân túy để củng cố quyền lực của mình — mặc dù chủ nghĩa dân tộc cũng làm tăng chi phí của một cuộc tấn công bất thành. Trên một số diễn đàn, các học giả Mỹ và các quan chức cấp cao nghỉ hưu đã ca ngợi chính quyền Trump vì đã thông qua giao dịch bán vũ khí cho Đài Loan trị giá hơn 17 tỷ USD. Họ cũng phê phán các trợ lý của Trump, những người đã phô trương sự ủng hộ đối với Đài Loan như một cách khiêu khích Trung Quốc mà không nghĩ đến những rủi ro đối với hòn đảo này. Một số học giả từng là nhà ngoại giao, chẳng hạn như Richard Haass của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR), đã thúc giục Mỹ chấm dứt chính sách “mơ hồ chiến lược”, tức tránh đưa ra các cam kết rõ ràng trong việc đáp lại các hành động gây hấn chống lại Đài Loan. Sự mơ hồ này là nhằm ngăn cản sự hấp tấp của các chính trị gia Đài Loan và gây phẫn nộ cho Trung Quốc. Bonnie Glaser, chuyên gia về an ninh Trung Quốc và Đài Loan tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, một viện nghiên cứu chính sách ở Washington, nói rằng chính quyền Biden đang tỏ ra kiên quyết khi nói về Trung Quốc và Đài Loan, vì họ “rất lo lắng về khả năng xảy ra tai nạn và tính toán sai lầm”. Bà Glaser, một học giả có nhiều mối quan hệ, bày tỏ lo ngại về các cuộc đụng độ ngẫu nhiên, chẳng hạn như giữa các máy bay hoặc tàu của Trung Quốc và Đài Loan, và về khả năng xảy ra xung đột quân sự có chủ ý trong 5 hoặc 10 năm nữa. Robert Blackwill, cựu trợ lý an ninh quốc gia của George W. Bush và là đồng tác giả của bài phân tích mới của CFR, The United States, China and Taiwan: A Strategy to Prevent War (Hoa Kỳ, Trung Quốc và Đài Loan: Chiến lược ngăn chặn chiến tranh), muốn Mỹ tạo ra “khả năng răn đe địa – kinh tế đáng tin cậy”, cũng như củng cố sự răn đe về mặt quân sự. Ông cho rằng Mỹ và các đồng minh như Nhật Bản nên nói rõ rằng Trung Quốc sẽ bị trục xuất khỏi các hệ thống tài chính và thương mại dựa trên đồng đô la nếu nước này tấn công Đài Loan. Blackwill nói nếu các chỉ huy Trung Quốc thúc giục chiến tranh, “chúng ta muốn các lãnh đạo kinh tế có mặt trong phòng” để chỉ ra các chi phí kinh tế của hành động đó. Tuy nhiên, phần khó nhất của việc ngăn chặn Trung Quốc là việc xây dựng các liên minh vững mạnh sẵn sàng thách thức sự xâm lược của Trung Quốc. Các so sánh với thời Chiến tranh lạnh không phù hợp với vấn đề Đài Loan. Sự sống còn của Tây Berlin được coi là lợi ích quốc gia quan trọng của Mỹ và các đồng minh NATO, những người đã lên kế hoạch chiến tranh để ngăn chặn việc Liên Xô phong tỏa thành phố. Nhưng điều quan trọng là Liên Xô là đối thủ yếu về kinh tế. Ngày nay, không có sự đồng thuận nào giữa các đồng minh khu vực của Mỹ rằng sự sống còn của Đài Loan là một lợi ích quan trọng đáng để họ phải chọc giận Trung Quốc, vốn thường là đối tác thương mại lớn nhất của họ. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang cố gắng giảm bớt tính dễ bị tổn thương của đất nước trước áp lực kinh tế bên ngoài. Trong một bài báo vào tháng 5 năm ngoái, Qiao Liang, một thiếu tướng không quân đã nghỉ hưu, dự đoán rằng nếu chiến tranh xoay quanh Đài Loan nổ ra, Mỹ và các đồng minh sẽ chặn các tuyến đường biển chuyên chở hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc, đồng thời cắt đứt khả năng tiếp cận thị trường vốn của Trung Quốc. Tướng Qiao ủng hộ các động thái của ông Tập nhằm giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào nhu cầu kinh tế bên ngoài. Ông nói thêm rằng chìa khóa cho câu hỏi Đài Loan sẽ là kết quả của cuộc cạnh tranh sức mạnh giữa Trung Quốc với Mỹ. Vị tướng này là một kẻ khiêu khích theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, nhưng những bình luận của ông phản ánh quan điểm của nhiều người ở Trung Quốc ngày nay. Điều đó sẽ khiến các đồng minh của Mỹ phải suy nghĩ. Đối với nhiều người Trung Quốc, việc thu hồi Đài Loan không chỉ là một sứ mệnh quốc gia thiêng liêng. Việc hoàn thành sứ mệnh này cũng sẽ báo hiệu rằng vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ sắp kết thúc. Nếu Trung Quốc tin rằng họ có thể hoàn thành sứ mệnh đó với chi phí có thể chấp nhận được, họ sẽ ra tay. The Economist - Phan Nguyên biên dịch Nguồn: “China faces fateful choices, especially involving Taiwan”, The Economist, 18/02/2021.    
......

Ai cần đổi mới sáng tạo?

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân| Sau khi thừa nhận sự thất bại của mục tiêu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020, đảng CSVN cuối cùng chọn con đường đi tắt, bắt đầu chạy theo xu hướng thời đại. Đó là khai thác thế giới ảo để làm cuộc cách mạng kỹ thuật số, hy vọng đạt mục tiêu chiến lược 25 năm sau mà đại hội XIII đề ra: Năm 2045 Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển, thu nhập cao. Vì ảo khác với thực, lại khó thấy nên các lãnh đạo CSVN tha hồ nói, tha hồ huênh hoang, tha hồ vẽ vời và tha hồ lây nhiễm bệnh nổ. Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ Trưởng Bộ 4T là một trong nhiều nhân vật đang đang bị lây nhiễm như thế, và ông ta hô khẩu hiệu rất to, to không kém Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc. Xuất thân từ một sĩ quan quân đội, Nguyễn Mạnh Hùng chuyển sang lãnh vực kinh tế, được cho giữ chức tổng giám đốc Tập Đoàn Công Nghiệp – Viễn Thông Quân Đội (Viettel). Sau khi nắm Bộ 4T thay thế nhà tuyên giáo tay nhúng chàm Trương Minh Tuấn, Nguyễn Mạnh Hùng trở thành anh chột giữa đám người mù, được đảng CSVN coi là kiến trúc sư cho chiến lược “cách mạng kỹ thuật số” tại Việt Nam với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Tức là 25 năm nữa, lợi tức trung bình của người dân Việt Nam sẽ có từ 13.000 Mỹ Kim trở lên, đứng ngang hàng với các nước tiến bộ nhất trên thế giới. Để thực hiện được giấc mơ quá đẹp này, năm 2019 trong một cuộc hội thảo, Nguyễn Mạnh Hùng lớn giọng kêu gọi các công ty Việt Nam phải đổi mới sáng tạo không ngừng. Đổi mới cái gì và sáng tạo ra sao thì Hùng không nói rõ nhưng sự hô hào mang tính kích động thì rất nhiều. Nào là hạ tầng cũ, cách làm cũ, tri thức cũ, sản phẩm cũ, mô hình kinh doanh cũ không còn phù hợp. Phải bỏ cách cũ và làm theo cách mới. Theo bộ trưởng Bộ 4T, cách mới là làm ngược lại: Nếu trước đây các công ty tìm mọi cách để tránh sai lầm thì nay phải “sai nhanh hơn” với chi phí rẻ hơn, người ta có thể hiểu là bỏ qua phẩm chất. Trước đây là học trước làm sau, nay làm trước học sau, tức bỏ qua kiến thức. Vì cái mới chưa có nên không có gì để học mà chỉ có thể làm thử. Nếu trước đây có việc trước rồi mới tìm người làm sau, thì nay tìm người phù hợp trước rồi mới nghĩ đến phải làm gì. Và vì công việc là mới nên cần những người giống nhau ở chỗ đam mê khám phá. Cứ áp dụng đúng theo lý luận của bộ trưởng Bộ 4T, các chính trị gia cộng sản ở Hà Nội nên học tập theo đường lối đổi mới sáng tạo này, bỏ đảng cộng sản lạc hậu đi, thực hiện đường lối dân chủ đa đảng. Đảng CSVN lúc đó sinh hoạt nghị trường ngang bằng như các đảng phái khác, tất nhiên đất nước ổn định đi lên. Trở lại phát biểu nêu trên, để thực hiện chỉ tiêu chiến lược năm 2045, ông Hùng hô hào làm “kinh tế số.” Ông Hùng giải thích kinh tế số là các hoạt động kinh tế đặt trên nền tảng sử dụng thông tin số, tri thức số như là yếu tố sản xuất chính. Ngoài ra doanh nghiệp phải sử dụng ICT (Information & Communication Technologies) tức là kết hợp viễn thông và công nghệ thông tin để tăng năng suất lao động và tối ưu hóa nền kinh tế. Điều ông Hùng nói  ngày nay ai cũng biết, nhưng vấn đề là làm cách nào và làm sao có một cơ chế đủ tiến bộ để giúp đẩy mạnh sự thay đổi trong tư duy con người mới là yếu tố chính. Bỏ qua những lời tự hào về những thành công vượt trội sau 35 năm thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn dựa trên hình thức sản xuất gia công và làm thuê là chính. Ngay cả những lời kêu gọi vốn đầu tư ngoại quốc (FDI) cũng dựa trên sức lao động của hàng ngũ nhân công giá rẻ để khêu gợi lòng tham lợi nhuận của tư bản nước ngoài. Các trường học của Việt Nam đào tạo sinh viên ra trường đa số nếu không thất nghiệp, cũng đi làm công nhân với những ngành nghề không phù hợp với đồng lương rẻ mạt. Một số bỏ tiền ra chạy một chân lao động hợp tác cũng dưới hình thức đi làm thuê cho nước ngoài, mà đích nhắm là Hàn Quốc và Nhật Bản. Từ một môi trường kinh tế loay hoay với nhân lực thấp kém như vậy, lời kêu gào đổi mới sáng tạo của ông Hùng xem ra chỉ là hô khẩu hiệu bằng lời lẽ  hoa mỹ cho có vẻ khoa học cao siêu, mà mục đích không ngoài lập thành tích đăng báo và hù dọa người nghe. Cho dù đã bước vào “sự nghiệp đổi mới” từ năm 1986, mãi đến năm 2008 Việt Nam mới đạt được thu nhập 1.000 Mỹ Kim tính theo đầu người để thoát khỏi tình trạng nghèo đói, bước vào vị trí những quốc gia có thu nhập thấp. 12 năm sau tức năm 2020, Việt Nam mới nhích lên vị trí nước có thu nhập 3.500 Mỹ Kim đầu người, nhưng vẫn chưa ra được khung thu nhập trung bình thấp. Từ 2020 đến 2045 còn 25 năm nữa để Việt Nam đạt con số 13.000 Mỹ Kim đầu người, vượt qua ải thu nhập trung bình thấp. Đây quả là con đường gian nan trong tình trạng chính trị một đảng độc quyền độc tôn, nhất quyết lèo lái đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mù mờ. Do đó hơn bao giờ hết, cơ hội để Việt Nam “thay đổi thứ hạng và trở thành nước phát triển vào năm 2045” là phải mạnh mẽ thay đổi. Nhưng câu hỏi đặt ra không phải cho doanh nghiệp hay người dân phải đổi mới thế này thế kia, mà chính là các lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam thực sự dám có một chính sách đổi mới, sáng tạo thực tế hay không. Nếu chế độ không có sự thay đổi cần thiết và dứt khoát thì những lời lẽ của Bộ Trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chỉ là lời mê sảng giữa ban ngày. Phạm Nhật Bình XEM THÊM: Tham vọng của Bộ Trưởng Bộ 4T Nguyễn Mạnh Hùng  
......

Vì sao Hoa Kỳ “khai chiến” với Trung Quốc ở Alaska

Cuộc gặp mặt giữa phái đoàn cấp cao Hoa Kỳ và Trung Quốc tại Alaska hôm 19 & 20/3/2021 đã biến thành cuộc khẩu chiến dữ dội ngay trong giờ khai mạc. Ảnh minh họa Lý Thái Hùng – Việt Tân Cuộc gặp mặt giữa phái đoàn Hoa Kỳ và Trung Quốc tại Anchorage, tiểu bang Alaska hôm 19 và 20 tháng Ba đã biến thành cuộc khẩu chiến dữ dội ngay trong giờ khai mạc, nhưng nó không là điều bất ngờ nếu theo dõi các hành động của Hoa Kỳ trước đó một tuần. Trước khi gặp phái đoàn cấp cao của Trung Quốc gồm Dương Khiết Trì, Ủy viên Bộ Chính Trị đặc trách đối ngoại và Ngoại Trưởng Vương Nghị, những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã có hai buổi trao đổi với các đồng minh quan trọng tại Á Châu: 1) Tổng thống Biden đã tham dự cuộc họp thượng đỉnh với các nguyên thủ trong Bộ Tứ gồm thủ tướng Nhật, thủ tướng Australia và thủ tướng Ấn Độ qua mạng Internet vào ngày 13 tháng Ba; 2) Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken cùng với Bộ Trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin đã bay sang Nhật và Nam Hàn để họp với hai người đồng cấp của hai quốc gia này vào ngày 16 và 17 tháng Ba. Thông điệp chung của các hội nghị này là Hoa Kỳ cùng với các quốc gia đồng minh sẽ chung tay vì một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do, mở rộng và lành mạnh, dựa trên quy tắc dân chủ chứ không dùng “sự cưỡng ép và đe dọa,” đặc biệt là đối với tình hình tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Tuy thông điệp này đã được công bố qua bản Tuyên Bố Chung sau khi Hội nghị thượng đỉnh của Bộ Tứ kết thúc, nhưng chính cuộc gặp gỡ Mỹ – Trung tại Anchorage, là diễn đàn tốt nhất để cho Hoa Kỳ biểu hiện thái độ “nắn gân” Trung Quốc, nhằm tạo sự an lòng của các quốc gia đồng minh, đặc biệt là Khối ASEAN về chính sách “nước Mỹ trở lại.”  Nói cách khác, trước khi Hội nghị diễn ra, Hoa Kỳ đã có chủ tâm “khiêu chiến” với cả Bắc Kinh lẫn Mạc Tư Khoa, qua việc trừng phạt 14 phó chủ tịch Quốc Hội Trung Quốc liên quan đến việc thay đổi hệ thống bầu cử tại Hong Kong, và qua việc ông Biden gọi Putin là kẻ sát nhân, để tác động lên các đồng minh tại Á Châu rằng Hoa Kỳ không còn tương nhượng mà chọn thế đối đầu với cả hai cường quốc độc tài Trung Cộng và Nga. Chính vì thế mà ngay khi bước vào Hội nghị, Ngoại Trưởng Antony Blinken và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Jake Sullivan đã đặt thẳng vấn đề rằng Trung Quốc đang là mối đe dọa cho sự ổn định toàn cầu và quan ngại về các hành động của Trung Quốc, bao gồm những vấn đề như đàn áp tại Tân Cương, Hong Kong, uy hiếp Đài Loan, các cuộc tấn công mạng vào Mỹ và ép buộc kinh tế đối với các nước đồng minh. Phía Trung Quốc cũng đã phản pháo khá mạnh với bài phát biểu gần 15 phút bằng tiếng Trung của Dương Khiết Trì, rằng Hoa Kỳ không nên can thiệp vào nội bộ Trung Quốc, và không nên tiếp cận vấn đề một cách trịch thượng vì Hoa Kỳ không có quyền lên lớp Trung Quốc về vấn đề nhân quyền và dân chủ. Nhưng nội dung phát biểu sau đó của Vương Nghị mới hiện rõ sự cay cú của phái đoàn Trung Quốc khi cho rằng những chỉ trích của phía Hoa Kỳ ngay lúc khai mạc là “không phải cách tiếp khách bình thường.”  Vượng Nghị còn lên giọng điệu: “Nếu Hoa Kỳ định sử dụng điều này để nâng cao ưu thế của mình trước Trung Quốc, tôi cho rằng quý vị đã tính toán sai. Nó chỉ có thể chứng tỏ sự yếu đuổi và bất lực, không ảnh hưởng gì đến lập trường của Trung Quốc, hoặc không thể làm lung lay quyết tâm của Trung Quốc.”   Với không khí căng thẳng ngay từ đầu như vậy rõ ràng là hai buổi họp kín tiếp theo cũng không mang lại kết quả nào, nên Hội nghị bế mạc mà không có một bản tuyên bố chung như mọi khi. Có lẽ hiểu thâm ý của Hoa Kỳ đã sử dụng Hội nghị để củng cố tinh thần “bài Trung” của các nước Á Châu, nên ngay khi phái đoàn Dương Khiết Trì và Vương Nghị rời phi trường Anchorage quay trở lại Bắc Kinh, Trung Quốc đã tung ra hai hành động “nắn gân” trên biển Hoa Đông và Biển Đông. Thứ nhất là sáng ngày 21 tháng Ba, chính quyền Philippines lên tiếng tố cáo Bắc Kinh đã đưa 220 tàu đánh cá – mà trên thực tế là những tàu dân quân – xâm nhập khu vực Bãi Ba Đầu (Whitson Reef) của Phi. Đây là rạn san hô lớn nhất trong số các đảo, bãi san hô trong cụm Sinh Tồn mà Việt Nam cũng đang kiểm soát 4 đảo (gồm Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Cô Lin và Len Đào). Thứ hai là chiều ngày 20 tháng Ba, Bộ Quốc Phòng Nhật Bản loan báo một biên đội gồm 3 tàu khu trục của Trung Quốc: Tàu Type 055 Nam Xương, tàu Type 052D Thành Đô và tàu hộ vệ Type 051A Đại Khánh tiến vào vùng biển phía Nam của Nhật Bản. Tàu khu trục Type 055 Nam Xương là một trong số ít tàu chiến có trọng tấn hơn 13 ngàn tấn, tuy không phải là hàng không mẫu hạm nhưng được xem là tàu khu trục lớn có khả năng tấn công và đổ bộ, được trang bị những loại vũ khí phòng không, chống tên lửa rất mạnh trên biển. Trong khi đó tại Hoa Lục, bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc đã cho loan truyền bài phát biểu dài 15 phút liên tục của Dương Khiết Trì để kích lên làn sóng chống Mỹ với luận điệu rằng “người Mỹ không có tư cách đứng từ trên cao nói chuyện với Trung Quốc.” Thậm chí tờ Nhân Dân Nhật Báo đã đăng bài xã luận cho rằng, phát biểu của Dương Khiết Trì đã chấm dứt 120 năm đen tối của Trung Quốc khi mà năm 1901 (năm Tân Sửu) Bắc Kinh đã ký một hiệp ước bất bình đẳng với 11 nước trong bối cảnh suy tàn của Nhà Thanh. Nhưng nay Trung Quốc không còn là Trung Quốc trước kia. Cuộc gặp mặt tại Alaska đã cho thấy là cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều đang cố định vị sức mạnh của mình với phần còn lại của thế giới. Hai bên đều hiểu rằng, việc họ phải cứng với đối phương đều có những mục tiêu riêng. Với Hoa Kỳ, sự cứng rắn đối với Trung Quốc là để truyền đi một thông điệp. Trước hết là cho dư luận Hoa Kỳ thấy rằng chính quyền Biden sẵn sàng đối đầu với mộng bá chủ của Trung Quốc, khẳng định vị trí hàng đầu của Hoa Kỳ trong thế liên minh với các quốc gia trên thế giới để chống lại những quốc gia độc tài mà tiêu biểu là Nga và Trung Cộng. Kế đến là ủng hộ và đứng về phía các đồng minh Á Châu để chống lại những cưỡng chế, dọa nạt của Trung Quốc. Với Trung Quốc, sự cứng rắn đối với Hoa Kỳ trong phát biểu dài 15 phút của Dương Thiêt Trì được chuẩn bị trước, nhắm vào khối quần chúng Hoa Lục để truyền đi thông điệp rằng Trung Quốc đã lớn mạnh và không còn sợ Hoa Kỳ, nhưng cũng là một đòn “nắn gân” đối với các quốc gia trong vòng kềm tỏa của Bắc Kinh. Ngày 22 tháng Tư tới đây, Tổng Thống Biden và Chủ Tịch Nước Tập Cận Bình sẽ gặp nhau trong Hội nghị về Ngày Trái Đất do Liên Hiệp Quốc tổ chức trực tuyến (online). Có lẽ hai bên sẽ kiềm chế,  nhất là phía Trung Quốc đang muốn có cuộc gặp mặt thật sớm giữa họ Tập và Biden trong năm nay để tháo gỡ ba vấn đề đang gây rất nhiều khó khăn cho phía Trung Quốc: Thương mại, công nghệ và kinh tế. Tóm lại, cuộc gặp mặt vừa qua ở Alaska đã cho thấy Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận đối đầu ở mức cao độ. Hoa Kỳ không thể chỉ dùng các biện pháp quân sự hay lời lẽ cứng rắn để đáp trả, mà quan trọng hơn là cần xiển dương hai giá trị cốt lõi của nước Mỹ về “dân chủ và nhân quyền” để truyền sinh lực cho khối quần chúng gần 3 tỷ người trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương thì mới mở ra một kỷ nguyên tự do, mở rộng và lành mạnh trong khu vực. Lý Thái Hùng  
......

Tô Lâm và tột cùng của tội ác:

Ảnh Trịnh Bá Phương   Luật Sư Nguyễn Văn Đài       Gần đây, một loạt những nhà tranh đấu kiên cường chống độc tài cộng sản đã bị đưa vào bệnh viện tâm thần với lý do để giám định.   Ban đầu là anh Nguyễn Trung Lĩnh, sau 1 một thời gian giam giữ ở bệnh viện tâm thần Thường Tín, Hà Nội.   Hội đồng giám định y khoa xác định không có bệnh và chuyển sang Tòa án xử kín và xử anh Nguyễn Trung Lĩnh 12 năm tù.   Tiếp theo là nhà báo Phạm Thành(Phạm Chí Thành) cũng bị đưa vào bệnh viện tâm thần Thường Tín, sau 1 tháng thì cũng được kết luận là không có bệnh;   Bây giờ là đến người đấu tranh kiên cường Trịnh Bá Phương tiếp tục bị đưa vào bệnh viện tâm thần Thường Tín.   Tôi tin là sau 1 tháng tới, Trịnh Bá Phương cũng sẽ được kết luận là không có bệnh.   Câu hỏi là tại sao Tô Lâm lại chỉ đạo cơ quan an ninh điều tra làm việc này:   1/ Tô Lâm trả thù bởi vì: Đây là những người đấu tranh rất kiên cường chống lại độc tài CSVN; từ khi bị bắt họ không chịu trả lời các câu hỏi của an ninh điều tra, hoặc nếu trả lời thì cũng không đúng với ý muốn của điều tra viên.   2/ Khủng bố tinh thần: Mọi người đang bình thường mà bị đưa vào bệnh viện tâm thần thì dù ít, dù nhiều cũng tức giận, hoang mang. Đó là điều mà Tô Lâm và an ninh điều tra mong muốn.   Trong lịch sử của các nước cộng sản Liên Xô và Đông Âu cũng thường hay áp dụng cách thức khủng bố như thế này.   Đồng thời Tô Lâm và an ninh điều tra cũng muốn khủng bố tinh thần thân nhân, gia đình của anh Trịnh Bá Phương và những người đang đấu tranh chưa bị bắt;   3/ Việc đưa anh Trịnh Bá Phương cũng như những người khác vào bệnh viện tâm thần gây ra ít nhiều sự nghi ngờ trong gia đình và những người đấu tranh cũng như dư luận xã hội về việc anh Phương có bệnh thật hay không?   Có thể nói Tô Lâm và an ninh độc tài CSVN đang thực hiện một trò chơi độc ác và tàn bạo với anh Trịnh Bá Phương, những người đấu tranh dân chủ và bất đồng chính kiến ở tại Việt Nam.   Trái tim đen tối của Tô Lâm mà đem làm mực viết lên tội ác của y thì nghìn năm không phai.   Da mặt của Tô Lâm mà đem làm thớt thì trăm năm không hỏng!
......

Tạo vùng xám và mục đích gian tà

Đỗ Ngà Vùng xám là vùng mờ ảo không nhận diện rõ đối tượng. Đó là cách tạo vấn đề mà người ta thiếu điều kiện chứng minh rõ ràng. Những vùng thuộc chủ quyền Việt Nam thì Tàu tạo thành vùng tranh chấp, vùng tranh chấp thì Tàu khẳng định là vùng rõ ràng thuộc Tàu. Đó là chiến thuật “vùng xám” mà Tàu Cộng rất ưa dùng để gặm nhấm chủ quyền Việt Nam. ĐCS Việt Nam cũng tạo ra vùng xám, nhưng không phải để mở rộng chủ quyền quốc gia như Tàu đang làm mà là để đối phó với dân. Để che giấu những gì xấu xa mà họ đang làm. “Tình hữu nghị”, 16 Chữ vàng, 4 Tốt” hay “Hiệp Ước Thành Đô” vv.. là những vùng xám mà ĐCS đang tạo ra để che mắt dân. Cái gọi là “tình hữu nghị” nó được ĐCS giải thích là “hợp tác đôi bên cùng có lợi”, nhưng người dân thì gọi nó là “một loại quan hệ chủ tớ”. Mỗi khi có hiện tượng “hữu nghị” bất thường, dân thì thấy ĐCS đang cúi đầu thờ giặc, còn ĐCS thì giải thích rằng “đó là sự hợp tác giữ 2 đảng, 2 nhà nước”. Và chính bức màn che đó, nó làm cho người dân không đủ bằng chứng để buộc tội ĐCS. Nhờ đó mà ĐCS dù quỳ gối trước ngoại bang nhưng họ luôn có cách giải thích theo cái lí của họ. Tranh cãi về một sự kiện màu xám thì không đến đâu cả. Mỗi bên có lý riêng của mình. Người dân nói “hội nghị Thành Đô là Hội Nghị bán nước”, đảng hỏi lại “Nội dung đâu? Chứng minh xem?” thế là dân cứng họng, vì nội dung nó được giữ bí mật. Nếu dân cố chứng minh rằng: “Tôi thấy, từ sau Hội Nghị Thành Đô, Việt Nam phụ thuộc Tàu hơn. Điều đó chứng minh Hội Nghị Thành Đô là Hội Nghị bán nước”, Vậy khi đảng hỏi lại: “Làm sao biết sự phụ thuộc ấy là do những quy định trong Hiệp Định đã ký kết tại Thành Đô?”. Thế là dân cứng họng, tuy nhiên dân vẫn không tin nội dung của hiệp định đã ký tại Thành Đô năm 1990 là có lợi cho Việt Nam. Đấy! Hiệp Định đã ký tại Hội Nghị Thành Đô là vùng xám, dân vẫn khăng khăng cho là ĐCS bán nước nhưng thiếu cơ sở chứng minh rõ ràng. Còn ĐCS, dựa vào vùng xám đó chối bay chối biến điều họ làm. Ai tin đảng thì nghĩ theo những gì đảng thanh minh, còn ai quá hiểu CS thì tin là ĐCS bán nước thờ giặc. Thế thôi. Nếu không có internet thì mãi mãi dân không biết về công hàm bán nước của ông Phạm Văn Đồng đã ký bán 2 quần đảo cho Tàu. Và nếu dân không tiếp xúc đủ 2 văn bản gồm: Bản tuyên bố ngày 4/9/1959 của phía Trung Quốc khẳng định Hoàng – Trường Sa thuộc chủ quyền của Tàu và Công Hàm thừa nhận bản tuyên bố đó của Phạm Văn Đồng sau đó 10 ngày thì người ta sẽ không hiểu hết bản chất vấn đề. Mà không hiểu hết bản chất vấn đề thì đó chính là một loại vùng xám trong nhận thức mà ĐCS lợi dụng điều đó để chối bỏ hành động bán nước của lãnh đạo đảng thế hệ đầu. Hiện nay phía tuyên giáo CS vẫn cố chối hành động bán nước của ông Đồng bằng cách hỏi rằng: “Trong Công hàm đó đâu có nói Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc? Đâu? Đâu? Đâu? Từ nào nói như thế đâu?”. Nếu người dân nào không tiếp cận được bản tuyên bố ngày 4/9/159 của Tàu là sẽ bí lời và họ sẽ thấy rằng, bên Tuyên Giáo “phản biện thuyết phục”. Đấy là những gì dân hiểu biết chưa tới đã bị tuyên giáo lợi dụng. Với CS thì họ rất nhiều thủ đoạn. Thực tế là Ban tuyên giáo đã lợi dụng vùng xám trong nhận thức của dân để chối bỏ hành động bán nước của họ mà thôi. Vậy nên đến bây giờ, nhiều người vẫn tin công hàm Phạm Văn Đồng không phải là văn tự bán nước. Đã là vùng xám thì ắt thiếu dữ liệu để khẳng định. Tuy nhiên cần phải nhìn nhận một điều, nếu anh không có tà tâm thì không bao giờ anh cố tạo vùng xám trong hành động của anh cả. Vậy nên, nếu gặp vùng xám, hãy xem ai tạo ra vùng xám ấy? Người nào cố tạo ra vùng xám thì ắt kẻ đó đang âm mưu làm điều xấu. Thế thôi./. -Đỗ Ngà-  
......

Nguyễn Phú Trọng chống tham nhũng theo kiểu ngồi chờ "chó giành xương"

Phạm Minh Vũ Trong bài phát biểu chống tham nhũng mới đây sau đại hội 13, ông trọng thay vì đốt lò giờ chuyển sang “hái quả”. Ông trọng nói rằng “quả nào chín thì ta hái trước, quả nào ương ương thì cứ để đó, khi nào chín thì sẽ hái, thế là hết cả chùm...” Nếu tỉnh táo, ta không thể không giật mình cái cách chống tham nhũng của vị tổng bí thư ngồi xổm trên hiến pháp này. Thế nào là chín? Thế nào là ương ương? Như Lê Thanh Hải vẫn chưa đủ chín? Hoàng Trung Hải vẫn còn ương ương? Ương ương mà gây tội ác tày trời như Lê Thanh Hải thì nếu đợi nó chín thì dân nào sống cho nổi ở Thủ Thiêm? Rõ ràng Đinh La Thăng bị lôi ra toà cùng mô-tip tội danh như gây thất thoát, hay sai phạm khi duyệt dự án 20 tỷ mà tù 20 năm, thế mà những kẻ gây thất thoát gần 400 triệu đô la và đưa thòng lọng siết chặt chủ quyền qua dự án Cát Linh Hà Đông đến giờ những kẻ đặt bút ký duyệt chưa ai bị sờ gáy. Không những không bị gì mà hàng ngày lại lên giọng dạy đạo đức. Gây thất thoát hơn 7000 tỷ ở Gang Thép Thái Nguyên, Hoàng Trung Hải vẫn ôm gối ngủ ngon bên bồ nhí... Cuối cùng, cái ương ương nó là gì? Khi xét xử một cá nhân này về tội tham nhũng nhưng kẻ khác cũng vướng phải nhưng trót lọt, tôi nghi ngờ cái cách chống tham nhũng của ông trọng. Nhưng, khi ông trọng đem đàn em của kẻ thù ra phân thay giữa toà hết lần này đến lần khác mà đàn em mình thì không hề đụng chạm gì thì tôi chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Nếu thực tâm chống tham nhũng, thì ông trọng phải diệt tham nhũng trong trứng nước, để ngăn ngừa hậu hoạ. Chứ đợi nó chín thì hàng trăm ngàn tỷ thuế của dân chảy ra ngoài Síp hết cả rồi ai sẽ chịu trách nhiệm? Và không những thất thoát ngân sách quốc gia, có kẻ đem treo chủ quyền để mặc cả, phải giá chúng bán luôn thì hậu quả thế nào hả ông trọng? Chống tham nhũng kiểu ông trọng, chẳng qua là dạng chó giành xương thôi./.  
......

Liên minh Trà sữa: Uống trà sữa, chống độc tài, tranh đấu cho tự do

Khi một cuộc phản công trên mạng xã hội trở thành phong trào đấu tranh dân chủ khắp châu Á Minh Đức – Luật Khoa Khi những cuộc biểu tình phản đối quân đội đảo chính nổ ra tại Myanmar, hashtag “#MilkTeaAlliance” lại xuất hiện tràn ngập trên các mạng xã hội. Các bạn trẻ tại nhiều nước châu Á đều đồng lòng bày tỏ sự ủng hộ với người biểu tình Myanmar. Không chỉ xuất hiện trên mạng, nhiều bạn trẻ thuộc phong trào Milk Tea Alliance (Liên minh Trà sữa) ở Thái Lan và Đài Loan cũng đã đổ ra đường để phản đối việc quân đội Myanmar đảo chính. Đã từng xuất hiện trong các cuộc biểu tình trước đó tại Thái Lan và Hong Kong, phong trào Liên minh Trà sữa đang lan tỏa mạnh mẽ ở nhiều quốc gia châu Á, gần đây nhất là Ấn Độ và Myanmar. Tên gọi nghe rất “teen”, lại có vẻ không liên quan gì lắm đến các cuộc biểu tình. Vậy thì rốt cuộc Liên minh Trà sữa là gì? Và phong trào này bắt nguồn như thế nào? Liên minh Trà sữa bắt đầu từ đâu? Liên minh Trà sữa (Milk Tea Alliance) là tên gọi của phong trào đấu tranh cho dân chủ của giới trẻ tại một số quốc gia châu Á. Mọi chuyện bắt nguồn vào tháng 04/2020, khi diễn viên tuổi teen người Thái Vachirawit Chivaaree (hay còn được biết đến với nghệ danh Bright) nhấn “like” một bài đăng (tweet) trên Twitter. Nội dung của tweet này là hình chụp của bốn thành phố trên thế giới (bao gồm cả Hong Kong) với chú thích: “Đây là bức ảnh được chụp tại bốn quốc gia khác nhau”. Điều này gián tiếp công nhận rằng Hong Kong là một quốc gia độc lập khỏi Trung Quốc. Hành động trên của Bright đã khiến cư dân mạng Trung Quốc dậy sóng. Nó chạm đến một vấn đề cực kỳ nhạy cảm, khi Trung Quốc từ lâu đã luôn cho rằng Hong Kong và Đài Loan là những phần lãnh thổ thuộc chủ quyền của mình. Mặc dù Bright sau đó đã công khai lên tiếng xin lỗi, nhưng điều này dường như không giúp cậu thoát khỏi những bình luận công kích của đội quân troll đông đảo từ đại lục. Bạn gái của Chivaaree – Weeraya “Nnevvy” Sukaram, cũng trở thành mục tiêu mới bị tấn công vì ám chỉ rằng Đài Loan là một quốc gia độc lập trong một bình luận trên Instagram từ ba năm trước. Tuy nhiên, các fan hâm mộ của Bright và Nnevvy tại Thái Lan không thể ngồi yên nhìn thần tượng của mình bị “đánh hội đồng”. Họ bắt đầu tiến hành các cuộc phản công. Nhưng sau đó đội quân troll từ Trung Quốc đã mắc một sai lầm: họ chuyển hướng sang chỉ trích chính phủ và chế độ quân chủ của Thái Lan. Điều này làm cho giới trẻ Thái vô cùng thích thú, nó đã vô tình đánh trúng vào mục tiêu chính của các cuộc biểu tình đang diễn ra tại quốc gia này. Sẵn đà, người dùng Twitter ở Hong Kong và Đài Loan cũng hồ hởi nhập cuộc. Mục đích chung của họ là cùng chống lại lực lượng dư luận viên hùng hậu do Bắc Kinh hậu thuẫn. Các bạn trẻ ở ba quốc gia này sau đó bắt đầu sử dụng hashtag #MilkTeaAlliance dưới mỗi bài viết của mình như là một cách để đoàn kết cùng nhau và để dễ dàng phân biệt với đội quân troll từ Trung Quốc. Liên minh Trà sữa đã được ra đời từ đó. Tại sao lại là trà sữa? Tên gọi Liên minh Trà sữa bắt nguồn từ món trà nổi tiếng và được yêu thích tại các quốc gia tham gia phong trào: món trà sữa có màu cam bắt mắt tại Thái Lan, những tách trà uống kèm sữa tươi kiểu Anh tại Hong Kong, và những ly trà sữa trân châu nổi tiếng của Đài Loan. Tên gọi này nhằm tách biệt Hong Kong, Thái Lan, và Đài Loan với Trung Quốc đại lục, nơi trà thường không được uống kèm với sữa. Sự giống nhau giữa các món trà này cũng là đại diện cho mục đích chung mà họ cùng theo đuổi. Liên minh Trà sữa đã tham gia vào các cuộc biểu tình thế nào? Các bạn trẻ tại Myanmar và Thái Lan đã áp dụng chiến thuật “tiến nhanh rút nhanh” (be water) hay biểu tình không có lãnh đạo (leaderless) từng được triển khai trước đó tại Hong Kong. Mũ bảo hiểm và dù vàng – những vật dụng quen thuộc trong các cuộc biểu tình tại Hong Kong – cũng xuất hiện trên các con phố của Bangkok hay Yangon. Khi biểu tình diễn ra ở Thái Lan, người Hong Kong cũng đã đáp lại bằng những thông điệp ủng hộ. Trên đường phố, các nhà hoạt động đã lập lên những ki-ốt nhỏ (street stand) để kêu gọi người dân Hong Kong đồng lòng cùng người biểu tình Thái. Nhà hoạt động trẻ Joshua Wong đã tổ chức một cuộc biểu tình nhỏ bên ngoài lãnh sự quán Thái Lan tại Hong Kong. Liên minh Trà sữa đã vượt qua mọi rào cản biên giới, văn hóa hay ngôn ngữ để trở thành biểu tượng cho tinh thần đoàn kết đấu tranh vì dân chủ của các bạn trẻ châu Á. “Chúng tôi được kết nối cùng nhau thông qua những khát vọng chung này”, Netiwit Chotiphatphaisal, một nhà hoạt động nổi tiếng của Thái Lan chia sẻ với Time. “Nó tiếp thêm cho chúng tôi năng lượng để tiếp tục bền bỉ chiến đấu”. Viết cẩm nang biểu tình Ngoài ra, Liên minh Trà sữa còn là nơi các bạn trẻ chia sẻ và “xuất khẩu” những chiến thuật biểu tình của mình ra thế giới. Mới đây, “The HK19 Manual” – cuốn cẩm nang hướng dẫn các chiến thuật biểu tình của Hong Kong đã được dịch sang tiếng Burma trong một sáng kiến của Milk Tea Alliance. Cuốn cẩm nang này gồm hai phần: phần một mô tả chi tiết hơn 60 vai trò khác nhau mà mỗi người biểu tình có thể đảm nhiệm; phần hai là hướng dẫn các lưu ý để giữ an toàn và các chiến thuật biểu tình từng được áp dụng tại Hong Kong. HK19 Manual đã được công khai trên nền tảng Google Docs và chia sẻ rộng rãi giữa những người biểu tình tại Myanmar. Trong một bài phỏng vấn dưới bút danh HK19, tác giả giấu tên của “The HK19 Manual” cho biết việc chia sẻ rộng rãi cuốn cẩm nang này là để giúp những thế hệ đi sau có thể tiếp tục theo đuổi chặng đường còn dang dở của lớp người đi trước. Thế hệ trẻ Hong Kong đã và đang tiếp nối hành trình đó. Một số chiến thuật biểu tình gây nhiều tiếng vang tại Hong Kong như hàng người nối dài (human chain) hay bức tường Lennon đều đã từng được áp dụng trước đây ở các quốc gia vùng Baltic và Đông Âu. Giờ đây, nó có thể được lan tỏa khắp nơi tại châu Á. Bức tường Lennon ở Hong Kong “Chúng ta càng duy trì tinh thần đoàn kết, càng giữ ngọn lửa đoàn kết này rực cháy càng lâu, cơ hội chiến thắng của chúng ta càng lớn”, tác giả của HK19 Manual cho biết. Liên minh Trà sữa được nhìn nhận thế nào? Bộ Ngoại giao Trung Quốc không công nhận tính chính danh của Liên minh Trà sữa. Trong một phát biểu với Reuters, phát ngôn viên Triệu Lập Kiên cho rằng, “các thế lực đòi độc lập cho Hong Kong và Đài Loan thường cấu kết với nhau trên mạng, điều này không có gì mới. Kế hoạch của họ sẽ không bao giờ thành công”. Tuy nhiên, những người ủng hộ liên minh cho rằng họ không đi ngược lại các chính sách của Bắc Kinh, mà thay vào đó chỉ đơn giản là cùng chia sẻ mục tiêu đấu tranh cho một nền dân chủ tự do. Tinh thần đoàn kết này cũng giúp mỗi thành viên cảm thấy bớt đơn độc hơn trong hành trình của mình. “Những người trẻ ý thức được rằng mình có một nguồn lực chính trị yếu, bởi vì họ không có tiền, và không nhiều người có các mối quan hệ chính trị. Nhưng họ đã tìm thấy được sự ủng hộ và sức cộng hưởng chính trị trên không gian mạng”, theo Veronica Mak, giáo sư xã hội học tại Đại học Shue Yan (Hong Kong). Nhiều chuyên gia tỏ ra bi quan trước khả năng tạo ra thay đổi của Liên minh Trà sữa. Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để nói trước kết quả của phong trào ở thời điểm này. Dorian Malkovic, biên tập viên mảng châu Á của tờ La Croix tại Pháp thì cho biết rằng ông hoan nghênh sự ứng biến nhanh nhạy của Liên minh Trà sữa trên mạng xã hội. Nhưng mặt khác, ông cũng đưa ra một cái nhìn không quá lạc quan. “Nếu nhìn vào Hong Kong, Thái Lan, Myanmar, bạn sẽ thấy những kẻ chuyên quyền mới là người đang cầm tay lái”. “Chúng ta thường nghĩ rằng mạng xã hội sẽ giúp ích cho các phong trào dân chủ. Nhưng thực tế thì ngược lại, chúng được các chính phủ độc tài tận dụng một cách vô cùng thông minh”, Malkovic nói thêm. Người Việt Nam có thể tham gia liên minh không? Mặc dù vẫn còn là một phong trào non trẻ hoạt động trong một khu vực có nhiều biến động chính trị, Liên minh Trà sữa sở hữu nhiều tiềm năng để phát triển trong tương lai. Nhà hoạt động dân chủ Hong Kong Joshua Wong từng chia sẻ với tạp chí Time, “bất cứ ai tin vào giá trị dân chủ, tự do, và chống lại sự đàn áp của độc tài, đều có thể tự công nhận mình là một phần của Liên minh Trà sữa”. Trên thực tế, Liên minh Trà sữa là một liên minh đấu tranh diễn ra chủ yếu trên mạng xã hội. Do đó, người Việt Nam, dù ở bất cứ đâu trên thế giới cũng có thể góp phần lan tỏa sứ mệnh của phong trào này. Nhất là khi trà sữa cũng là món uống được yêu thích tại Việt Nam. Có hai cách cơ bản để tham gia: Chia sẻ thông tin về phong trào đấu tranh dân chủ tại các quốc gia trong khu vực, đồng thời kèm theo hashtag #MilkTeaAlliance dưới mỗi bài viết. Chuyển ngữ cuốn cẩm nang “The HK19 Manual” sang tiếng Việt. Những kiến thức căn bản được đúc kết trong cuốn cẩm nang nhỏ này có thể được áp dụng tại bất cứ phong trào biểu tình nào trên thế giới./. Tham khảo và tổng hợp: ‘We Share the Ideals of Democracy.’ How the Milk Tea Alliance Is Brewing Solidarity Among Activists in Asia and Beyond, TIME Hong Kongers crowdsourced a protest manual—and Myanmar’s already using it, Quartz Myanmar’s Protest Movement Finds Friends in the Milk Tea Alliance, The Diplomat ‘Milk Tea Alliance’ blends Asian discontents – but how strong is the brew?, France24  
......

Mỹ thiết lập sức mạnh cho đồng USD và chiến lược lật đổ USD của Tàu

Đỗ Ngà| Để đưa đồng đô la Mỹ trở thành đồng tiền mạnh nhất thế giới như hiện nay thì nước Mỹ đã thực hiện 3 chiến lược quan trọng, rất có tính toán. Những chiến lược đó như sau: Chiến lược thứ nhất là năm 1944, Mỹ tập hợp các nền kinh tế lớn gồm Mỹ , Canada , Tây Âu, Úc , và Nhật gặp nhau tại khách sạn Mount Washington ở Bretton Woods, bang New Hampshire, Hoa Kỳ để tham dự Hội nghị Tài chính và Tiền tệ Liên hợp quốc. Lúc đó, các quốc gia này đã ký với nhau một thỏa thuận được gọi là hiệp định Bretton Woods. Trong hiệp định này có quy định 2 điều vô cùng quan trọng đối với đồng đô la Mỹ: Thứ nhất là quy định đô la Mỹ là đồng tiền duy nhất được đổi lấy vàng đối với chính phủ nước ngoài, với các đồng tiền còn lại sẽ cố định biên tỷ giá với đô la Mỹ; Thứ nhì là việc phát hành đồng đô la phải có bảo chứng bằng vàng trong kho dự trữ, nghĩa là Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ – FED muốn in tiền thì phải mua vàng cất vào kho để bảo chứng cho giá trị đồng USD luôn đúng với tỷ giá 35 USD/ounce. Chế độ này người ta gọi là chế độ Bản Vị Vàng (Gold Standard). Như vậy hiệp định Bretton Woods đã đưa đồng USD lên vai trò thống trị trên thế giới, và nó cũng trở thành đồng tiền chính để các quốc gia khác dự trữ ngoại tệ phòng rủi ro. Từ đó nhu cầu đô la trên toàn thế giới tăng lên vì nhu cầu dự trữ ngoại tệ các quốc gia luôn tăng theo GDP. Tuy nhiên chế độ Bản Vị Vàng cũng đã làm chính phủ Hoa Kỳ và Cục Dự Trữ Liên Bang – FED như bị trói chân. Vì sao? Vì khi gặp khủng hoảng, FED rất khó in tiền bung ra kích cầu nền kinh tế nên việc ra chính sách tiền tệ kìm hãm đà khủng hoảng không hiệu quả. Nếu muốn in bao nhiêu tiền, FED phải mua bấy nhiêu vàng tống vào kho dự trữ theo đúng tỷ giá 35 USD/ounce. Chính vì vậy mà từ năm 1968 chính quyền Nixon đã ngấm đòn vì sự ràng buộc phi lý đó. Đến năm 1971, tổng thống Nixon chính thức bãi bỏ chế độ Bản Vị Vàng, như vậy xem như hệ thống Bretton Woods sụp đổ. Tuy hệ thống Bretton Woods sụp đổ nhưng vị thế của đồng USD đã thiết lập, USD trở thành đồng tiền được sử dụng phổ biến nhất thế giới. Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ, chính quyền Mỹ biết rằng, họ cần lập nên hệ thống mới thay thế hệ thống Bretton Woods trước đó để nâng thêm sức mạnh cho đồng USD hay chí ít là giữ nguyên sức mạnh hiện có cho đồng tiền này. Vì thế, năm 1974, Tổng thống Richard Nixon đã giao cho Bộ trưởng Ngân khố William Simon đàm phán và ký thỏa thuận với Ả rập Saudi là nước chỉ nhận thanh toán tiền mua dầu của các quốc gia khác bằng đồng USD, đổi lại quốc gia này được hải quân Mỹ đóng ở vịnh Aden bảo vệ. Thỏa thuận này cũng giúp kho dự trữ ngoại tệ của Ả rập Saudi có nhiều USD để phòng rủi ro cho nền kinh tế. Người ta gọi thỏa thuận này gọi là hệ thống Petrodollar hay Tiêu Chuẩn Dầu. Từ đó, đồng USD trở thành đồng tiền huyết mạch lưu thông song hành cùng với sự buôn bán dầu mỏ của quốc gia có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới này. Mà đã lưu thông song hành cùng dầu mỏ thì hầu như không quốc gia nào mà không giao dịch đồng USD, chỉ điều là giao dịch ít hay nhiều mà thôi. Đó là chiến lược thứ nhì của Mỹ thay thế sự hết thời của hệ thống Bretton Woods nâng sức mạnh cho đồng USD. Để củng cố thêm sức mạnh cho đồng USD, Mỹ đã đưa ra chiến lược thứ ba. Đó là vào năm 1970, Mỹ cho thành lập Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn cầu -SWIFT (The Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication). Mục đích là giúp cho nhu cầu lưu thông ngoại tệ (mà chủ yếu là đồng USD) thông suốt trên toàn thế giới. Hiện nay tổ chức này có 11.000 ngân hàng thành viên trải rộng trên 200 quốc gia trên khắp thế giới. Ngân hàng nào muốn tham gia giao dịch ngoại tệ quốc tế thì phải đăng ký thành viên hội này và mỗi ngân hàng nhận một mã riêng để tham gia hệ thống chuyển khoản liên ngân hàng quốc tế, người ta gọi là mã SWIFT hay mã BICS. Để dễ hiểu thì có thể ví SWIFT như là hệ thống xa lộ, còn các ngân hàng thành viên là những trạm nghỉ chân trên xa lộ ấy, và ngoại tệ (chủ yếu là USD) là xe cộ lưu thông. Hệ thống này trong tay Mỹ nên một khi Mỹ muốn cấm vận quốc gia nào thì họ cho chặn đường dẫn ngoại tệ đến quốc gia đó thì lập tức quốc gia đó sẽ bị cô lập hoàn toàn với hệ thống giao dịch quốc tế và vì thế chặn đứng ngành ngoại thương của quốc gia đó. Ngoài hệ thống SWIFT, Mỹ còn nắm trong tay Hệ Thống Thanh Toán Bù Trừ Liên Ngân Hàng Quốc Tế– CHIPS (Clearing House Interbank Payment System). Cả SWIFT và CHIPS là 2 hệ thống xa lộ chính, những hệ thống khác chỉ là những con đường mòn, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong giao dịch quốc tế. Đồng tiền nào muốn lật đổ đồng USD, thì phải lật đổ 2 hệ thống xa lộ vĩ đại này trước đã. Chuyện này khó còn hơn lên trời hái sao. Như đã nói ở bài “Vì sao đồng đô la vẫn mạnh bất chấp việc Mỹ bung 5000 tỷ?” thì để lật đổ đồng USD, Tập Cận Bình đã lôi kéo Nga và một số nước khác lập Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á châu – AIIB, với số vốn ban đầu là 100 tỷ đô la để tạo sân chơi cho đồng Yuan Tàu. Ý họ là muốn AIIB sẽ lật đổ “hệ thống xa lộ” SWIFT và CHIPS của Mỹ nhưng họ đã thất bại. Tuy nhiên, Tập không phải là vừa, ông ta đang cho Ngân Hàng Trung Ương Tàu (Bank of China) thử nghiệm đồng tiền điện tử. Mục đích là họ muốn đi trước Mỹ nhằm chiếm lĩnh thị trường giao dịch tiền điện tử như Mỹ đã thực hiện 3 chiến lược lớn để đưa USD thành đồng tiền có sức mạnh toàn cầu như hiện nay. Nói chung Tàu rất tham vọng. Ngày 19/3, tờ Nikkei Asian cho biết, Ngân Hàng Trung Ương Tàu (Bank of China) đang bắt đầu thử nghiệm giao dịch đồng tiện tử của họ, mục đích là để mồi cho đồng tiền này được lan tỏa và trở nên phổ biến. Được biết, đồng Yuan điện tử đang trong giai đoạn thử nghiệm tựa như đồng Picoin mà người Việt Nam đang tham gia. Thực chất là họ đang gầy dựng thói quen tiêu dùng bằng tiền điện tử cho người dân Tàu. Sau khi bước đầu đã thành công, hệ thống ngân hàng thương mại của Tàu sẽ vào cuộc và điều khiển sự lưu thông đồng tiền này. Nói chung là rất triển vọng. Cho tới bây giờ, đồng Bitcoin hay các đồng tiền điện tử khác nó đang được giao dịch giống như là cổ phiếu của thị trường chứng khoán hơn là đồng tiền thật sự. Vì sao? Vì giá trị của nó trồi sụt thất thường theo tin đồn và nhu cầu chứ nó không được bảo chứng bởi thứ hàng hóa nào cả. Chính vì điều đó, ai buôn bán Bitcoin thì chấp nhận rủi ro như cổ phiếu. Yếu tố không ổn định này chắc chắn đồng Bitcoin không bao giờ thay thế được đồng USD trên thị trường ngoại hối, trên thị trường tiền tệ, và trên thị trường hàng hóa. Không tập đoàn tỷ đô nào dám nhận Bitcoin khi bán lượng hàng hóa hàng tỷ đô cả. Đồng tiền mà giá trị của nó không được bảo chứng, nếu họ nhận, ngày mai nó rớt giá 30% hay 50% thì công sức lao động, lợi nhuận công ty, tài sản công ty đi tong chỉ vì dùng Bitcoin sao? Sẽ không bao giờ có chuyện Bitcoin thay thế USD để điều khiển sự lưu thông hàng hóa quốc tế được. Vì lý do đó, nếu đồng Yuan ra đời thì các đồng Coin kia khó mà có chỗ đứng. Đấy là viễn cảnh mà có lẽ Bank of China ắt nhận ra. Hiện nay tổng giá trị của Bitcoin là 1.000 tỷ USD, nghe như lớn, nhưng nếu đồng Yuan điện tử Tàu thay thế đồng tiền giấy của họ thì lúc đó tổng giá trị đồng Yuan điện tử giao dịch là 14.000 tỷ USD (bằng GDP Tàu), trong khi đó nó ổn định hơn Bitcoin vì giá trị của nó được bảo chứng bởi tổng giá trị hàng hóa nước Tàu làm ra thì nó đủ sức đè bẹp Bitcoin hay đồng tiền điện tử khác. Đấy là viễn cảnh đồng tiền Yuan điện tử, ra trước rất là lợi thế. Hiện nay chưa thấy FED động tĩnh gì về vấn đề này, nhưng có lẽ FED không thể ngó lơ được. Người Mỹ thường không ồn ào, nhưng về đích trước tiên như Vaccine vậy, Putin tuyên bố thật sớm nhưng Mỹ lại có trước và họ lại sẽ là nước đầu tiên dập tắt hoàn toàn Covid. Và trong vấn đề đồng tiền điện tử cũng vậy, nếu Tàu có thành công về ý đồ đưa đồng Yuan điện tử thành đồng tiền giao dịch chính thì họ cũng khó mà soán ngôi đồng USD được. Bởi dù cho đồng tiền điện tử, nó cũng phải chạy trên “hệ thống xa lộ có sẵn” mà Mỹ đã tạo ra. Việc lật đổ đồng USD không dễ chút nào. Nếu đồng Yuan điện tử và đồng USD điện tử mà ra đời thì những đồng tiền kỹ thuật số hiện nay cũng đến hồi cáo chung thôi. Tuy nhiên đấy chỉ là phán đoán, thực tế thì vẫn phải chờ xem?! -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://asia.nikkei.com/…/China-s-digital-yuan…  
......

Bẫy nợ TQ và mất khả năng kiểm soát chủ quyền

Phạm Minh Vũ Năm ngoái, trên Nikkei, ông Brahma Chellaney, giáo sư nghiên cứu chiến lược tại Trung tâm nghiên cứu chính sách Ấn Độ, có bài phân tích, nhận định về chính sách “bẫy nợ” của Trung Quốc. Theo Brahma Chellaney, chính sách ngoại giao Trung Quốc đang áp dụng với nhiều nước dưới “mác” sáng kiến “Vành đai, Con đường” hàm chứa mưu đồ, tham vọng bành trướng của Bắc Kinh.   Trung quốc đã dùng chính sách ‘’bẫy nợ’’ tương đối thành công, đã đẩy nhiều quốc gia đến tình trạng có nguy cơ mất khả năng chi trả, phải dùng chủ quyền để đem ra thương thảo.   Cách đây hơn 3 năm, Sri Lanka ký hợp đồng cho Trung Quốc thuê cảng Hambantota - nơi có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Ấn Độ Dương, và hơn 6.000 ha đất xung quanh cảng biển này trong vòng 198 năm. Ngoại trưởng Sri Lanka nói Trung Quốc có thể gia hạn thuê cảng Hambantota đến 198 năm, gọi đây là "sai lầm" của chính quyền tiền nhiệm.   "Chính quyền tiền nhiệm đã phạm sai lầm khi hủy thỏa thuận cảng Hambantota, cho phép Trung Quốc thuê tới 99 năm và gia hạn thêm 99 năm nữa khi giai đoạn đầu tiên kết thúc", Ngoại trưởng Sri Lanka Dinesh Gunawardena cho biết hồi đầu tháng 2 năm 2021. Còn Pakistan đã trao cho Trung Quốc độc quyền quản lý, miễn thuế điều hành cảng Gwadar trong 40 năm. Bắc Kinh dự kiến sẽ bỏ túi 91% doanh thu từ cảng biển này. Bên cạnh đó, Trung Quốc lên kế hoạch xây dựng, biến Gwadar trở thành cảng biển đóng vai trò chiến lược, tiền đồn cho hải quân của nước này như Djibouti - quốc gia có cảng biển quan trọng ở châu Phi, đang dính vào ‘bẫy nợ” của Trung Quốc.   Tương tự Sri Lanka và Pakistan, Tajikistan có nhiều khoản vay Trung Quốc từ năm 2006. Do đó, nước này phải nhượng 1.158 km2 vùng núi Pamir cho chủ nợ và cấp cho các công ty Trung Quốc quyền khai thác vàng, bạc, quặng, khoáng sản. Gần đây, Tajikistan đã bắt đầu “ngấm đòn”, đề đạt các yêu cầu giảm nợ đến Bắc Kinh.   Hoặc là ngay sát VN, Campuchia đang phải khốn khổ vì các ‘’đặc khu’’ của TQ mọc lên. Dara Sakor, khu đầu tư trị giá 3,8 tỷ USD được Trung Quốc hậu thuẫn chiếm 20% đường bờ biển của Campuchia. Thuộc sở hữu của 1 công ty Trung Quốc có hợp đồng thuê đất 99 năm.   Lào là nạn nhân mới nhất của chính sách đối ngoại chứa đầy tham vọng bành trướng của Trung Quốc. Viêng Chăn đang phải vật lộn để trả các khoản vay từ Bắc Kinh, bao gồm cả việc phải “ngậm ngùi” giao cho Trung Quốc quyền kiểm soát phần lớn hệ thống lưới điện quốc gia. Điều này xảy ra khi khoản nợ của công ty điện lực của Lào đã lên tới 26% tổng sản phẩm quốc nội.   Và còn hàng loạt quốc gia khác phải ngậm bồ hòn khi TQ ngay từ đầu mời chào cho vay, nhưng khi những quốc gia dính sâu vào nợ nần đã tính đến chuyện gán nợ bằng chủ quyền. Trung Quốc có kinh nghiệm trong việc khai thác lỗ hổng của các quốc gia nhỏ - có vị trí chiến lược, và có nhu cầu vay lớn. Maldives là ví dụ điển hình, tại đây, Bắc Kinh đang từng bước biến các khoản tín dụng lớn thành ảnh hưởng chính trị, trong đó có cả việc mua lại một vài hòn đảo nhỏ ở quần đảo Ấn Độ Dương với giá rẻ.   Tựu chung, Trung quốc dùng tiền để bẫy những quốc gia mà lãnh đạo chỉ biết ‘’còn đảng còn mình’’, khi lãnh đạo không vì tương lai của nước và con cháu sau này, họ chỉ biết nhắm mắt mà nhận tiền để cho TQ muốn làm gì thì làm. Bẫy nợ TQ giăng ra theo những con đường như đầu tư vào đặc khu kinh tế, khu công nghiệp đến dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn như đường sắt trên cao hay cao tốc. Bắc Kinh trở thành nhà đầu tư và cho vay lớn nhất. Một khi dự án nào được triển khai, thì chủ quyền quốc gia đó coi như bị xâu xé. Những ví dụ trên là minh chứng.   Tại Việt Nam, chúng ta có thể thấy những điều tương tự như trên mà các quốc gia gặp phải, VN là con nợ của TQ. TQ là nhà đầu tư vào VN cho tới thời điểm này là lớn nhất theo thống kê doanh nghiệp nước ngoài, và theo báo cáo của Bộ quốc phòng năm 2020 gửi Quốc hội rằng TQ đang nắm quyền sử dụng hơn 162.000ha đất biên giới, ven biển thông qua hai hình thức thành lập doanh nghiệp liên doanh và đầu tư tiền cho người Việt gốc Hoa mua đất.   Chưa kể một hình thức khác là TQ trúng thầu các dự án trọng điểm của quốc gia, và TQ là chủ cho vay kèm theo điều kiện phải là nhà thầu. Vì thế, Cát Linh-Hà Đông (CL-HĐ) là một ví dụ điển hình, CL-HĐ bây giờ không chỉ là khúc xương chặn họng của chế độ mà là nỗi nhục của quốc gia, khi mời nhà thầu TQ xây 13km mà hơn 10 năm chưa xong và đội vốn lên 80%. Nhân dân phải còng lưng đóng thuế để trả số nợ uất ức này. Theo Báo cáo Quy hoạch mạng lưới đường sắt 2021 - 2030 tầm nhìn 2050 mới đây, dự kiến, đường sắt tốc độ cao TP.HCM - Nha Trang (Khánh Hòa) và Hà Nội - Vinh (Nghệ An) sẽ hoàn thành vào 2030 và con số chi phí lên tới 20 tỷ đô la. Đây là điều hoang tưởng mà quan chức Bộ GTVT vẽ ra về tiền và tiến độ.   Nếu dự án này thông qua, chắc chắn TQ sẽ là trúng thầu, nó không khác gì là CLHĐ thứ 2 vì 2 lý do sau:   Một là, kinh tế VN không đủ đáp ứng triển khai dự án với dự toán hơn 25%GDP này. Và quan chức VN chỉ biết vẽ dự án, và mong có dự án, không cần biết dự án đó có hoàn thành hay không, chỉ có lại quả và mong nó đội vốn để có lại quả nhiều hơn. Không thể vay Nhật, Đức vì những quốc gia đó sẽ không lại quả.   Hai là, TQ là quốc gia sẵn sàng lại quả 30% nếu dự án nào được TQ trúng thầu, TQ sẽ cho VN vay như cái cách cho CLHĐ vay vậy, vì cái gì không mua được bằng tiền sẽ mua được bằng rất nhiều tiền, và VN càng nợ TQ số tiền lớn thì TQ lại càng có điều kiện bắt ép VN phải nhượng bộ cả về chủ quyền. TQ và VN có kinh nghiệm trong những phi vụ như thế này.   CLHĐ là một ví dụ, CLHĐ đội vốn hơn 80%, hơn 10 năm chưa xong, vậy thì số tiền dự án toàn đường sắt Bắc Nam sẽ là bao nhiêu? Và xây trong bao lâu?   Khi dự án này triển khai, VN dính tới nợ mà không có khả năng chi trả, tương lai VN sẽ như thế nào, tôi không dám nghĩ tới!!!!   Nếu phải lựa chọn, Việt Nam sẽ cho TQ thuê đất là bao lâu? 99 năm hay 198 năm? Mà một năm thì cũng coi như mất trắng rồi.  
......

Hậu Coronavirus & Tập Cận Bình

Tưởng Năng Tiến   Bữa mừng sinh nhật bác Hồ, Cậu Bẩy nổi hứng đọc mấy câu vè (nghe) không thanh tao lắm :   Nếu ngày ấy, Paris trời trở lạnh Cục gạch hồng không đủ ấm qua đêm Bác chết cóng trên mình cô đầm nái Thì ngày nay tổ quốc đã êm đềm   Vì không có khả năng sáng tác những câu thơ huê dạng (Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác hay Bác về … im lặng/ Con chim hót/ Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ) và cũng chả làm được mấy câu vè bỗ bã nên tôi chỉ giản dị nghĩ rằng: Người đi đâu cũng đặng, về lúc nào cũng xong, miễn là “cái tôi” của Bác nhỏ lại tí xíu – xíu nữa thôi – thì đỡ cho trăm dân muôn họ biết chừng nào!   Hai ông Chế Lan Viên và Tố Hữu đỡ phải mang tiếng là những kẻ xu thời, ton hót. Cậu Bẩy cũng đỡ phải thốt lời cay đắng, mỉa mai. Cây rừng thì đỡ bị đốn chặt, để làm giấy in hằng trăm ngàn cuốn sách mà Bác tự viết về mình nhưng (làm bộ) ghi tên ai khác cho nó đỡ kỳ. Và bá tánh thì khỏi lâm vào cảnh chiến tranh (đến đôi ba bận) vì buộc phải đi theo “con đường mà Đảng và Bác kính yêu đã chọn.”   Ở bình diện quốc tế, international level, cũng thế. Phần lớn những cuộc binh đao trong lịch sử đều do những “cái ngã” quá lớn mà ra cả. Pascal tin rằng: “Nếu cái mũi của Cléopâtre ngắn đi một tí, bộ mặt của cả địa cầu đã khác – Si le nez de Cléopâtre eût été plus court, toute la face du monde aurait changé.   Tôi sinh sau đẻ muộn, không biết mặt ngang/mũi dọc của bà nữ hoàng Ai Cập ra sao nên không tiện lạm bàn, chỉ có thể đoan chắc nếu “cái moi” của Hitler nhỏ hơn tí nữa thì nhân loại (dám) đã tránh được một trận tương tàn khốc liệt.   Thế Chiến Thứ Hai để lại một thế giới tan hoang và vài chục triệu xác người vương vãi khắp nơi. Sau đó, cũng vì cuồng vọng của nhiều Người Cầm Lái Vỹ Đại (Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành … ) nên lại có thêm hằng trăm triệu sinh linh bị giết hại, thủ tiêu, hành hình … bằng muôn vàn phương cách.   Lịch sử không có cái vụ “nếu!” Tuy biết vậy nhưng mấy bữa nhớ bằng hữu quá (rủ rê tụi nó gầy bàn nhậu nhưng thằng nào cũng lắc đầu quầy)quậy vì sợ coronavirus) nên tôi vẫn lẩn thẩn nghĩ rằng nếu cái ngã của Tập Cận Bình nhỏ bớt được tí nữa thì mình đã không mất gần cả năm đàm đúm vui chơi với bạn bè.   Nỗi mất mát này, tất nhiên, không có gì đáng kể, nếu so với con số hơn nửa triệu người mất mạng chỉ trong vài tháng vừa qua – theo tường thuật của T.S Nguyễn Tường Bách : “Nhà thiêu xác quá tải, những hộp tro vung vãi tại Trung Quốc, những nấm mồ tập thể tại Mỹ, cảnh tử thi nằm trên đường phố cả tuần tại Nam Mỹ không ai thu dọn. Tất cả đều là những cảnh tượng của thế kỷ XXI, những điều mà trước đó vài ba tuần không ai có thể hình dung được. . . Rất nhiều cơ sở phá sản, cả trăm triệu người lâm vào cảnh thất nghiệp và rơi vào bế tắc tài chánh. Rõ ràng nhất là, cấu trúc kinh tế của thế giới trong những năm qua sẽ bị thay đổi một cách triệt để…   Hiện nay, tuyệt đối không ai có thể nói, bộ mặt của thế giới cuối năm 2020 sẽ như thế nào, về trật tự chính trị, về cấu trúc kinh tế, về đời sống xã hội. Tất cả những khía cạnh này hiện đang tác động hỗ tương lên nhau và cuối cùng, ảnh hưởng lên quyết định của lãnh đạo các siêu cường, những người có thẩm quyền sinh sát toàn nhân loại.”   Với ít nhiều lạc quan, và chủ quan, tôi tin rằng dịch Vũ Hán rồi sẽ qua trong tương lai gần. Quả đất vẫn cứ quay đấy thôi. Kinh tế rồi sẽ hồi phục dần dần. Nhân loại lại tiếp tục sinh hoạt y như cũ, với ý thức vệ sinh (và cộng sinh) lành mạnh hơn xưa. Quan hệ toàn cầu sẽ trở lại bình thường, trừ mỗi cái nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc (People’s Republic of China) thì tôi … không hoàn toàn bảo đảm.   Tôi (dám) có chút máu Tầu nên chả hà cớ chi mà lại đi kỳ thị gần một phần năm dân số toàn cầu. Vấn đề là cái tôi của những vị lãnh đạo ở xứ sở này quá lớn, nhất là ông Tập Cận Bình – Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương – người đã đẩy cả nước đi trật đường rầy quá xa (tới mấp mé hố thẳm luôn) nên hiện tình Trung Hoa – xem ra – không còn thuốc chữa. Phen này (e) sẽ lôi thôi lớn, lôi thôi lâu, và lôi thôi lắm!   Gordan Chang (The National Interest) bầy tỏ nỗi quan ngại: “Kinh tế Trung Hoa gặp rắc rối to. China's economy is in deep trouble.”   Mà nào có riêng chi kinh tế. Ngoại giao còn tệ hại hơn nhiều. Cách ứng xử của họ Tập, sau khi cúm Tầu lan tràn khắp chốn, đã giúp cho thiên hạ nhìn ra cái bộ mặt vẫn thường được che dấu của vị Tân Hoàng Đế Trung Hoa: hợm hĩnh, trơ trẽn, tráo trở, ti tiện, tham lam, xảo quyệt và gian ác! Kỳ vọng của nhân loại về một nước Trung Hoa sẽ “dân chủ” và “dễ thở” hơn khi kinh tế được cải thiện, rõ ràng, đã trở thành ảo vọng.   Le Monde kết luận: “Kể từ thời Mao Trạch Đông rồi Đặng Tiểu Bình đến nay, chưa bao giờ giữa Trung Quốc và phương Tây lại có khoảng cách xa vời vợi đến thế.” Nói chi đến phương Tây.   Đến nay thì ngay cả mấy tay lãnh đạo thuộc loại đầu trâu mặt ngựa ở Trung Đông và Phi Châu cũng phải “chạy mặt” luôn rồi. Chả còn thằng nào muốn dây dưa với cái đám con Trời này nữa.   Cả quyền lực cứng lẫn quyền lực mềm của Trung Hoa, sau đại hoạ Vũ Hán, đều cùng đi trên một chuyến tầu – tầu suốt. Cái gọi là Tư Tưởng Tập Cận Bình, Trật Tự Trung Hoa, Giấc Mơ Trung Quốc, Giấc Mộng Siêu Cường, Sáng Kiến Vòng Đai & Con Đường, Dự Án Của Thế Kỷ … – thoáng chốc – đều thành công cốc chỉ vì cuồng vọng và cái “tôi” quá khổ của Tập Cận Bình.   Coi: nếu cứ để từ từ với thời gian thì Hồng Kông làm sao mà “tuột” đi đâu được. Vì háo thắng họ Tập đã biến hòn ngọc này thành một mảnh xương gà, tuy nhỏ tí thôi nhưng cứng ngắc và nhọn hoắt, rất khó nuốt xuôi.   Cũng do xuẩn động, đương sự đã khiến cho giấc mộng Một Trung Hoa (One-China Policy) mỗi lúc một thêm xa lắc. Tấm gương Hương Cảng khiến cho người dân Đài Loan đề cao cảnh giác, biến đảo quốc này thành một pháo đài – một cục gân mà hàm răng già nua của Trung Hoa Lục Địa e không còn đủ sức để nhai.   Tham vọng bá quyền, bất chấp công luận của Trung Cộng ở Tân Cương/ Tây Tạng/ Biển Đông (cùng với những cái bẫy nợ giăng mắc khắp nơi, và thái độ trơ tráo của TCB sau khi xuất cảng Coronavirus) đã khiến cho vị Tân Hoàng Đế Trung Hoa bị coi như một tên côn đồ vô liêm sỷ, bị khinh bỉ và xa lánh!   Hitler còn có đám quân phiệt Nhật Bản hùng hổ đứng bên, chứ hiện nay thì Tập Cận Bình chỉ có … mình ên. Trước thái độ sẵn sàng nghênh chiến của India,   Hoàn Cầu Thời Báo (đọc được vào hôm 7 tháng 6 năm 2020) lên tiếng cảnh giác: “Ấn Độ chớ có ảo tưởng về sự hỗ trợ vững chắc của Hoa Kỳ và Đồng Minh (The US and its allies have established various contact mechanisms with India, making India falsely believe that it is well - supported.)   Nói vậy là Trung Hoa Lục Địa đã gián tiếp thừa nhận rằng mình đang cô thế, dáo dác nhìn quanh cũng chỉ thấy hai chú đàn em nhỏ xíu xiu thôi: Bắc Hàn và Cambodia. Dân số cả hai đều chả có bao nhiêu mà lại đói rách thường trực và đói rách kinh niên. Nếu ngưng viện trợ là hai thằng sẽ chết không kịp ngáp.   Hitler tin rằng Đệ Tam Quốc Xã sẽ kéo dài cả ngàn năm. Nó tồn tại được hơn chục năm (Hitler believed that the Third Reich would endure a thousand years. It lasted a dozen - Sir Alan Bullock). Đế Quốc của Tập Cận Bình, xem chừng, cũng không khác mấy!  
......

Đòi chứng nhận xuất gia làm căn cước là một điều luật vi phạm nhân quyền trầm trọng

Nguyên Anh| Thông tin trong nước cho biết Bộ Công An csVN đã đưa ra quy định mới về cái được gọi là “Căn Cước Công Dân”, theo đó trong mục thành phần tôn giáo, ai theo đạo nào cũng phải có giấy chứng nhận tôn giáo của mình mới được ghi vào căn cước, về đạo Phật thì phải có “giấy chứng nhận xuất gia” của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cấp – cần phải nhấn mạnh một chút về chỗ này, đây chính là một tôn giáo của đảng cs, cái giáo hội này hoàn toàn hoạt động theo sự chỉ đạo của nhà cầm quyền. Còn riêng về đạo Chúa, có lẽ cũng sẽ phải có giấy chứng nhận đã tu học của chủng viện, còn đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Cao Đài, Đạo Hồi chắc cũng không nằm ngoài công thức của những thiên tài loài khỉ nghĩ ra! Trong bài này tôi chỉ viết riêng về đạo Phật, một tôn giáo lớn tại Việt Nam với hàng triệu tín đồ tin theo, và khi họ đi làm căn cước công dân sẽ bị ghi thành phần tôn giáo là Không, bởi vì họ không có được tờ giấy chứng nhận xuất gia theo yêu cầu của Bộ Công An. Đây là một sự nhầm lẫn của những kẻ ngu si cầm quyền bởi vì hai từ “Xuất Gia” chỉ những người từ bỏ cuộc sống đời thường để chuyên chú tu hành, họ là các sư sãi, tăng ni, thượng tọa, đại đức trong chùa, tất nhiên họ sẽ có giấy chứng nhận xuất gia, còn với hàng chục triệu tín đồ thì họ không có tờ giấy chứng nhận xuất gia, họ tin theo tín ngưỡng của mình và con số Phật Tử này có giấy quy y Tam Bảo (do nhà chùa chứng nhận) hay không thì họ vẫn là những người sống theo niềm tin tâm linh của mình, đó là một niềm tin phi vật thể do đó có giấy chứng nhận quy y hay không sẽ không phải là vấn đề quan trọng, họ chỉ có niềm tin với các vị giáo chủ của mình mà thôi, ngoài ra con số Phật Tử đông đảo này chính là nguồn nuôi dưỡng, chu cấp lương thực, tài chính cho Đạo Phật tại Việt Nam. Nói về ‘căn cước công dân’ có gắn chip của Bộ Công An csVN đang tiến hành thì thật không vui khi phải nói rằng phương tiện văn minh là để phục vụ con người văn minh, chính phủ văn minh, còn tại Việt Nam chương trình cấp căn cước công dân có gắn chip điện tử chỉ để nhà cầm quyền quản lý con người chặt chẽ hơn, với bộ máy Tư Pháp và các điều luật toàn trị như Luật An Ninh Mạng, nghị định, các loại tội danh trong Bộ Luật Rừng xã nghĩa ép buộc các công dân phải công khai danh tánh khi sử dụng các phương tiện thông tin như điện thoại, Facebook, Youtube…; thì cái căn cước công dân chính là mã số dành cho các con cừu trong trang trại súc vật mang tên nước CHXHCN Việt Nam nhằm theo dõi, bắt giữ bất kỳ kẻ nào nói xấu (dù họ nói thật), phản động, tuyên truyền chống đối lại đảng csVN mà thôi! (theo tư duy của đảng). – Ra đời một điều luật mới đảng csVN có thêm cơ hội làm tiền người dân với một tờ căn cước theo dõi có giá mấy chục ngàn. – Thêm vào đó khi đòi hỏi phải có “giấy chứng nhận xuất gia” thì mới được ghi thành phần Tôn Giáo lại tạo thêm cơ hội cho cái Hội Phật Giáo Quốc Doanh có thêm một khoản thu béo bở trên đầu một dân tộc đang lầm than khổ sở. Ngoài ra sự xuẩn ngốc của Bộ Công An csVN còn thể hiện trong tính độc quyền cung cấp căn cước của mình bởi vì có rất nhiều người cải đạo, sau một thời gian có đạo họ thấy ở tôn giáo khác có điểm phù hợp với mình thì họ theo đạo mới, khi đó cái tờ căn cước ghi nguồn gốc đạo cũ của họ không còn thích hợp, làm cho chủ nhân khó chịu, thế thì họ lại phải tốn thêm một lần tiền nữa để đổi mới tờ căn cước có đạo mình theo hiện tại, đó chính là sự lãng phí thời gian, tiền bạc của người dân một cách trực tiếp và gây ra nhiều phiền hà cho người sở hữu. Không có giấy chứng nhận “Xuất Gia” theo yêu cầu thì sẽ bị ghi vào mục thành phần Tôn Giáo: Không, chính là sự vi phạm nhân quyền trầm trọng thể hiện tính độc tài của đảng, và họ đang dẫn dắt toàn dân bắt buộc phải tuân theo những hành động vô lý của họ, ngoài ra cái tờ căn cước công dân này cũng vi phạm nghiêm trọng về quyền tự do tín ngưỡng của toàn dân khi bắ buộc họ phải cung cấp thông tin, xuất trình giấy tờ chứng nhận. Nếu chương trình nãy vấn cứ tiếp tục tiến hành mà không vấp phải sự phản ứng nào thì Bộ Công An đã biến hàng chục triệu người đang có đạo trở thành “Vô Thần” như đường lối cs của hcm và đảng đã và noi theo từ khi thành lập cho đến hiện nay. Đây không phải là sự đổi mới tư duy mà chính là sự đi thụt lùi lại với nền văn minh của loài người. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến cái tòa nhà Quốc Hội nước CHXHCNVN, nơi có hơn 500 ông, bà nghị gật đang hăng say phát biểu ‘theo chủ trương, và chỉ đạo của đang’ và tôi tự hỏi mình rằng họ đang làm gì mà không thấy một điều luật gây nhiều phiền toái, bất cập vi phạm quyền công dân đang làm phiền nhiễu cuộc sống của mọi người? Có lẽ họ chỉ là con rối chỉ biết ngồi gật gù ăn lương cao bổng hậu cũng nên? Hay người ta bảo họ chính là loại nghị gật chắc cũng không sai! Căn cước công dân có hiện đại văn minh đến đâu cũng chỉ để phục vụ con người, đó không phải là một công cụ theo dõi, rình mò và khống chế con người. Căn cước công dân không cần thiết phải có mục “thành phần tôn giáo’ vì đó là sự vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của người dân. Một lần nữa nhà cầm quyền Hà Nội lại cho thấy hai chữ “Tự Do” mà họ trang trọng đề trên hàng thứ nhì của mọi loại giấy tờ trong nước đã cho toàn thế giới thấy được thế nào là sự Tự Do bị bưng bít, tô hồng của một quốc gia độc tài, đảng trị./.  
......

Diệt chuột chống mặn

  Phạm Minh Vũ     Hiện tại, Đồng Bằng Sông Cửu Long đang bước vào thời điểm xâm nhập mặn, tốc độ và diện tích ngày càng nhanh mở rộng hơn. Vì nhiều lý do, trong đó chính phủ bỏ lơ việc xây đê bọc ĐBSCL, tạo một dòng kênh để giảm sự khuếch tán mặn. Và nguyên nhân góp phần mặn xâm nhập do thiếu nước bởi Mê-Kông bị chặn khi thượng nguồn ngăn đập giữ gần như toàn bộ.   Hiện tại, có địa phương bỏ ra 60.000đ để mua một m3 nước và thời gian tới sẽ tăng lên hơn có thể 200.000/ m3, dân mua về chỉ để ăn mà không dám tắm...   Là vựa lúa quan trọng nhất của VN, nhưng chính phủ lại phó mặc hết vào từng nông dân thiếu về khoa học cũng như kỹ thuật để tự bơi qua đoạn trường bể ải này.   Ông Phúc mới đây kinh lý về ĐBSCL và thao thao bất tuyệt những điều mà đứa trẻ lên 3 có thể nói, 8G hay 9G cũng chỉ là lý thuyết mà không đưa ra một giải pháp cụ thể nào, dù chỉ là một hướng để giải quyết tình trạng xâm nhập mặn gây khốn khổ cho hàng chục triệu dân ở đây.   Không có giải pháp cứu dân, quan chức lại đẻ ra những dự án mà tưởng chừng trong tâm thế như là sự cam kết của sếp hứa với đàn em khi tàn cuộc tiệc nhậu để ra vẻ tưởng là quyền thế lắm, bố thí lắm.   30 tỷ này, có thể mua 350 máy lọc mặn giúp mấy tỉnh Tiền Giang- Bến Tre, Bạc Liêu... có nước sinh hoạt trong mùa hạn này, sao các ông không làm, mà thẳng tay chi tới 30 tỷ để diệt chuột.   Bỏ mặc người dân sống lầm than, nhưng lại ra dự án đầy tính vĩ đại và vinh quang. Dân thì chạy cả chục km đi xách từng can nước về sinh hoạt, còn quan thì ngồi phòng lạnh lại vẽ ra dự án để chứng minh đảng vinh quang!!!   Phải chăng khi học cao cấp lý luận chính trị, nhân tính của quan đã bị triệt tiêu hoàn toàn?  
......

Vì sao “nền kinh tế tư nhân” không chịu lớn

Lợi nhuận thấp nhất trong các thành phần kinh tế nhưng các doanh nghiệp ngoài nhà nước lại đóng góp vào ngân sách nhà nước đạt cao nhất. Ảnh: VnEconomy Phạm Nhật Bình – Việt Tân | Ngay cả sau khi cưỡng chiếm được Miền Nam vào tháng Tư, 1975, có cơ hội tiếp xúc với nền kinh tế thị trường đang vươn lên, quan điểm của những người cộng sản tự nhận là vô sản chuyên chính, kinh tế tư nhân bị đánh giá là thành phần kinh tế độc hại, nơi tập trung tư bản để thực hiện chính sách bóc lột; tư bản tích trữ càng lớn, phạm vi bóc lột càng cao. Đó là một quan điểm sai lầm nên trong suốt 10 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, lãnh đạo cộng sản ở miền Bắc xuống tay triệt hạ những nền tảng căn bản của kinh tế thị trường ở miền Nam và thay thế bằng hình thức kinh tế chỉ huy, nhà nước bao cấp toàn diện trên cả nước. Kinh tế tư nhân bị xoá bỏ tận gốc rễ để nhanh chóng “kinh qua” giai đoạn tư bản, tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa. Kết quả đem lại chỉ là một nền kinh tế èo uột, ngoắc ngoải và một xã hội nghèo đói triền miên. Mãi đến thời gian sau năm 1986 cùng với thời kỳ đổi mới, kinh tế tư nhân dần dần được phục hồi và được công nhận là 1 trong 5 thành phần kinh tế trong đại hội X vào năm 2006. Tuy nhiên sức sống và tiềm năng phát triển của kinh tế tư nhân đến nay vẫn chưa đóng một vai trò nổi bật bên cạnh quốc doanh. Vì sao kinh tế tư nhân “không chịu lớn” cho dù Việt Nam hiện có tới gần 800 ngàn doanh nghiệp tư nhân lớn nhỏ đang hoạt động đủ mọi ngành nghề? Mới đây tại một cuộc hội thảo về “Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam” ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương thừa nhận “doanh nghiệp tư nhân đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo đất nước…” Nhưng đồng thời ông cũng cho rằng “khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự là một động lực quan trọng” của nền kinh tế nước nhà. Để lý giải sự mâu thuẫn ấy, ông Hiếu đã dẫn ra 5 điểm nghẽn khiến cho nền kinh tế tư nhân không chịu lớn. 5 điểm nghẽn đó là: Thứ nhất, về định hướng và quy hoạch. “Công tác xây dựng và quy hoạch của nhà nước còn chưa kịp thời, chưa đầy đủ, làm ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp.” Cạnh đó định hướng chiến lược cho nền kinh tế phần lớn dựa vào nghị quyết của đảng với lời lẽ dao to búa lớn hơn dựa vào khả năng thực tế. Đây là một sự thật đang diễn ra trước mắt mọi người. Thứ hai, về việc “tạo lập khuôn khổ thể chế chưa đạt được tiến bộ mạnh mẽ trong lĩnh vực hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.” Đó là lý do khiến doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa vẫn yếu thế so với doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp FDI. Trong khi thể chế và pháp luật là yếu tố then chốt tạo cạnh tranh công bằng trên thương trường thì điều này vẫn là điểm tối trong chính sách kinh tế nhà nước. Thứ ba là “chưa có sự bình đẳng giữa các thành phần doanh nghiệp tư nhân và quốc doanh trong chính sách phân bổ nguồn lực cũng như cách tiếp cận chính sách hỗ trợ.” Khi hoạt động của các thành phần kinh tế không thể dựa vào một nền tảng pháp luật minh bạch, chính sách hỗ trợ cũng như nguồn lực tập trung trong tay các phù thủy kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân vẫn mãi bơi lội trong cơ chế “xin-cho” để tồn tại qua ngày. Thứ tư trong “công tác kiểm tra giám sát tuy có thay đổi nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu đề ra trong khi có một số thay đổi không thực chất.” Cụ thể nhất, trong thời gian dịch bệnh các doanh nghiệp vẫn bị thanh tra, kiểm tra một năm 2 lần với mục đích tạo cơ hội cho cán bộ thanh tra vòi vĩnh kiếm ăn. Thứ năm là thủ tục hành chánh, vẫn còn nhiều doanh nghiệp phản ảnh bị gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Thật ra đây không phải là những điểm nghẽn được ông Hiếu nêu lên lần đầu. Cứ mỗi lần có hội nghị, hội thảo về vấn đề phát triển kinh tế, nó như những điệp khúc được các chuyên gia nhai đi nhai lại. Để rốt cuộc trở thành Tiếng Kinh Cầu từ đáy vực mà không có phản hồi nào từ phía những người cầm quyền. Trong 5 điểm nghẽn mà ông Hiếu nêu ra, điểm nào cũng là những bế tắc mà suốt trên 35 năm qua chưa có biện pháp tháo gỡ. Hay nếu có chỉ là những cải cách nửa vời, những giải pháp tình thế cho một giai đoạn nhất định nào đó. Nhưng căn bản nhất chính là ở điểm sau cùng, liên quan đến thủ tục hành chánh.Tại sao có sự tắc nghẽn này từ năm này đến năm khác ai cũng biết mà không ai giải quyết. Ngay cả đảng và nhà nước từng nhiều lần hô hào cải cách thể chế, tháo gỡ khó khăn, đơn giản hóa thủ tục kể cả việc “đốt lò” như ông Trọng đang làm mà vẫn không nhúc nhích. Đó là vì đảng tự cho mình cái quyền đứng trên tất cả, để ban phát đặc quyền đặc lợi, khống chế các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp tư nhân trong thủ tục “xin-cho.” Làm sao doanh nghiệp tư nhân có thể hoạt động, kinh doanh suôn sẻ nếu không có thủ tục phong bì làm đầu, không có đút lót, bôi trơn. Nhưng một khi đã là phong bì và đút lót thì phải có sự cạnh tranh để đưa phong bì. Từ đó cán bộ nhà nước biến thành những con cá mập sống phè phỡn trên đồng lương công chức cán bộ bị kêu ca là quá thấp. Do đó, chúng lại càng phải duy trì lâu dài điểm nghẽn thứ năm để siết cổ doanh nghiệp kiếm ăn. Trong 5 thành phần kinh tế được đảng thừa nhận, kinh tế tư nhân đứng hàng thứ 5 nhưng trên thực tế là thực thể kinh tế đóng vai trò quyết định bên cạnh doanh nghiệp FDI. Sau hơn 35 năm đổi mới, kinh tế tư nhân “không chịu lớn” còn vì một lý do ràng buộc quan trọng khác. Đó là sự lo sợ của đảng CSVN, rằng khi kinh tế tư nhân lớn mạnh, nó sẽ tích tụ được một khối lượng tư bản đủ khả năng làm yếu vai trò chuyên chính cộng sản dẫn tới thủ tiêu đấu tranh giai cấp. Đó là điểm nghẽn lớn nhất và điểm nghẽn này chỉ giải quyết được khi bộ máy chuyên chính vô sản lui vào bóng tối. Phạm Nhật Bình  
......

Khi tiền không phải là mục đích sống của họ

Thiếu nữ Myanmar khi bị đánh đập tra tấn giết chết,  vì đòi sống tự do trước chính quyền độc tài. Phạm Minh Vũ       Theo dõi cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ của người Dân Miến Điện, tôi có để ý một số trang page cũng như trang cá nhân ở Miến Điện. Vào giữa lúc cuộc chiến căng thẳng như thế, đôi bên không chịu nhượng bộ ai, số người chết cứ thế mà tăng lên. Một bên là người dân đòi tự do, mong muốn thoát khỏi ách áp bức của quân phiệt, một bên là lực lượng còn đảng còn mình.   Một số tổ chức xã hội dân sự Miến Điện tổ chức những cuộc đi thăm viếng và chia sẻ sự mất mát đến với từng gia đình có người bị sát hại khi xuống đường chống quân phiệt.   Có người gia cảnh giàu có, cũng có người gia cảnh thật éo le, sống trong một căn chòi tồi tàn rách nát, nhưng ý chí và tấm lòng yêu quê hương của họ nhiều vô bờ bến.   Có thể trong số họ có người từng vào đốt nhà máy của TQ, khi vào đốt, chủ doanh nghiệp TQ đã mang hàng bao tải tiền ra cho những người dân ấy van xin đừng đập phá, nhưng người dân Miến Điện lạnh lùng trả lời rằng “chúng tôi cần người TQ cút khỏi đây”. Miến Điện là quốc gia có nền kinh tế kém hơn so với Việt Nam, nhưng những người đòi tự do tuy gia cảnh khó khăn, nhưng đối diện với hàng bao tải tiền mà họ khước từ, làm tôi cảm thấy thật nhiều suy tư.   Tôi cảm thấy nhục thay cho những lãnh đạo Việt Nam, họ sẵn sàng nhận tiền người Tàu để xây dựng dự án Cát Linh- Hà Đông, như một khúc xương khó nuốt, là biểu tượng của nổi ô nhục.   Lãnh đạo Việt Nam, bất chấp ảnh hưởng tới tương lai mở cửa rước giặc vào qua dự án Bô-xít Tây Nguyên, phá hủy môi trường và đàn áp người bất đồng chính kiến.   Nhục vì lãnh đạo Việt Nam lại nhận tiền của Formosa để cho thuê gần 100 năm với giá rẻ mạt, bất chấp hệ lụy di dân.   Nhục hơn nữa vì những kẻ lãnh đạo Việt Nam đòi mở 3 đặc khu mục đích rước tàu cộng về.   Một bên là người dân yêu tự do họ khước từ tiền của trung cộng, một bên là lãnh đạo một quốc gia cúi đầu làm tay sai, để cho giặc vươn vòi vào nội bộ Việt Nam!   Người dân Việt Nam có thể giàu hơn người Myanmar về kinh tế, nhưng về trí tuệ và tâm hồn thì chưa chắc là đã hơn?   Vì với họ, tự do, dân chủ mới là chân lý để họ sống, tiền không có, nghèo vẫn được nhưng miễn sao họ sống được hưởng không khí tự do, vì đôi khi thở trong bầu khí trong sạch cũng là một yêu cầu chính đáng.   Họ không như những quan chức Việt Nam chỉ biết vinh thân phì gia, chà đạp lên đạo lý để sống.   Một dân tộc mà sinh mạng của mình họ sẵn sàng cho đi để cứu người khác, cho đi vì thế hệ tương lai, đối diện với cái chết mà họ vẫn bình tĩnh thì dân tộc đó không vĩ đại thì còn ai?  
......

“Phản kháng phi bạo lực” có phải chỉ dành cho những kẻ đại ngu?

Con đường chống lại bạo quyền tốt nhất, hóa ra lại không phải là bằng bạo lực. Y Chan - Luật Khoa Tạp Chí|   “…Càng nhiều người không hợp tác, những kẻ cầm quyền, bất kể có máu bạo lực đến đâu, sẽ càng sớm bị cắt đi nguồn sống. Đấu tranh phi bạo lực là cách tốt nhất để tập hợp được số đông, và cũng là cách căn cơ nhất để tạo ra những thay đổi tiến bộ thật sự…” Đó là câu hỏi thường trực trong đầu tôi cách đây nhiều năm. Mỗi khi chứng kiến người dân bị cảnh sát quân đội và lưu manh côn đồ đàn áp thẳng tay, thậm chí là bị bắn giết ngay tại chỗ, tôi chỉ thêm sôi máu khi nghe nhắc đến “đấu tranh ôn hòa” hay “phản kháng phi bạo lực”. Vì sao phải “ôn hòa” với những kẻ xem thường mạng sống của người khác? “Phi bạo lực” thì làm sao chống đỡ được những kẻ độc tài sẵn sàng khủng bố người dân? Những người cứ kêu gọi “ôn hòa” rồi “phi bạo lực” có phải là quá ngây thơ, hay là bị đánh nhiều quá làm cho ấm đầu rồi không? Đó là thời điểm nhiều năm trước, khi tôi không có mấy hứng thú quan tâm đến chuyện chính trị, đặc biệt là chính trị của Việt Nam. Vài năm sau, tôi có cơ hội để tìm hiểu, quan sát và tiếp xúc với những người “ngây thơ” và “ấm đầu” này. Tôi hiểu vì sao họ lại lựa chọn như vậy. *** Những câu hỏi, hay chính xác hơn là bức xúc của tôi đều được đề cập và giải đáp trong quyển sách “Phản kháng phi bạo lực” của tác giả Đoan Trang. Sách “Phản kháng phi bạo lực” của tác giả Phạm Đoan Trang. Ảnh: Facebook Nhà xuất bản Tự Do. Tất nhiên, tôi không tìm thấy hết các câu trả lời, và cũng không hài lòng hoàn toàn với những lý giải trong đó. Một cuốn sách rất mỏng, tính luôn cả các bài phụ lục cũng chỉ vừa hơn 100 trang, không thể làm thỏa mãn tất cả thắc mắc của bất kỳ ai. Nhưng các chia sẻ trong sách, dựa trên tri thức thực tế của những nhà hoạt động nhân quyền trên thế giới lẫn trải nghiệm xương máu của những nhà hoạt động tại Việt Nam – trong đó có bản thân tác giả Đoan Trang, đủ để thuyết phục tôi rằng những người này không hề ấm đầu. Trái tim của họ có thể rất nóng, riêng cái đầu của họ hoàn toàn tỉnh táo. Họ lựa chọn con đường đấu tranh ôn hòa vì đó là thứ vũ khí tốt nhất, lớn nhất, thực tế nhất, và cũng hiệu quả nhất để chống lại bạo quyền. Bạn có quyền nghi ngờ vào điều này – tôi cũng vậy. Nhưng các con số thì không biết nói dối. Trong chương VIII, tác giả đã dành ra một phần để trả lời cho câu hỏi “vì sao nên kiên trì phi bạo lực?”. Lý do thuyết phục nhất đến từ thực tế: các phong trào ôn hòa có xác suất thành công cao hơn, và nó cũng tạo ra tiền đề vững chắc hơn nhiều để xây dựng được thể chế tự do dân chủ. Theo thống kê, trong 323 cuộc chính biến trên khắp thế giới từ năm 1900 đến năm 2006, các phong trào phản kháng phi bạo lực có tỷ lệ thắng lợi cao gấp đôi (53%) so với những trận chiến bạo lực (26%). Tại các nước thay đổi nhờ phản kháng ôn hòa, phi bạo lực, có tới 40% xác suất họ xây dựng hoặc duy trì được một nền dân chủ sau 5 năm. Trong khi đó, ở các nước thay đổi nhờ đấu tranh vũ trang, xác suất xác lập được một nền dân chủ sau 5 năm chỉ là 5%. Đó là những con số có thể khiến nhiều người ngạc nhiên. Hình ảnh biểu tượng trong phong trào biểu tình “Black Lives Matter” tại Mỹ, khi một cô gái đối đầu với lực lượng cảnh sát. Ảnh chụp vào tháng 9/2016. Nguồn: Jonathan Bachman/ Reuters. Dùng bạo lực chống lại bạo lực rốt cuộc là một thứ bản năng từ trong tư duy lẫn hành động của mọi loài vật, bao gồm cả con người. Nhưng con người khác động vật ở chỗ có thể nhận ra một thực tế khác: bạo lực sinh ra bạo lực, và đó là vòng xoáy hủy diệt bất tận. Đó là lý do các chế độ vua chúa thời xưa, phần lớn dùng bạo lực để chiếm quyền, luôn phải canh cánh lo sợ bị người khác dùng bạo lực lật đổ. Đó cũng là tư duy hiện hữu trong đầu những nhà cầm quyền độc tài ngày nay. Họ dùng vũ lực cướp chính quyền, dùng bạo lực đàn áp để giữ lấy quyền lực, để rồi luôn sống trong ám ảnh bị trả thù. Điểm khác biệt lớn nhất giữa con người và các động vật khác có lẽ nằm ở khả năng suy nghĩ về tương lai. Những người nhìn ra được tương lai của bạo lực muốn chấm dứt vòng lặp vô nghĩa đó. Họ muốn dùng nước dập lửa, thay vì tiếp tục châm thêm dầu cho nó. Trên thực tế, đa phần nhân loại ngày nay đều đồng ý với điều này. Đa số mọi người đều không muốn dùng đến bạo lực để giải quyết vấn đề. Họ biết có những lựa chọn khác hợp lý hơn nhiều. *** Vào năm 2019, khi người dân Hong Kong phát động phong trào phản kháng đòi dân chủ, những hoạt động đấu tranh ôn hòa của họ khiến cả thế giới ngưỡng mộ và đồng loạt ủng hộ. Hình ảnh chụp vào tháng 6/2019, khi hàng triệu người biểu tình tại Hong Kong dạt ra hai bên nhường đường cho xe cấp cứu đi qua. Nguồn: Studio Incendo/ Flickr. Hình ảnh biển người dạt ra hai bên nhường đường cho xe cấp cứu, cảnh hàng triệu người biểu tình một cách văn minh trật tự, các hoạt động ca hát, những biểu ngữ sáng tạo, rồi thông điệp hòa bình lan tỏa… tất cả đưa Hong Kong trở thành biểu tượng của đấu tranh văn minh trên khắp thế giới. Đó là thời điểm sự ủng hộ của thế giới dành cho người dân Hong Kong ở mức cao nhất, và áp lực dành cho chính quyền đặc khu cùng nhà cầm quyền Bắc Kinh ở mức nặng nề nhất. Sự ủng hộ đó giảm sút khá nhiều khi những nhóm đấu tranh lựa chọn dùng bạo lực chống lại bạo lực. Vòng xoáy leo thang khiến chính những người dân Hong Kong bị chia rẽ, giữa một bên đồng tình và bên còn lại muốn giữ khoảng cách với những hành vi bạo lực. Tất nhiên, trong rất nhiều trường hợp, khó có thể trách họ. Khi phong trào bị chính quyền không ngừng nâng cấp dùng vũ lực đàn áp, sẽ luôn có những người cảm thấy ôn hòa không còn là câu trả lời thích hợp. Câu chuyện về Hong Kong có nhiều yếu tố phức tạp, và thực tế là đến giờ này phong trào phản kháng của họ cũng đã gần như bị Bắc Kinh bẻ gãy. Nhưng những gương mặt dẫn đầu cuộc đấu tranh cho dân chủ của thành phố này vẫn luôn chủ trương ôn hòa. Họ biết đó là vũ khí duy nhất, và cũng là vũ khí tốt nhất để chống lại bạo quyền. Thứ đầu tiên và quan trọng nhất giúp các chính quyền tồn tại được, như lý giải trong chương I của “Phản kháng phi bạo lực”, là tính chính danh. Hiểu một cách đơn giản, đó là khi người dân thấy thuyết phục, tin rằng những người đó xứng đáng nắm quyền, và đồng ý nghe theo lời của chính quyền. Niềm tin đó sẽ lung lay đáng kể khi họ thấy chính quyền phải dùng đến bạo lực để giải quyết bất đồng với người dân. Những kẻ độc tài biết rõ điều đó, và họ luôn tận dụng bộ máy tuyên truyền để giành “chính nghĩa” về phía mình, vừa muốn làm “người hùng”, lại vừa đòi làm “nạn nhân”. Một trong những người đầu tiên bị thiệt mạng trong các cuộc biểu tình phản đối đảo chính tại Myanmar vừa qua là Kyal Sin, hay còn được biết đến với cái tên Angel. Tin tức về cô gái chưa tròn 20 tuổi ngay lập tức lan truyền khắp thế giới. Cô trở thành biểu tượng của phong trào đấu tranh chống bạo quyền của đất nước này. Angel, 19 tuổi, là một vận động viên Taekwondo. Trong bài đăng Facebook cuối cùng, cô để lại thông tin cá nhân, kèm theo nguyện vọng hiến tạng trong trường hợp mình chết. Ảnh: Twitter/ @ SuLwinLwinHtet4/ VOI. Hình ảnh một cô gái trẻ tuổi hừng hực sức sống, biểu tình ôn hòa phản đối bạo lực, để rồi bị chính quyền dùng vũ lực cướp đi sinh mạng, gây áp lực lớn đến tính chính danh của những kẻ cầm quyền. Áp lực này khiến ngay sau đó, chính quyền cho người đến quật mộ của Angel, tiến hành khám nghiệm tử thi. Họ công bố kết luận là Angel chết do một loại đạn khác với đạn của cảnh sát, đồng thời bị bắn từ phía sau đầu, từ đó gạt đi trách nhiệm của mình trong cái chết đó. Nó chứng tỏ ngay cả những chính quyền khát máu nhất cũng không thể thản nhiên dùng bạo lực để giữ lấy quyền lực. Họ chỉ có thể dùng bạo lực với cái cớ “cần thiết”, để “giữ gìn” hòa bình, hay để “bảo vệ” đất nước. Đối diện với những người phản kháng ôn hòa, cái cớ đó của họ trở nên lố bịch. Tính chính danh của chúng cũng bị sứt mẻ nghiêm trọng. *** Myanmar được nhắc đến trong chương VII quyển sách “Phản kháng phi bạo lực”, qua câu chuyện của Bob Helvey, một tác giả của nhiều đầu sách nghiên cứu về đấu tranh ôn hòa. Đó là những năm 1990 – 2000, khi Bob Helvey gặp các thanh niên Myanmar đang ẩn mình trong rừng làm chiến tranh du kích chống lại chế độ độc tài quân sự. Những người thanh niên này còn rất trẻ, thừa lòng dũng cảm, có vũ khí và luôn sẵn sàng ra trận. Nhưng họ chỉ có 20.000 người trực tiếp cầm súng chiến đấu. So với gần 50 triệu dân Myanmar lúc đó, con số này quá ít ỏi. Chiến thắng của họ chỉ là việc đánh được một đồn giặc hay giật sập một tháp phát sóng truyền hình. Nó không thể đem lại thay đổi gì thật sự có ý nghĩa. Quan trọng hơn, cuộc đấu tranh của họ không thu hút được số đông người Myanmar. Sau những cuộc trao đổi với Helvey, những người lính du kích Myanmar nhận ra họ không thể thu hút được thêm người tham gia đấu tranh nếu vẫn đi theo con đường bạo lực. Họ bắt đầu suy nghĩ và hình dung về những chiến lược khác, những phong trào biểu tình, những cách thực tập hợp dân chúng mà với sức mạnh của số đông, hy vọng vào một thay đổi thật sự sẽ khả thi hơn nhiều. Quyển sách không nói về điều gì xảy ra tiếp theo với những người lính này, nhưng ta có thể đoán là họ đã phải chuyển phương hướng đấu tranh để thu hút được đông người tham gia hơn. Lý do giản dị là vì đấu tranh bạo lực chỉ dành cho một số ít người. Trong khi đó, phản kháng ôn hòa, phi bạo lực là việc bất kỳ ai, già trẻ lớn bé, bất kể thể trạng thế nào hay làm công việc gì, cũng đều có thể tham gia. Hình thức của phản kháng phi bạo lực là muôn màu muôn dạng. Đó có thể là việc ra đường biểu tình, hay chỉ cần ra ban công trước nhà giơ biểu ngữ. Đó có thể là việc âm thầm hỗ trợ vật chất lẫn tinh thần cho những người phải xuất đầu lộ diện. Hoặc việc đấu tranh có thể thực hiện qua mạng, qua việc viết bài và chia sẻ rộng rãi thông tin. Hay thậm chí đấu tranh có thể là không làm gì cả – như cách hàng triệu người Myanmar đang quyết tâm đình công, không hợp tác với chính quyền quân sự. Người Myanmar biểu tình ôn hòa chống lại hành động đảo chính của quân đội nước này. Ảnh: AP. Các hoạt động phản kháng phi bạo lực đánh vào điểm yếu lớn nhất của mọi chính quyền: sự phụ thuộc. Những kẻ cầm súng cho dù có đạn dược dồi dào đến đâu cũng không thể nhai đạn nuốt thuốc súng để sống. Chúng đều phải phụ thuộc vào người khác. Càng nhiều người không hợp tác, những kẻ cầm quyền, bất kể có máu bạo lực đến đâu, sẽ càng sớm bị cắt đi nguồn sống. Đấu tranh phi bạo lực là cách tốt nhất để tập hợp được số đông, và cũng là cách căn cơ nhất để tạo ra những thay đổi tiến bộ thật sự. *** Ngay cả khi đọc xong quyển sách, có thể bạn vẫn không hoàn toàn bị thuyết phục về triết lý của phản kháng phi bạo lực. Tôi cũng vậy. Lý thuyết, và cả thực tế, đúng là hợp lý. Nhưng việc phải hy sinh xương máu của những người lương thiện, đặc biệt khi đó là người thân của mình, là một việc quá khó chấp nhận, ngay cả khi mục đích là để đổi lấy một thứ vĩ đại như tương lai hòa bình cho nhân loại. Có thể bạn không thấy những thứ to lớn đó hợp với mình. Tôi cũng vậy. Nhưng chính vì thế, tôi lại càng trân trọng hơn những con người dám đấu tranh phi bạo lực. Lấy gậy phang thẳng vào đầu của kẻ vừa đánh mình là chuyện ai cũng làm được. Có thể khiến kẻ đó, và những người giống vậy, buông tay không tiếp tục làm hại người lương thiện, đó mới là việc khó. Đó là viễn cảnh mà những người đấu tranh ôn hòa luôn nhắm tới. Họ có thể thành công, hoặc thất bại, nhưng lựa chọn của họ đáng để người khác nể phục. Tôi có thể sẽ không bao giờ làm được như họ. Nhưng tôi sẽ luôn ủng hộ những con người dũng cảm đó. Dám phản kháng lại bạo quyền đã là một chuyện ngu. Phản kháng mà không dùng đến bạo lực lại còn ngu hơn. Thế giới này tốt đẹp hơn là nhờ những kẻ đại ngu như vậy. Y Chan   Y Chan  
......

ÁNH MẮT CỦA LƯƠNG TRI

 ánh mắt của một thiếu nữ Myanmar khi bị đánh đập tra tấn vì đòi sống tự do trước chính quyền độc tài. ÁNH MẮT CỦA LƯƠNG TRI   Ánh mắt em, con gái Thắp sáng cả lương tri Ánh mắt đáng nghĩ suy Về niềm tin, chân lý   Ánh mắt của lý trí Nhìn ác quỷ hiện hình Ánh mắt của thần linh Chất chứa tình nhân loại   Hỡi cường quyền bại hoại Hãy hối cải, dừng tay Hỡi chuyên chế, độc tài Hãy quay đầu , dừng lại   Mắt em, người con gái Thắp sáng cả đêm dài Thắp sáng cả ngày mai Là tương lai Miến điện   Ma quỷ còn ẩn hiện Dân tộc còn oan khiên Thần thánh không thể thiền Mắt em, tâm Phật hiện ! .........18/03/2021.......NQV......Nguyễn Quốc Việt Trí Thức An Nam Thái Hạo|   Tôi đã đọc và nghĩ rất nhiều về người trí thức. Thế nào là trí thức? Lao động trí óc không thôi chưa thể gọi là trí thức. Anh phải dùng “trí” của mình để “thức” xã hội. Cái xã hội ấy không phải là danh từ “xã hội” chung chung, đó phải là một xã hội đan bện trong thiết chế chính trị, một xã hội không bao giờ được trừu xuất khỏi chính thể đã tạo nên nó.   Một nhà khoa học đóng cửa trước cái khí quyển chính trị mà anh ta thuộc về để chỉ cặm cụi với những ống nghiệm và trang sách mà đích đến là một bãi lầy nhiễm độc không một hạt giống hay hạt chữ nào có thể nảy mầm hay lên xanh thì đó là gì nếu không phải là một sự ngu dốt? Có thể không là ngu dốt, nhưng hèn. Mà cái hèn ấy rốt cuộc lại từ đâu sinh ra? Từ sự ngu dốt. Vì kẻ có trí tuệ không bao giờ hèn nhát. Hắn nhìn thấy sự liên đới trùng trùng và nhìn thấy viễn cảnh tai họa trên đầu hắn và gia đình hắn một ngày kia, không thể trốn thoát, không thể lẫn tránh. Và hắn hành động.   Các nhà khoa học sẽ không thể được tha thứ nếu im lặng trước những bất công bạo tàn mà một thể chế chính trị đang gây ra trước mắt ông ta. Ông ta, hoặc là đui mù, hoặc là khốn nạn. Còn đối với phường giá áo túi cơm mang danh nghệ sĩ, mang danh nhà giáo, nhà khoa học… thì càng đáng khinh hơn nữa. Chúng 2 lần gây họa: Một lần ăn tốn cơm dân, và một lần tiếp tay cho cái ác. Hay là họ thực sự không nhìn thấy? Ô! Nếu thế thật thì quả là vi diệu.Tôi chưa từng thấy một giáo chủ hay một khoa học gia chân chính nào không mở miệng khi chứng kiến cái ác và sự tồn vong của con người trước mắt ông ta.   Tôi không biết các người đang ở đâu. Và làm gì. Khi ngoảnh mặt với nỗi đau của đồng loại để nằm liếm láp bộ lông của chính mình, chắc các người phải thấy thỏa mãn lắm, vì chúng đã mượt, và bóng láng. Đó là “thành công”, là “sự nghiệp”. Nó gây tê và làm đê mê cho đến tận giây cuối cùng của một kiếp sống. Nó xứng đáng là thần dược của chốn không có con người.   Đau khổ ư? Bất lực ư? Đừng nói dối, không có kẻ nào đau lại không ngoác mồm ra mà la lên một tiếng cả. Dù chỉ là “hừ hừ”.   “Tháp ngà” ư “kinh viện” ư? Được thế đã mừng lắm. Nghề xào nấu và món lẩu thập cẩm vẫn đang được ưu chuộng nhất hiện nay. Hãy cứ ở đó mà làm một nhà khoa học “hàn lâm” đi, những đóng góp của quý vị đã nhiều và nặng đến nỗi ngày nay không còn một ngành khoa học hay lĩnh vực nào có thể ngóc đầu dậy nổi.   Thật ra tôi cũng không nên trách các người, vì tôi chẳng có tư cách gì để làm việc đó cả. Trong lúc nói những lời này thì cùng với khinh bỉ các người, tôi đang khinh cả tôi nữa. Chúng ta đáng khinh.   Chỉ hi vọng, thay vì căm ghét tôi, xin hãy cùng xấu hổ. Cúi đầu xuống. Để một lần ngẩng lên.   ---------- Bài hùng biện của một học sinh trong cuộc thi "Socrates học đường 2019" với chủ đề "Người trí thức và tương lai xã hội" do tôi tổ chức. Hình là tôi thêm vào để tăng tính thời sự khi đăng tải lại nội dung bài thi. TH    
......

Phẩm giá người Việt bị vấy bẩn

  Phạm Minh Vũ  ·     Viettel, tập đoàn viễn thông lớn nhất của Việt Nam và là doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng Việt Nam, Viettel là cổ đông lớn nhất với 49% cổ phần trong công ty viễn thông Mytel do quân đội Miến Điện điều hành.   Tổ chức Justice for Myanmar (Công lý cho Miến Điện) vào cuối tháng 12 công bố kết luận trong một phóng sự điều tra, cáo buộc Viettel đồng lõa với những vị phạm nhân quyền tàn bạo tại Miến Điện qua việc đầu tư vào doanh nghiệp của quân đội Miến Điện.   Hôm nay, một chi nhánh Mytel tại Ragoon bị đấp phá. Người biểu tình dùng gạch đá, gỗ... ném vào chi nhánh này. Rất may là không có thiệt hại về người khi các nhân viên Mytel đã được cho nghỉ từ trước đó.   Gần đây bị giới đấu tranh cho dân chủ tại Miến Điện cáo buộc Mytel đã hỗ trợ quân đội Miến Điện trong việc đàn áp đẫm máu ở đây.   Trong mắt người Miến Điện bây giờ, nhân dân Việt Nam đã bị đánh đồng chung với tập đoàn quân đội là có tiếp tay cho việc gây tội ác ở đây.   Vì có đầu tư vào đây, Việt Nam nằm trong 4 quốc gia giữ quan điểm ủng hộ chính quyền quân sự và liên tục chặn nghị quyết lên án tình hình Myanmar của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, trong đó có Trung cộng và Nga.   Nhiều quốc gia dân chủ đã nhanh chóng lên án quân đội Miến Điện về những hành vi vi phạm nhân quyền, phi dân chủ như thế. Nhưng Việt Nam là một quốc gia tự nhận là yêu hoà bình, nhưng cho tới giờ lại im lặng đến lạnh người, vì sao vậy?   Phẩm giá con người Việt Nam đã bị đảng cầm quyền làm ô uế, khi bản tánh yêu chuộng hoà bình, ghét chiến tranh, một đất nước có 4 ngàn năm văn hiến đã bị bôi lên những điểm mờ là đứng sau các tội ác ở Miến Điện. Cái này liệu có nên tự hào quá Việt Nam ơi không?
......

Chủ đầu tư dự án chùa Tam Chúc không tuân thủ pháp luật?

  Hàng vạn du khách thập phương đổ về chùa Tam Chúc ở Hà Nam vào 2 ngày cuối tuần 13 và 14-3 trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn tiếp tục đe dọa ở một số tỉnh miền Bắc. Loan Thảo - VNTB| Gác qua mọi chuyện về nhu cầu tâm linh của người dân, ở đây là trách nhiệm tuân thủ pháp luật của ban quản lý chùa Tam Chúc – một khu du lịch tâm linh tân tạo với chủ đầu tư là doanh nghiệp Xuân Trường, của ông Nguyễn Văn Trường ở tỉnh Ninh Bình. Tin tức từ báo chí cho biết, theo đại diện của Ban trụ trì chùa Tam Chúc, trong 2 cuối tuần (ngày 13 và 14-3), chùa Tam Chúc đã đón khoảng 70.000 du khách, trong đó ngày cuối tuần 14-3 có tới khoảng 50.000 người đã về Tam Chúc chiêm bãi, du lịch. Câu hỏi đặt ra là có phải vì chạy theo lợi nhuận thu về từ bán vé, cùng các dịch vụ tâm linh khác nên chủ đầu tư dự án Khu du lịch quốc gia Tam Chúc đã cố tình vi phạm Chỉ thị số 19/CT-TTg, “Về tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch covid-19 trong tình hình mới”. Với trường hợp như xảy ra ở chùa Tam Chúc, có thể thấy đã vi phạm Chỉ thị số 19/CT-TTg ở yêu cầu sau: “Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có mức nguy cơ thấp: Tuyên truyền, vận động người dân không ra khỏi nhà nếu không cần thiết và thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch. Không tập trung quá 30 người tại nơi công cộng, ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện; giữ khoảng cách tối thiểu 01m khi tiếp xúc”. Liên quan vấn đề trên, Văn phòng Chính phủ ban hành Công văn số 2740/VPCP-PL về việc xử lý vi phạm liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19. Theo đó, Thủ tướng Chính Phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo cụ thể, “Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền khẩn trương xác minh, điều tra, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống dịch Covid-19 có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm”. Như vậy, cần thiết xử lý về việc có dấu hiệu chủ đầu tư dự án chùa Tam Chúc đã cố tình không tuân thủ Chỉ thị số 19/CT-TTg, “Về tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch covid-19 trong tình hình mới” của Thủ tướng Chính phủ. Giả dụ, việc vi phạm dẫn đến hệ lụy làm lây lan dịch Covid-19 ở cộng đồng từ nguồn F0 nào đó nằm trong số du khách như nói ở phần đầu bài viết này, cần thiết khởi tố hình sự để mang tính răn đe trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục hoành hành trên toàn cầu. Nói thêm, hồi đầu năm nay Tân Sửu 2021, Bộ Nội vụ có ban hành Công văn số 416/BNV-TGCP gửi lãnh đạo các tổ chức tôn giáo hướng dẫn thực hiện một số biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 trong các cơ sở tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng, trong đó có đoạn như sau: “Đối với cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo tại các tỉnh, thành phố, Bộ Nội vụ đề nghị thực hiện nghiêm túc các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 theo Chỉ thị số 19/CT-TTg, ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, khuyến cáo của Bộ Y tế và quyết định của chính quyền địa phương. Yêu cầu chức sắc, chức việc và tín đồ chủ động, tự giác thực hiện nghiêm túc khuyến cáo “5K” của Bộ Y tế (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế) trong phòng, chống dịch bệnh. Hướng dẫn chức sắc, chức việc, tín đồ đề cao cảnh giác, không tuyên truyền, phổ biến các thông tin tiêu cực, không đúng về tình hình dịch bệnh, gây tâm lý hoang mang trong Nhân dân. Lãnh đạo các tổ chức tôn giáo, người đại diện các cơ sở tín ngưỡng thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch; tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, tín đồ nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về phòng dịch. Hạn chế tổ chức các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng tập trung đông người và giữ khoảng cách nơi công cộng; thực hiện nghiêm việc đeo khẩu trang trên các phương tiện giao thông, nơi công cộng và tại cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo”. Như vậy, sự việc xảy ra vào 2 ngày cuối tuần 13 và 14-3, còn cho thấy trách nhiệm không thể thoái thác của lãnh đạo tôn giáo tỉnh Hà Nam. Loan Thảo  
......

Một đứa trẻ kêu khóc ở Myanmar … và Trung Quốc giả vờ không nghe thấy

Simon Tisdall – Khánh An dịch – (VNTB) – Vị thế toàn cầu của Trung Quốc đang sụt giảm khi Tập Cận Bình cố gắng minh oan cho những hành động tàn ác dưới danh nghĩa thâu tóm quyền lực Tiếng kêu khóc đau đớn khủng khiếp hiện trên khuôn mặt của một cô bé và kể về câu chuyện tàn bạo của quân đội đàn áp ở Myanmar. Shwe Yote Hlwar, năm tuổi, đang đứng bên cạnh một chiếc quan tài mở nắp, chứa thi thể của cha cô, Ko Zwe Htet Soe, bị lực lượng an ninh bắn chết. Khuôn mặt của cô bé đau buồn vô tận. Những người phụ nữ cố gắng an ủi cô nhưng không được. Ai có thể giải thích cái chết của cha cô là không cần thiết? Ai có thể nói tại sao những người mặc quân phục lại nghĩ rằng họ có thể làm những việc như vậy? Tiếng kêu khóc đau đớn của Shwe là tiếng kêu khóc của cả một quốc gia. Tiếng khóc vang vọng khắp thế giới. Có người nghe thấy, nhiều người lại không. Tại hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc tuần trước, Trung Quốc, với sự hậu thuẫn của Nga, Ấn Độ và Việt Nam, một lần nữa đã ngăn cản việc lên án thẳng thừng về cuộc đảo chính quân sự hồi tháng trước và ngăn cản động thái hướng tới các biện pháp trừng phạt do Vương quốc Anh soạn thảo. Lá phiếu của Trung Quốc là quan trọng nhất. Trung Quốc đã đầu tư hàng tỷ vào Myanmar theo kế hoạch Vành đai và Con đường của Tập Cận Bình. Điều này, chứ không phải là sự phẫn nộ đối với “trận giết chóc”, theo lời của Tổ chức Ân xá Quốc tế, của quân đội xác định chính sách của Tập Cận Bình. Đúng là Trung Quốc không trực tiếp có lỗi cho hàng chục cái chết và hàng ngàn vụ bắt giữ và đánh đập của thường dân. Có thể ông Tập sẽ thích nhà lãnh đạo dân cử, thân thiện với Bắc Kinh của Myanmar, bà Aung San Suu Kyi, tiếp tục nắm quyền. Lãnh đạo đảo chính, Tướng Min Aung Hlaing, trước đây đã cáo buộc Trung Quốc âm mưu với các phần tử nổi dậy sắc tộc. Ông ấy không phải là bạn lớn. Nhưng Tập Cận Bình thà gắn bó với Min Aung Hlaing hơn là rủi ro bất ổn. Và thà đối mặt với sự phản đối của quốc tế hơn là giúp khôi phục các quyền dân chủ vốn là điều đáng ghét đối với ĐCSTQ. Nói tóm lại, ở Myanmar và các nơi khác, ĐCSTQ đang biết rằng việc xây dựng đế chế là mơ hồ và có thể phải chịu nhiều tai tiếng. Những thiết kế vĩ đại quyền bá chủ toàn cầu mời gọi sự phản kháng ngày càng gia tăng trên toàn cầu. Các đặc điểm kiêu ngạo và hung hăng của Tập Cận Bình hiện đang được thể hiện trên nhiều mặt trận. Tinh thần chống Trung Quốc chưa bao giờ lộ rõ hơn thế ở Myanmar. Người dân ở đó coi người hàng xóm khổng lồ giống như người Ba Lan hoặc người Estonia cảm nhận đối với nước Nga. Nhưng với việc Bắc Kinh bảo vệ các tướng lĩnh sát nhân, sự thù địch tiềm ẩn đó đang được công khai bày tỏ. Những cuộc tẩy chay các doanh nghiệp Trung Quốc đã diễn ra. Các quan chức Trung Quốc lo lắng trước những lời đe dọa trên mạng xã hội về việc làm nổ tung một dự án đường dẫn dầu quan trọng nối Trung Quốc với Vịnh Bengal trong dự án Vành đai và Con đường, trang web độc lập Irrawaddy tường trình. Tuy nhiên, vì Trung Quốc coi cuộc đảo chính là “vấn đề nội bộ”, những người biểu tình nói một cách mỉa mai, việc phá hoại tài sản của người Trung Quốc cũng sẽ là một vấn đề nội bộ thuần túy. Đã quen với việc điều khiển tin tức theo ý muốn, các lãnh đạo Trung Quốc giả vờ rằng cuộc khủng hoảng này không xảy ra, rằng những tội ác khủng khiếp không xảy ra hàng ngày. Họ dường như không nhận ra rằng trong thế giới nằm ngoài sự kiểm duyệt của họ, cơ hội che giấu hoặc từ chối vĩnh viễn những hành động tàn bạo như vậy ngày càng giảm dần, dù chúng xảy ra ở đâu. Đó là một bài học mà Tập Cận Bình đã không thể tiếp thu được ở Tân Cương. Một báo cáo chi tiết, độc lập của Hoa Kỳ vào tuần trước đã xác nhận rằng chế độ của Tập Cận Bình đã liên tục vi phạm công ước của LHQ về tội ác diệt chủng với việc ngược đãi kinh khủng người Duy Ngô Nhĩ. Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn kiên trì đưa ra những tuyên bố kỳ cục, từ chối thẳng thừng bằng chứng được quay và ghi lại sự lạm dụng thô bạo. Những lời nói dối của họ sẽ thật buồn cười nếu chúng không quá nghiêm trọng. Đồng thời, họ phỉ báng báo chí độc lập, thực tế – và than phiền quá mức khi đại sứ của Anh nhấn mạnh tầm quan trọng đó. Những kẻ mù quáng và lạc hậu vì mục tiêu chính trị đáng thương này nên thức tỉnh lại. Các cuộc thăm dò cho thấy vị thế quốc tế của Trung Quốc đang giảm mạnh. Cảm giác ác cảm và thù hận ngày càng gia tăng.  Khán giả toàn cầu ngày càng tinh vi hơn, được kết nối hơn đang xem xét kỹ lưỡng các hành động hàng ngày của Trung Quốc, họ không dễ dàng bị lừa bịp như quần chúng nông thôn Trung Quốc, bị đồng lương chết đói, tuyên truyền và sự sợ hãi kiểm soát. Nếu Tập Cận Bình muốn có được sự tôn trọng thường dành cho một cường quốc, ông ta phải hành động có trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng như Myanmar, thành thật về Tân Cương và Tây Tạng, hãy ngừng bắt nạt những quốc gia láng giềng, và ngừng những lời nói dối ngớ ngẩn như là có thể tạo ra một thực tế thay thế bằng cách nào đó. Hồng Kông là một sân khấu miễn cưỡng khác trong cái nhà hát giả dối đen tối của Tập Cận Bình – và một tâm điểm khác của phản ứng dữ dội chống Trung Quốc. Tuần một luật mới từ chối chức vụ dân cử đối với các ứng cử viên được coi là “không yêu nước” đã được thông qua. Để khẳng định rằng Hồng Kông vẫn có thể được coi là một nền dân chủ dưới một hệ thống như vậy là sự xúc phạm trí thông minh của mọi người. Có lẽ các cán bộ cộng sự của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc tin điều đó. Họ tin bất cứ điều gì Tập Cận Bình nói. Sự ác cảm quốc tế đang gia tăng. Anh Quốc và các đối tác cân nhắc các biện pháp trừng phạt mới. Lực lượng đối lập nhanh nhạy của Hồng Kông đang tập hợp bên ngoài. Áp lực đang gia tăng khi  Mỹ đảm bảo rõ ràng khả năng phòng thủ của Đài Loan. Một đô đốc hàng đầu của Mỹ thúc giục triển khai tên lửa mới dọc theo “quần đảo đầu tiên ”. Các công ty công nghệ cao như Huawei là những công ty bị ghẻ lạnh. Các quốc gia đang phát triển tỏ ra khó chịu trước chính sách ngoại giao nợ của Bắc Kinh. Liên minh ngăn chặn được gọi là Bộ Tứ – Mỹ, Ấn Độ, Úc và Nhật Bản – đang hồi sinh. Các nhà ngoại giao “chiến binh sói” mồm to hàng ngày đã gây hại cho danh tiếng của Trung Quốc. Các tác nhân có ảnh hưởng ở nước ngoài, bám vào đảng để lấy tiền và ưu đãi, phải đối mặt với sự giám sát chặt chẽ hơn. Mọi thứ có thể đang thay đổi. Tuy nhiên, Trung Quốc của Tập Cận Bình giống như một đoàn tàu tháo chạy, với một đoàn xe “Làm cho Trung Quốc vĩ đại trở lại”, có thể có động cơ rất lớn nhưng lại thiếu phanh. Các nhà phân tích khu vực cho rằng Tập Cận Bình là một , “Mao Trạch Đông mới”,  vượt quá mức khi đặt bản thân và di sản cá nhân lên trên lợi ích quốc gia. Những người khác cảnh báo rằng thời kỳ Tập Cận Bình đang nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc-dân tuý điên cuồng mà cuối cùng lại không thể kiểm soát được. Họ nói rằng thời kỳ đó sẽ không kết thúc có hậu. Những cái đầu lạnh, khôn ngoan hơn ở Bắc Kinh nên bình tĩnh lại khi có thể – hoặc có nguy cơ trật đường ray hoàn toàn. Tuần này sẽ diễn ra cuộc họp cấp bộ trưởng ngoại giao đầu tiên với chính quyền Biden. Đó là một thời điểm tốt để giới lãnh đạo Trung Quốc trở nên thực tế, từ bỏ tinh thần bá chủ về địa chính trị và thay vào đó tập trung vào việc thúc đẩy các mục tiêu chung và các giá trị phổ quát. Bắt những kẻ đã sát hại cha của Shwe Yote Hlwar sẽ là một khởi đầu tốt. Nguồn: The Guardian  
......

3 nhà nước, 3 gọng cùm, dân thoát đằng trời!

Đỗ Ngà| Cơ chế song trùng là từ mà xã hội ám chỉ cách tổ chức bộ máy nhà nước của ĐCS Việt Nam. Song trùng nói đơn giản là 2 nhà nước tồn tại song song. Vậy ĐCS tổ chức 2 nhà nước như thế nào? Nhà nước thứ nhất là Ban Bí Thư với người đứng đầu là tổng bí thư, phụ tá cho tổng bí thư là thường trực ban bí thư, dưới quyền tổng bí thư gồm các bí thư trung ương đảng nắm các ban như: Ban tổ chức trung ương, ban tuyên giáo trung ương; ban kinh tế trung ương; ban nội chính trung ương; ban dân vận trung ương; quân ủy trung ương; tòa án tối cao; và văn phòng trung ương đảng. Các địa phương từ tỉnh đến huyện, đến xã cũng có bộ máy y hệt như vậy với người đứng đầu là bí thư. Nhà nước này được gọi là nhà nước dùng để cai trị 5,1 triệu đảng viên. Nhà nước thứ nhì là Chính phủ với người đứng đầu là thủ tướng, phụ tá cho thủ tướng là 5 phó thủ tướng. Dưới quyền thủ tướng là 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 11 cơ quan trực thuộc. Nó là bộ máy bao trùm và quản lí toàn bộ nền kinh tế đất nước. Các địa phương từ tỉnh đến huyện, đến xã cũng có bộ máy y hệt như vậy với người đứng đầu là chủ tịch. Nhà nước này dùng để cai trị 100 triệu dân. Ở các quốc gia ngoài khối cộng sản, chỉ một nhà nước duy nhất. Ở những quốc gia này, đảng không được tổ chức như nhà nước, mà nó chỉ được tổ chức như một hiệp hội, có điều hiệp hội này hoạt động vì mục đích chính trị. Nhiệm vụ của nó là đào tạo con người nhằm cung cấp nhân sự ứng tuyển vào các vị trí dân cử trong nhà nước, hết. Mà như ta biết, đã là hiệp hội thì tự gây quỹ mà hoạt động chứ không có chuyện lấy tiền thuế của dân chi tiêu như ĐCS Việt Nam. Thực tế nhà nước CS Việt Nam nó không phải là cơ chế “song trùng” mà là cơ chế “tam trùng”. Vậy còn một nhà nước nữa là nhà nước nào? Xin thưa, đó là Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Cũng giống như 2 nước kia, người đứng đầu danh nghĩa của “nhà nước mặt trận tổ quốc Việt Nam” là chủ tịch nước, người trực tiếp điều hành nhà nước này là Chủ Tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc. Cũng tương tự 2 nhà nước kia, chủ tịch mặt trận tổ quốc cũng nắm rất nhiều cơ quan trực thuộc gồm: Thứ nhất là Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Người đứng đầu là ủy viên trung ương đảng. Đây là một tổ chức mà ĐCS dùng thanh niên được nhồi sọ để giám sát, chỉ điểm, sau đó báo cáo lên để 2 nhà nước kia điều công an đến bắt và chỉ đạo tòa án kết án họ rồi bỏ tù họ để triệt tiêu tổ chức hiệp hội thanh niên độc lập của dân; Thứ nhì là tổng liên đoàn lao động. Người đứng đầu là ủy viên trung ương đảng. Nơi đây chỉ đạo các doanh nghiệp phải trừ lương những công nhân nghèo khổ bổ sung vào túi tiền của hội. Đồng thời cơ quan này là con mắt giám sát công nhân trên toàn quốc. Nếu thấy công nhân tự lập hội cho riêng mình thì báo cho 2 nhà nước kia cử công an đến bắt người, chỉ đạo tòa án kết án họ rồi bỏ tù họ để triệt tiêu công đoàn độc lập của riêng người dân; Thứ ba là Hội Sinh Viên Việt Nam. Người đứng đầu là ủy viên trung ương đảng, tổ chức này lập ra không phải không phải mục đích chính là giúp đỡ sinh viên mà mục đích chính là để giám sát tầng lớp sinh viên trên toàn quốc. Nếu có động tĩnh báo cáo để 2 nhà nước cho công an bắt, cho tòa án xử tội và bỏ tù để triệt tiêu tổ chức độc lập tự phát của giới sinh viên;   Thứ tư là Hội Nông Dân. Người đứng đầu là ủy viên trung ương đảng. Cũng tựa các hội kia, hội này không được gì cho nông dân mà nhiệm vụ chính của họ là giám sát tử tưởng nông dân. Nếu thấy nông dân có manh nha tự tổ chức hiệp hội độc lập thì báo để 2 nhà nước kia cho công an bắt, sai tòa án kết tội rồi bỏ tù để triệt mầm móng xã hội dân sự chớm nở trong giới nông dân; Thứ năm là Hội Cựu Chiến Binh. Hội này cũng tựa các hội kia, việc chăm sóc cựu chiến binh là phụ, việc quan trong nhất là chống “tự diễn biến” trong giới cựu chiến binh. Thứ sáu là Hội Liên Hiệp Phụ Nữ. Hội này chẳng giúp gì cho phụ nữ cả. Phụ nữ bị bạo hành, thường là họ ngó lơ. Công việc của họ là giám sát giới phụ nữ, nếu manh nha lập hội phụ nữ độc lập thì báo cho 2 nhà nước kia lùa công an đến bắt, xua tòa án đến xử và bỏ tù để triệt tiêu xã hội dân sự trong giới phụ nữ. Nhà nước “mặt trận trổ quốc Việt Nam” quản lý 6 cơ quan trá hình. 6 cơ quan này tạo thành một bộ máy giám sát khổng lồ phủ kín Việt Nam từ trung ương đến địa phương. Nó chính là thành trì, là bộ lọc để loại bỏ tất cả mọi tổ chức dân sự trong mọi lĩnh vực trên toàn bộ đất nước này. Đó là với nhân dân, còn với thế giới, mặt trận tổ quốc có nhiệm vụ dùng các hội trực thuốc để lừa gạt thế giới rằng “Việt Nam có tổ chức dân sự”. Ngoài 6 hội lớn đó ra còn rất nhiều hội lóc nhóc rất nhiều như: hội nhà văn, hội nhiếp ảnh, hội nhà báo, hội luật sư vv… Nói chung, đã là hội thì hoặc thuộc sự quản lí của mặt trận tổ quốc hoặc bị tiêu diệt. Như vậy nhà nước thứ nhất cai trị đảng viên, nhà nước thứ nhì cai trị nhân dân, nhà nước thứ ba kiểm soát tư tưởng toàn dân. Hầu hết nhà nước nào cũng nhắm đến nhân dân cả. Nhà nước thứ nhất mang tiếng cai trị đảng viên nhưng hầu hết đảng viên là phục tùng đảng vô điều kiện, nên nhà nước thứ nhất chủ yếu là ra chủ trương cho nhà nước thứ nhì thi hành. Khi nhà nước thì nhì thi hành thì nhà nước thứ 3 có nhiệm giám sát để phát hiện và loại bỏ sự bất phục tùng của người dân. Nói tóm lại, dân Việt Nam bị cùm rất chặt bởi 3 nhà nước này. Và với 3 cái cùm đó thì ĐCS kéo cổ dân tộc này đi đâu cũng được, thậm chí họ kéo cổ dân tộc giao cho ông Trung Cộng là hoàn toàn trong tầm tay. Ba cái cùm kinh khủng như thế bập vào cổ thì dân tộc này thoát đằng nào? Có lẽ là “thoát đằng trời”! -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://vi.wikipedia.org/…/M%E1%BA%B7t_tr%E1%BA%ADn_T…  
......

Sự mông muội của người Việt

Chen chúc dự lễ hội đầu năm tại Chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam, trong thời đại dịch Covid-19 mà không có sự ngăn cản hay khuyến cáo nào từ phía chính quyền. Tân Phong – Việt Tân| Trong khi cơn dịch bệnh chết người Covid-19 vẫn còn rình rập ngoài cộng đồng, thì những ngôi chùa thương mại ngàn tỷ như Bái Đính, Tam Chúc mở cửa đón hàng vạn du khách trong những ngày lễ đầu năm mà không có sự ngăn cản hay khuyến cáo của chính quyền. Đám đông chúng sinh trần tục có niềm tin mãnh liệt rằng chỉ cần “lễ hậu, khấn hay” thì thần linh sẽ che chở bảo vệ họ miễn nhiễm trước dịch bệnh, ban phước lành, tài lộc. Họ thành kính khấn vái, dâng lễ cúng dường, công đức tiền triệu, tiền tỷ để mong nhận được phần lợi ích lớn hơn từ thần thánh. Một cuộc đổi trao mua bán rất sòng phẳng giữa đám người mắt thịt với giới siêu hình. Cứ bảo “trần sao âm vậy,” khi tham nhũng đã là “văn hóa” thì chốn gọi là Cửa Không cũng tràn ngập tiền tài, sắc dục, tham – sân – si. Người dương đút lót thánh thần mong được danh vọng, phước báu mà chẳng cần cố công tu tạo cái gốc Nhân Đức, sau khi đã gây bao nhiêu tội lỗi ở chốn nhân gian. Chẳng biết thần thánh nào có ghi nhận “công đức” của đám chúng sinh đó không? Nhưng tiền cúng dường thì đương nhiên sẽ gửi vào tài khoản của sư chủ trì và doanh nghiệp, chủ đầu tư những ngôi chùa thương mại hoành tráng đó mà chẳng bao giờ phải đóng một xu tiền thuế. Thời buổi Covid, doanh nghiệp “9 phần chết, một phần ngắc ngoải” nhưng chùa chiền thì lúc nào cũng thu trăm tỷ, ngàn tỷ mỗi năm. Xã hội càng bại hoại, lòng người càng đổ nát, thì thần thánh và cả ma quỉ lại càng thịnh vượng, đám sư sãi quốc doanh càng giàu có. Chúng sinh phàm trần thì ngụp lặn mòn mỏi trong vòng danh lợi, gào xin quỉ thần vô hình hầu mong được ban phát ân huệ, cúc cung dâng tiền vàng của cho đám thày chùa mặt lọng thịt mỡ. Thật là một vòng luẩn quẩn, biếm nhạo kiếp nhân sinh đọa đầy, mông muội, dưới chế độ “xã hội chủ nghĩa ưu việt.” Người Việt có một đời sống tâm linh và tín ngưỡng đa dạng nhiều khi đi đến chỗ… hỗn tạp. Họ thờ phượng bất cứ ai, bất cứ thứ gì mà họ tin rằng sẽ đem lại lợi lộc cho họ. Là quốc gia mà hầu hết mọi người đều ghi trong lý lịch tôn giáo là Phật Giáo nhưng kỳ thực số người tu tập, học hiểu cội nguồn tín ngưỡng của mình là thiểu số vô cùng ít ỏi. Theo dòng lịch sử, sự giao thoa văn hóa  giữa các chủng người, quá trình phong thần, phong thánh từ những huyền sử và thần tích mờ phai trong suốt mấy ngàn năm chồng chất khiến cho thế giới vô hình ngập tràn những quỉ thần hư ảo. Cả Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Balamon, Đạo Giáo, Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo, đa thần giáo, các totem từ thủa hồng hoang cũng đều song hành cùng tồn tại cho đến tận ngày nay với sức mạnh được vun đắp bởi đám đông vô minh ngày một đông đúc. Có một xu hướng méo mó và quái thai đáng chú ý về đời sống tâm linh và tín ngưỡng ở Việt Nam ngày nay. Khoảng 20 năm trở lại đây, đảng Cộng Sản Việt Nam sử dụng các hệ thống tôn giáo quốc doanh như một cỗ máy tuyên truyền quan trọng trong việc lừa mị dân, phổ biến những thứ tín ngưỡng lai tạp giữa giáo lý của nhà Phật với chủ nghĩa vô thần cộng sản như kiểu tuyên truyền hình tượng “bồ tát hồ chí minh” mà mục đích cuối cùng là ghi khắc vào đầu óc mê muội của đám chúng sinh phải luôn ghi nhớ công ơn của “bác và đảng,” tuân phục những gông ách được luật hóa, và tôn sùng những lãnh tụ cộng sản như Phật Thánh. Những người được đảng đưa sang đào tạo ở Trung Quốc trở về nước thành “nhà sư”  và được cho về trụ trì ở những ngôi chùa lớn, ngày đêm rao giảng thuyết pháp những lý lẽ trái ngược với lịch sử, đạo lý nhà Phật, dần dần biến đổi tính chất nguyên thủy của những tôn giáo có lịch sử hàng ngàn năm nay bằng giáo lý cộng sản. Đáng thương thay người Việt đã chịu bao nhiêu gông cùm trong xã hội toàn trị, tuyệt vọng với nhân sinh, họ tìm đến nơi chùa chiền để hầu mong có được chút chở che từ cõi vô hình thì lại rơi vào tay bọn “thầy chùa” mang thẻ ngành an ninh tôn giáo. Thật châm biếm, khi chỉ trước đây không lâu, chủ nghĩa vô thần cộng sản cũng đã từng nỗ lực không kém trong việc xóa bỏ, hủy hoại các tôn giáo cổ xưa bằng bạo lực. Những ngôi chùa hàng trăm năm lưu giữ linh khí đất trời bị đập phá không thương tiếc. Giờ đây, họ lại phục dựng lại những hình hài Thần Thánh bằng việc xây cất lên những ngôi chùa thương mại ngàn tỷ, những bức tượng ngọc lớn nhất thế giới nhưng thay vào đó bằng một hệ thống giáo lý ngày một tiệm tiến đến môt thứ tôn giáo chính trị mà ở đó giáo chủ duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam! Có những tôn giáo như Phật Giáo Hòa Hảo thì bị nhà cầm quyền trắng trợn cướp mất giáo đường, lập ra chi nhánh quốc doanh, dùng truyền thông và áp lực nhà nước để đánh tráo nguồn gốc lịch sử giáo phái… Có bao nhiêu nhà thờ Công Giáo bị chính thể CSVN cướp bóc, thu giữ, phá hủy trên đất nước này?  Nhiều không kể xiết. Hồ Chí Minh – kẻ đã rước thứ chủ thuyết cộng sản tàn hại đất nước này, gây ra cuộc binh đao Nam – Bắc cướp đi hàng triệu sinh mạng, giết hại hàng trăm ngàn người dân vô tội trong những cuộc cải cách ruộng đất, lúc sống thì vô thần, khi chết lại muốn cướp luôn cả niết bàn, tòa sen. Đám con rơi (Nông Đức Mạnh), cháu nhặt (Thích Chân Quang) không chỉ cắt đất nhượng biển cho Trung Quốc mà còn rao giảng những tuyên truyền lừa mị, bóp méo lịch sử, gây dựng tà đạo, mê muội dân chúng để phá hoại lâu dài gốc rễ văn hóa và lịch sử, cũng như nhận thức của người dân. Thật là một mối nguy hại to lớn cho đất nước Việt Nam. Nhìn đám dân chúng ùn ùn đi lễ chùa, xì sụp khấn vái những bức tượng vô tri sơn son thếp vàng những ngày đầu năm mới mà thấy ngao ngán thay cho cho sự mông muội vô hạn của người Việt. Tương lai nào dành cho một quốc gia như thế? Chợt nhớ đến lời khuyên gan ruột của Lương Khải Siêu với Phan Bội Châu về con đường thay đổi vận mệnh quốc gia. “Quý quốc không lo không có ngày độc lập, mà chỉ lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập…” mà lại thở dài, đau nỗi đau của Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu năm xưa: “Dân chín lăm triệu ai người lớn? Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.” Tân Phong https://viettan.org/su-mong-muoi-cua-nguoi-viet/
......

Ai tiếp tay làm cho dân ngu, chùa giả?

  Nguyễn Đình Bổn     Một cái... hơi giống cái chùa, và rất giống Tử cấm thành của Trung Quốc. Trong cái hình hài lai tạp này, có nhiều cái tượng bị gọi là tượng Phật, và một cái tượng đồng rất to, đặt chính diện để thờ ở tầng hai, là tượng bà Lan (đã mất), vợ của ông xây cái khu này, cùng "bảng ghi danh công trạng" của bà.   Đã không phải chùa, đã không phải tượng Phật, lại thờ chung đụng với một phụ nữ không ai biết là ai, thì những ai đến đây vái lạy, cúng kiếng là những kẻ ngu muội. Còn nếu thuần túy đi chơi thì cũng không... thông minh lắm, chen nhau toát mồ hôi như vậy thì du lịch cái chi đây?   Chỉ một người khôn, đó là ông Nguyễn Văn Trường, giám đốc Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường – chủ đầu tư dự án khu du lịch tâm linh chùa Tam Chúc này. Cần biết khu vực này được cấp đến 5.100 ha đất!   Ngoài ra ông này còn thực hiện nhiều nơi, nơi nào cũng được cấp cả ngàn ha đất có phong cảnh cực đẹp tại các tỉnh như Ninh Bình, Hà Nam, Hà Nội, Thái Nguyên... mà khu du lịch Tràng An - Bái Đính tại Ninh Bình hay quần thể chùa Tam Chúc, ngôi chùa lớn nhất thế giới, nằm trong khu "du lịch tâm linh" Tam Chúc - Ba Sao tỉnh Hà Nam là tiêu biểu.   Ai tiếp tay để ông này thu tóm đất đai, danh lam thắng cảnh của quốc gia thành của riêng? Tất nhiên là kẻ cầm quyền các cấp từ trung ương, tỉnh thành mới dám làm điều đó.   Còn ai tiếp tay để ngu dân? Đó là GHPGVN khi chọn nơi đăng cai đại lễ Vesak 2019 (Lễ Phật đản 2019) tại Tam Chúc.   Việt Nam đâu có thiếu chùa xưa, chùa thật, tại sao các ông chọn một cái chùa giả? Mục đích không phải làm ngu dân thì là gì? ***** NGU DÂN VỪA DỄ CAI TRỊ LẠI DỄ MOI TIỀN   - Nguyễn Lê Khánh Vy -   Ở VN đạo phật là tôn giáo chính. Nhưng giờ nó đã bị thoái hoá, biến dạng và dị hợm hơn mức tưởng tượng của người công chính trên đata nước VN nói riêng và trên thế giới nói chung.   Ngôi chùa Tam Chúc nổi tiếng, được toạ lạc trên Thị Trấn Ba Sao - Huyện Kim Bảng - Tỉnh Hà Nam. Là ngôi chùa lớn nhất VN, diện tích chùa là 4000ha, với nhiều cung điện, lăng tẩm và tượng phật rất lớn.   Ở VN có bao nhiêu ngọn núi bị xẻ xéo, để xây dựng lên những ngôi chùa như vậy?   Có bao nhiêu ông to bà lớn núp sau cánh cửa chùa để rửa tiền làm ăn phi pháp?   Có bao nhiêu tăng ni, phật tử bị bỏ bùa mê thuốc lú, tán gia bại sản vì những thứ sáo rỗng này?   Ai là người phê duyệt xây dựng những lăng tẩm trá hình để đưa dân tộc VN lầm đường lạc lối vào “mê tín dị đoan” không lối thoát?   Mỗi ngôi chùa ở VN mọc lên, chùa sau to lớn, đẹp hơn chùa trước. Thì chi phí và diện tích nó bỏ ra cũng lớn hơn. Doanh nghiệp phá rừng cướp đất của dân làm chùa thế mà người dân VN cứ hì hục cúi lạy. Hì hục khấn vái nhưng không biết rằng cái khổ cái nhục do mình gây ra và cũng tự do mình xoá bỏ, chứ không phải khấn vái nó sẽ biến mất.   Thay vì xây dựng những ngôi chùa lớn để làm dân VN u mê, mu muội. Chúng đầu tư xây dựng vào những công trình phúc lợi, dân sinh (điện, đường, trường, trạm) thì dân sẽ ủng hộ, và sẵn sàng nhường đất đai để công trình hoàn thiện nhanh nhất có thể ở khâu giải phóng mặt bằng.   Chùa Tam Chúc chủ thầu thuộc doanh nghiệp XUÂN TRƯỜNG địa chỉ Số 16, đường Xuân Thành, Phường Tân Thành, Thành phố Ninh Bình, Tỉnh Ninh Bình.   Chùa Tam Chúc là sân sau của cố chủ tịch nước Trần Đại Quang.   Tham khảo: https://nucuoimekong.com/chua-tam-chuc-ha-nam https://halotravel.vn/review-chua-tam-chuc/ Nguyễn Lê Khánh Vy (Biển Nắng)
......

Nguyên nhân lệnh cấm chiến sĩ Gạc Ma nổ súng:

Bị dí đến tình thế khó và sự đổi chác khốn nạn.   Đỗ Ngà   Đảng Cộng Sản (ĐCS) Việt Nam vốn chọn Liên Xô làm chỗ dựa chứ không phải chọn Trung Cộng, điều đó dẫn tới thái độ cứng với Trung Cộng và họ đã có một lần mạnh mẽ đối đầu với Trung Cộng năm 1979. Tuy nhiên chỗ dựa số một ấy đã bị lung lay khi mà Năm 1985 Gorbachev lên làm Tổng Bí Thư. Khi đó Liên Xô lo cải tổ kinh tế và cởi mở chính trị để vực đậy sự kiệt quệ kinh tế do thể chế cũ gây ra và cũng do nhiều năm mải mê chạy đua vũ trang với Mỹ và đến hồi đuối sức. Điều đó kéo theo sự bảo trợ về mặt quân sự của Liên Xô với các nước Đông Âu khác không còn như trước nữa.   Chế độ độc lài toàn trị của CS nó như một gọng cùm kìm chế sự trỗi dậy của người dân, nếu nhả gọng cùm ấy ra thì sức dân bật dậy. Và năm 1988, phong trào biểu tình nổi lên mạnh hơn ở Ba lan rồi lan sang các nước khác. Ở Việt Nam, thì tập đoàn chính trị Nguyễn Văn Linh - Đỗ Mười - Phạm Văn Đồng - Lê Đức Anh ắt nhìn thấy viễn cảnh đó. Liên Xô đã nhả dần gọng kìm bảo trợ ở các nước gần gũi Liên Xô thì không lý gì họ hết mình với Hà Nội. Như vậy là chỗ dựa lớn nhất của Hà Nội có nguy cơ không còn.   Chuyển chỗ dựa là nhu cầu cấp bách mà Nguyễn Văn Linh và 3 người còn lại phải tìm kiếm. Lịch sử ĐCS từ năm 1945 đến thời điểm đó cho thấy, chưa bao giờ ĐCS dám đứng độc lập. Khổ nỗi chỗ dựa thay thế Liên Xô chỉ có thể là ĐCS Tàu, mà Tàu lúc đó đang còn thù địch với với ĐCS Việt Nam nên việc làm hòa giải rất khó. Biết cái mà Tàu tham nhất là chủ quyền nên ĐCS đã chọn món hàng này để nhử Trung Cộng.   Để được thuần phục thì trước tiên phải biết tỏ thái độ thiện chí. Từ năm 1987 thì tình hình cho thấy, nội tình các nước CS Đông Âu đang xảy ra mâu thuẫn khó giải quyết và đến năm 1988 là biểu tình xảy ra rất nghiêm trọng ở Ba Lan. Trong khi đó người đứng đầu ĐCS Liên Xô đang có chiều hướng “tự diễn biến” nên bỏ rơi hàng loạt các chính quyền CS đàn em. Điều đó cũng có nghĩa là thành trì mà ĐCS Việt Nam tựa sắp mất, dù Liên Xô có sụp đổ hay không thì Gorbachev vẫn không muốn làm thế tựa lưng cho ai hết. Đó là tình hình chung.    Trong lúc chỗ dựa vững chắc sắp mất mà tình hình Biển Đông khá căng thẳng, sau khi lấy trọn Hoàng Sa năm 1974 thì bây giờ Trung Cộng đang cho cướp đảo ở Trường Sa. Đây là mối nguy cho đất nước, tuy nhiên nhóm Nguyễn Văn Linh – Đỗ Mười – Phạm Văn Đồng – Lê Đức Anh lại nhìn thấy cơ hội cho đảng. Thay vì dựa vào sức dân thì ĐCS lại không chọn vì sợ mất đảng, vậy nên nhóm này mới đi tới quyết định quy phục kẻ thù để mua lấy sự an toàn cho đảng.   Ai cũng biết cái mà Trung Cộng thèm thuồng nhất là chủ quyền Việt Nam. Ngoài món hàng này thì không có món hàng nào đáng giá để Bắc Kinh chấp nhận đổi lấy “tình hữu nghị” cả. Và kết quả là có một lệnh từ trung ương ban xuống cấm chiến sĩ đang giữ đảo Gạc Ma nổ súng, đó là thái độ chịu nhường để đổi lấy sự chú ý của Bắc Kinh. Và cũng từ thái độ đó, cộng thêm hàng loạt động thái mưa móc của nhóm bộ tứ Linh – Mười – Đồng – Anh thì đến năm 1990, Linh – Mười – Đồng được Bắc Kinh chấp thuận và sắp xếp cuộc gặp cấp cao chính thức tại Thành Đô.   Hội Nghị Thành Đô 1990 Sau hội nghị Thành Đô thì Việt Nam ngày một lệ thuộc hơn vào Bắc Kinh. Và phía Bắc Kinh cũng hiểu rằng, khi đẩy Hà Nội ở vào thế khó xử thì phía Hà Nội sẵn sàng đổi giang sơn lấy “hòa bình”. Đó là lý do tại sao hiện nay Trung Cộng lại dùng “chiến thuật vùng xám” để ứng xử với Việt Nam. Chiến thuật này là, vùng đất nào của Việt Nam thì Bắc Kinh biến nó thành vùng tranh chấp, vùng đang tranh chấp thì biến nó thành hiển nhiên của Bắc Kinh. Qua thời gian, bằng nhiều thủ đoạn khác nhau để ép Hà Nội vào thế khó để nhượng bộ thì Bắc Kinh cứ lấn tới. Và cứ như thế Trung Cộng gặm dần chủ quyền Việt Nam nhờ biết khai thác nhược điểm “thà mất chủ quyền chứ không bao giờ để mất đảng” của ĐCS.   Với bản chất như vậy, nếu có hàng ngàn chiến sĩ giữ đảo thì Hà Nội cũng thí mạng luôn chứ đừng nói chi 64 chiến sĩ giữ Gạc Ma?! Tuy ĐCS luôn hô hào những cái chết đó là “anh dũng hy sinh” nhưng thực chất những sinh mạng đó cùng với chủ quyền biển đảo là những món hàng rẻ rúng để đảng đổi lấy “tình hữu nghị” có giá trị to lớn hơn đảng mà thôi. Đó thực sự là nỗi đau quặn thắt mà dân tộc này đã gặp phải.   -Đỗ Ngà-   Tham khảo: https://www.youtube.com/watch?v=gjQ22CbxtHI  
......

Tàu góp phần làm cho kinh tế Mỹ phục hồi

“…có thể nói, sức mạnh đồng đô la Mỹ giúp cho nước Mỹ không kém gì những chính sách trừng phạt Tàu. Sức mạnh đồng đô la cũng là một công cụ lợi hại mà Tàu khó mà vượt Mỹ…” Đỗ Ngà Sau 2 tháng có vaccine giờ đây số người nhiễm Covid ở Mỹ giảm mạnh. Khi Covid giảm thì nền sản xuất, thương mại và dịch vụ của nước này cũng bắt đầu hồi phục. Các doanh nghiệp thì đang cần tiền để hồi phục, người dân cần tiền để mua sắm. Nói chung là nước Mỹ đang khát tiền. Trong cơn khát nước Mỹ thông qua gói cứu trợ bơm 1.900 tỷ USD giải khát thì chẳng khác nào nắng hạn lâu ngày gặp mưa rào. Nền kinh tế Mỹ sẽ hồi phục nhanh thôi. Đấy là những mặt lợi của gói 19.000 tỷ, còn mặt hại thì tất nhiên là nguy cơ lạm phát của đồng USD. Nền kinh tế hàng hóa chưa hồi phục kịp mà tiền thì thừa thãi kéo theo chỉ số giá tiêu dùng CPI sẽ tăng. Chính sách nào nó cũng có tính 2 mặt nên khi tung gói kích cầu phải cân nhắc. Việc nước Mỹ tung gói kích cầu đến gần 10% GDP là một khoản tiền rất lớn, nếu không phải là nước Mỹ mà là nước khác thì họ không có dư địa nhiều để kìm chế lạm phát. Theo Viện nghiên cứu về chính sách công Brookings tại Washington DC cho biết, ước tính gói kích thích này sẽ đẩy GDP của Mỹ tăng 4% vào cuối năm 2021, với 2% vào cuối năm 2022 và ở mức không đáng kể vào năm 2023 so với kịch bản nếu không có gói kích thích này. Đến năm 2023, nền kinh tế Mỹ về cơ bản là trở lại quỹ đạo tăng trưởng dự báo đạt được trước khi xảy ra đại dịch. Nói tóm lại là gói kích cầu này nó sẽ ảnh hưởng nền kinh tế Mỹ trong vòng 2 năm. Vì thế nhiều nước trên thế giới đã và đang lên chính sách để kiếm đô la từ gói 1.900 tỷ này. Tại Trung Quốc, nơi mà Tập Cận Bình đang lên kế hoạch vượt Mỹ trong 10 năm tới thì họ cũng đang muốn kiếm đô cho nền kinh tế Tàu từ gói 1.900 tỷ này. Theo tờ Hoàn Cầu Thời Báo cho biết, dự định trong năm 2021 này Trung Cộng sẽ đẩy xuất khẩu sang Mỹ tăng 20%, một tỷ lệ tăng trưởng quá lớn bất chấp chính sách thuế của Donald Trump vẫn được Joe Biden giữ nguyên. Như vậy thì nước Tàu đang muốn mang hàng sang Mỹ giải quyết vấn đề khán hiếm hàng hóa cho nền kinh tế Mỹ và rút đô la về Tàu để giải quyết nạn thừa tiền của nền kinh tế Mỹ. Vậy rõ ràng là Trung Cộng vô tình giúp Mỹ kìm chế lạm phát mặc dù họ rất ghét Mỹ. Tương tự như Trung Cộng, Việt Nam cũng đang đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ để kiếm đô la từ gói 1.900 tỷ đấy. Theo số liệu thương mại của Việt Nam thì xuất khẩu sang Mỹ tháng 1/2021 đã tăng vọt 70,3% so cùng kỳ năm trước và 6,2% so với tháng 12/2020, đạt 8,2 tỷ USD. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã chiếm tới 28,7% tổng xuất khẩu của Việt Nam trong cùng tháng. Như vậy Việt Nam cũng góp phần làm giảm tình trạng thừa tiền thiếu hàng hóa cho nền kinh tế Mỹ, và chính họ cũng góp phần làm cho nền kinh tế Mỹ kìm hãm lạm phát. Và không những Việt Nam mà nhiều quốc gia khác cũng đang muốn như vậy. Vô tình chung, các nền kinh tế trên thế giúp Mỹ có dư địa rộng để tung gói kích cầu hồi phục kinh tế. Vào tuần trước, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - FED là Jerome Powell đã nói rằng, ngay cả khi giá hàng hóa tăng vào mùa xuân năm nay như dự đoán, thì ông cũng hy vọng thị trường sẽ từ từ tiến triển. Đồng thời, Chủ tịch Powell của FED nói là FED sẽ không thay đổi chính sách tiền tệ cho đến khi nền kinh tế Mỹ phục hồi. Như vậy khi gói kích thích bơm ra, thì giá cả có tăng, tuy nhiên sau đó những nước khác nhập hàng vào Mỹ và rút USD đi thì giá cả thị trường bình ổn trở lại. Đó là lý do chủ tịch của FED tuyên bố chính sách tiền tệ sẽ không đổi. Hiện nay sức mạnh vô đối của đồng đô la đã giúp nước Mỹ thực hiện nhiều chính sách kích thích kinh tế dễ dàng hơn những nước khác. Và với sức mạnh đồng đô la Mỹ thì nó cũng gián tiếp buộc nước Tàu phải giải quyết một phần bài toán khó của Mỹ dù muốn hay không. Vì vậy có thể nói, sức mạnh đồng đô la Mỹ giúp cho nước Mỹ không kém gì những chính sách trừng phạt Tàu. Sức mạnh đồng đô la cũng là một công cụ lợi hại mà Tàu khó mà vượt Mỹ. Đỗ Ngà   Tham khảo: https://covidusa.net/ https://www.globaltimes.cn/page/202103/1217612.shtml https://vietnambiz.vn/su-kien-thi-truong-ngoai-hoi-tuan... https://cafef.vn/goi-kich-thich-19-nghin-ty-usd-cua-my-se...  
......

Nguyễn Phú Trọng, gã “phù thủy” chơi “cờ người”

Nguyễn Văn Đài|     Những ai theo dõi con đường thăng quan tiến chức của Nguyễn Phú Trọng thì sẽ thấy Trọng từ một cậu bé ngây thơ đã trở thành một gã “phù thủy” như thế nào.   Trước tiên, tôi xin nói một chút về tuổi thơ và học hành của Nguyễn Phú Trọng, sau đó là con đường quan lộ và cuối cùng là Nguyễn Phú Trọng trở thành “Phù thủy” chơi “cờ người” từ khi nào.   Nguyễn Phú Trọng sinh ngày 14 tháng 4 năm 1944 tại thôn Lại Đà, xã Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc thôn Lại Đà, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội). Ông hiện cư trú nhà công vụ Số 5, Thiền Quang, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.   Gia đình Nguyễn Phú Trọng là gia đình thuần nông. Thân phụ của Nguyễn Phú Trọng tên là Nguyễn Phú Nội. Nguyễn Phú Trọng là con út trong gia đình có bốn anh chị em. Ngoài nghề làm nông, gia đình Nguyễn Phú Trọng còn làm thêm nghề bỏng mật. Theo những cụ già cùng trang lứa với Nguyễn Phú Trọng kể lại: lúc nhỏ, vì là nhà nghèo và là em út nên Nguyễn Phú Trọng thường hay phải mặc lại quần áo của các anh chị trong nhà và thường hay đi chân đất. Nên thường hay bị các bạn cùng trang lứa cười chê, khinh bỉ. Nguyễn Phú Trọng rất uất ức những không làm gì được. Nhưng trong sâu thẳm trong trí não của Nguyễn Phú Trọng đã có một quyết tâm rất lớn là phải dành được quyền lực, sự giàu có để trả thù cách êm dịu đám bạn dám coi thường và khinh miệt mình.   Năm 1963, Nguyễn Phú Trọng tốt nghiệp PTTH. Thời kỳ đó hầu hết thanh niên miền Bắc đều xung phong vào bộ đội, nhiều người viết đơn bằng máu.   Những người vào học đại học thì chủ yếu là lớp con em cán bộ tập kết miền Nam, các bạn nữ và những người học về kỹ thuật với mong muốn góp phần xây dựng đất nước khi kết thúc chiến tranh. Nguyễn Phú Trọng không dám nhập ngũ vì ông ta sợ chết thì không thể thực hiện được giấc mơ, tham vọng của mình.   Nguyễn Phú Trọng chọn ngành ngữ văn, để trau dồi kiến thức ăn nói, lý luận chuẩn bị cho con đường sự nghiệp của mình.   Tháng 12 năm 1967, tốt nghiệp đại học, Nguyễn Phú Trọng xin vào làm tại tập chí Học tập, nay là Tạp chí Cộng sản, một trong ba cơ quan tuyên truyền chính của đảng CSVN.   Thời kỳ lúc đó, chiến tranh rất khốc liệt, đảng CSVN đang dốc toàn lực để cưỡng chiếm miền Nam.   Gần như 100% thanh niên miền Bắc đều tham gia bộ đội, chỉ có tầng lớp con ông cháu cha thì mới trốn lính và những người khuyết tật. Nhưng Nguyễn Phú Trọng lại rất khỏe mạnh và không phải con ông cháu cha.   Nguyễn Phú Trọng lựa chọn rất khôn ngoan khi xin vào cơ quan tuyên truyền của đảng CSVN, vừa không sợ gọi lính vùa làm bàn đạp vững chắc để tiến thân. Một điều chắc chắn là Nguyễn Phú Trọng đọc hầu hết các sách lịch sử Trung Quốc cổ đại, nên Nguyễn Phú Trọng rất thâm hiểm trong mỗi mưu kế của ông ta.   Tháng 8 năm 1973, Nguyễn Phú Trọng giỏi ăn nói và nịnh hót nên được chọn đi học lớp nghiên cứu sinh về kinh tế chính trị tại Trường Nguyễn Ái Quốc, nay là Học viện chính trị Quốc gia HCM. Trọng kết thúc khóa học vào tháng 4 năm 1976. Tháng 9 năm 1981, như có phù thủy dẫn đường, Nguyễn Phú Trọng được cử sang Liên Xô nghiên cứu luận án Phó tiến sĩ. Nhưng chỉ sau 2 năm, Nguyễn Phú Trọng vừa bảo vệ thành công luận án Phó TS Khoa học lịch sử lại còn viết thành công luận án tiến sĩ xây dựng đảng tại Viện hàn lâm khoa học xã hội Liên xô.   Dư luận cho rằng với 2 năm, học tiếng Nga chưa xong, chứ nói gì tới việc bảo vệ thành công luận Phó TS và viết luận văn Tiến sĩ bằng tiếng Nga??? Tháng 8 năm 1983, Nguyễn Phú Trọng về nước và tiếp tục làm việc tại Tạp chí Cộng sản.   Con đường quan lộ của Nguyễn Phú Trọng bắt đầu từ đây với chức vụ đầu tiên là Phó Ban biên tập vào tháng 10 năm 1983, Trưởng ban vào tháng 9 năm 1987. Nguyễn Phú Trọng không phải là con ông cháu cha, không phải hạt giống đỏ. Nhưng Nguyễn Phú Trọng là “con lươn”, “con trạch” luồn lách giữa các phe nhóm, phe phái để từng bước đoạt tới những nấc thang quyền lực mà ông ta đã sắp xếp trong kế hoạch của mình.   Tới tháng 1 năm 1994, Nguyễn Phú Trọng đã vào được trung ương. Tới tháng 8 năm 1999, Nguyễn Phú Trọng đã tham gia thường trực Bộ chính trị. Tới tháng 1 năm 2000, Nguyễn Phú Trọng nắm được ghế Bí thư Hà Nội, kiêm Chủ tịch Hội đồng lý luận TƯ.   Năm 2006, được sự nâng đỡ của Nguyễn Văn An, Nguyễn Phú Trọng nắm ghế Chủ tịch Quốc hội.   Dư luận lúc đó rất bi quan, bởi dưới thời ông Nguyễn Văn An làm Chủ tịch QH, thì QH lúc đó đã có rất nhiều cải cách đem lại chút phấn khởi cho người dân. Lúc đó biệt danh “Trọng lú” đã phát tán ra dư luận xã hội. Mọi người nghĩ chủ nghĩa bảo thủ Nguyễn Phú Trọng quay trở lại. Đồng thời trong nhiệm kỳ 2006-2011 là cuộc đấu rất quyết liệt giữa hai phe Hồ Đức Việt và Nguyễn Tấn Dũng.   Hồ Đức Việt lúc đó là Trưởng ban tổ chức Trung ương với tham vọng chiếm ghế Tổng bí thư và hạ Nguyễn Tấn Dũng.   Nguyễn Phú Trọng rất ranh ma, thủ đoạn. Nằm trong tứ trụ, trên cương vị Chủ tịch QH, Trọng như “con lươn”, “con trạch” luồn lách, né tránh hai phe, không ra mặt ủng hộ bên nào. Trọng giả làm người tử tế. Nhưng trong lòng ấp ủ đầy những mưu mô, thủ đoạn, và Trọng quan sát những điểm mạnh, điểm yếu của từng đối thủ.   Kết quả, cuối cùng tại Đại hội 11 năm 2011, Hồ Đức Việt bị phe Nguyễn Tấn Dũng hạ nốc ao, phải ôm hận về vườn. Sau đó ít lâu thì Hồ Đức Việt ngã bệnh mà chết khi còn trẻ, nhưng dư luận cho rằng Việt bị phe Nguyễn Tấn Dũng đầu độc sau các chuyến Việt đi công tác tại miền Nam.   Đây cũng là lý do mà Nguyễn Phú Trọng sợ Nguyễn Tấn Dũng tới mức trong nhiệm kỳ đầu Tổng BT, Trọng không dám bén mảng tới miền Nam. Và rồi, “ngư ông đắc lợi”, Nguyễn Phú Trọng được các phe phái thống nhất lựa chọn ngồi vào ghế Tổng BT tại đại hội 11, tháng 1 năm 2011. Vì các phe phái cho rằng Nguyễn Phú Trọng cũng sẽ là phiên bản bù nhìn của Nông Đức Mạnh, ngồi đó làm bình che cho cả một chế độ tham nhũng. Nhưng Nguyễn Phú Trọng là kẻ cuồng đảng, cuồng chế độ độc tài CSVN.   Sau nhiều năm ngồi quan sát thế sự, Trọng nhận ra rằng nếu cứ để các phe phái đánh nhau, tranh đoạt quyền chức, tranh đoạt lợi ích, tham nhũng thì sớm muộn chế độ này cũng sẽ sụp đổ. Trọng vẫn biết, tham nhũng là bản chất của chế độ, không có tham nhũng thì chẳng có ai bảo vệ chế độ cả.   Nhưng Trọng muốn tham nhũng phải trong trật tự, bảo nhau mà tham nhũng, đừng đánh nhau vì miếng ăn bẩn thỉu mà người dân biết được.   Nguyễn Phú Trọng quyết định ra tay hạ phe nhóm của Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị trung ương 6 vào tháng 10 năm 2012. Nhưng Nguyễn Phú Trọng còn thiếu kinh nghiệm, chưa tập hợp đủ lực lượng nên Trọng đã bị Nguyễn Tấn Dũng và Tô Lâm sỉ nhục tại Hội nghị.   Thất bại ê chề, ai cũng nghĩ Nguyễn Phú Trọng sẽ bị phe Nguyễn Tấn Dũng hạ bệ tại Đại hội 12 năm 2016. Và Nguyễn Tấn Dũng sẽ đoạt ghế Tổng bí thư, còn Trọng về vườn làm người tử tế. Nhưng với những kiến thức uyên thâm của sử Tàu được Nguyễn Phú Trọng áp dụng. Nguyễn Phú Trọng đã trở thành “Phù thủy” chơi “cờ người” từ Đại hội 12. Nguyễn Phú Trọng hạ “knock out” Nguyễn Tấn Dũng, sau đó “đốt lò” hạ hầu hết đàn em của Nguyễn Tấn Dũng.   Tại các Hội nghị trung ương 13, 14, 15 và tại Đại hội 13, mặc dù Nguyễn Xuân Phúc luôn luôn giành được số phiếu tín nhiệm cao hơn Nguyễn Phú Trọng.   Nhưng Phúc không thể hạ được Trọng để giành ghế Tổng bí thư mà còn mất luôn ghế Thủ tướng và đành ngậm ngùi chấp nhận ghế Chủ tịch nước theo sự sắp xếp của Trọng.   “Phù thủy” chơi “cờ người” Nguyễn Phú Trọng tuy già, bệnh hoạn, chân tay run rẩy, nhưng vẫn là một cao thủ xuất sắc khi sắp xếp cho Phạm Minh Chính ngồi ghế Thủ tướng để chuẩn bị cho sự thay thế chính ông ta.   Một mình “Phù thủy” Nguyễn Phú Trọng chấp cả 200 ủy viên Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư và chấp luôn 5,2 triệu đảng viên cùng với gần 100 triệu dân Việt Nam để mình ông ta chơi “cờ người” trên bàn cờ chính trị độc tài CSVN.  
......

Về cuộc chiến giang hồ "xã hội vàng"

bà Nguyễn Phương Hằng vợ ông Huỳnh Uy Dũng (Dũng lò vôi, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Đại Nam) cho biết đã nộp đơn tố cáo ông Võ Hoàng Yên Thao Ngoc|     Hiện nay có ba cuộc chiến đang làm náo loạn xã hội VN. Đó là cuộc chiến giữa giang hồ xã hội đỏ, giang hồ xã hội vàng và giang hồ xã hội đen.   Dù được nấp bóng dưới những cụm từ mỹ miều nào, thì thực chất đây chỉ là những băng đảng xã hội. Chỉ khác nhau ở cách tổ chức, quy mô và phương thức hoạt động mà thôi.   Về cuộc chiến giữa giang hồ xã hội đỏ: Đây là cuộc chiến tranh giành quyền lực, giành ghế rất khốc liệt. Nạn nhân thường “kết thúc sự nghiệp” bởi những cái chết bi thảm, như virus lạ, té lầu, hay bị đột quỵ ngay nơi làm việc.. v.v..   Về cuộc chiến của giang hồ xã hội đen thường là những vụ chém giết đầy máu me không nương tay để tranh giành địa bàn, tranh giành quyền lợi.   Về cuộc chiến của giang hồ xã hội vàng lại mang một màu sắc khác. Cũng là tranh giành lãnh thổ, tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng. Nhưng được ngụy trang bởi màu sắc tâm linh và từ thiện. Không ngoài mục đích là thu lợi từ các hoạt động buôn thần bán thánh và mê tín dị đoan. Thời gian gần đây, báo chí và mạng xã hội tràn ngập thông tin vợ chồng ông Dũng lò vôi tố cáo “thần y” Võ Hoàng Yến lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng.   Báo Pháp Luật TP.HCM ra ngày 05/3/2021có bài: “Vợ ông Dũng 'lò vôi' tố cáo 'thần y' Võ Hoàng Yên lừa đảo”. Trong đơn tố cáo bà Hằng nêu rõ, lợi dụng lòng tin của vợ chồng ông Dũng lò vôi, lương y Võ Hoàng Yên đã lừa đảo số tiền152 tỉ đồng. (https://plo.vn/.../vo-ong-dung-lo-voi-to-cao-than-y-vo...)   Vậy Dũng lò vôi là ai?   Huỳnh Uy Dũng tên thật là Huỳnh Phi Dũng, có biệt danh là Dũng lò vô Huỳnh Uy Dũng tên thật là Huỳnh Phi Dũng, có biệt danh là Dũng lò vôi, vì đã từng làm nghề đốt vôi, sinh năm 1961, quê Bình Định, trước đây theo nghiệp lính. Sau khi xuất ngũ, Dũng vào sinh sống ở Bình Dương và kết hôn với bà Trần Thị Tuyết lớn hơn ông ta 6 tuổi, là con gái ông Ba Thu, Giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh Sông Bé(cũ), .   Sau đám cưới, ông Ba Thu xin cho con rề vào làm nhân viên Phòng tổ chức Sở công an, sau đó Huỳnh Phi Dũng chuyển sang phòng hậu cần. Tài sản duy nhất cùa hai vợ chồng Dũng sau khi cưới là chiếc xe Honda đam trị giá ba cây vàng. Huỳnh Uy Dũng từng là Đại biểu Quốc hội khóa X(1996-2001).   Dũng lò vôi giàu cỡ nào? Nhờ uy thế của bố vợ, cùng với cách vận dụng các mối quan hệ và khéo luồn lách, từ một người bần hàn, nay Dũng lò vôi là một trong những người giàu nhất VN. Theo nhiều thộng tin, tài sản của Dũng khoảng 50.000 tỉ đồng(hơn hai tỷ đô).   Cụ thể: Tại các khu công nghiệp Sóng Thần 1,Sóng Thần 2 và Sóng Thần 3 có tổng diện tích là 533,846 ha. Khu du lịch Đại Nam được xây dựng tại phường Hiệp An, Thành phố Thủ Dầu Một có tổng diện tích hơn 700ha, với quy mô đầu tư 6.000 tỉ đồng được khởi công xây dựng từ năm 1999, đến năm 2008 mới chính thức mở cửa đón khách.   Ngoài ra, vợ chồng Dũng lò vôi còn sở hữu nhiều quỹ đất lớn, phát triển các dự án như triển Khu đô thị Trung Tâm hành chính huyện Dĩ An, Khu dân cư Sóng Thần, Khu đô thị thương mại dịch vụ Sóng Thần…   Nhưng đất đai không phải là sản phẩm của Huỳnh Phi Dũng làm ra. Đó là mồ hôi, nước mắt và xương máu cùa người dân Bình Dương khai khẩn, gìn giữ, là phương tiện để bà con kiếm miếng cơm manh áo tự ngàn đời.   Huỳnh Phi Dũng, từ một kẻ không một tấc đất cắm dùi, trở thành chủ của bạt ngàn đồng xôi ruộng mật, xây núi non, thành quách đền đài trên xương cốt cùa dân lành. Sau khi có sự nghiệp lừng lẫy, Dũng li dị vợ già để kết hôn với Nguyễn Phương Hằng   Nguyễn Phương Hằng là ai? Nguyễn Phương Hằng   Nguyễn Phương Hằng tên thật là Nguyễn Thị Thanh Tuyền, biệt danh “Hằng Canada”,vốn là Việt kiều Canada, có chồng là Trần Văn Thìn.   Trong quá trình chung vốn làm ăn và “sang tên đổi chủ”, kết quả cuối cùng ai cũng biết: Là Nguyễn Phương Hằng cướp chồng của Trần Thị Tuyết, Huỳnh Uy Dũng cướp vợ của Trần Văn Thìn. “Thần y” Võ Hoàng Yên là ai?   Võ Hoàng Yên(VHY) sinh năm 1975, quê ở Ấp Cái Nước, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, trong một gia đình rất nghèo. Khi còn nhỏ, vì nhà rất nghèo nên gia đình đã gửi ông vào chùa Hưng Nghĩa Tự (thị trấn Cái Nước). Ở đó, ông được các thượng tọa chỉ dạy phương pháp trị bệnh bằng phương pháp y học cổ truyền.   Từ một thầy thuốc Đông ý vô danh tiểu tốt không có bằng cấp chuyên môn, nhưng bằng các thủ đoạn lừa bịp siêu hạng của mình, cùng với sự “chống lưng” của một số kẻ có tiếng tăm, nên VHY đã được phong là “Thần y”, nhờ đó Yên đã lừa gạt được rất nhiều người.   Trong số những người chống lưng cho VHY, đầu tiên phải kể đến Đại đức Thích Nhật Từ, trụ trì chùa Giác Ngộ (Nguyễn Chí Thanh, Q10, Sài Gòn).   Thích Nhật Từ đã dùng mạng truyền thông và những lần thuyết pháp tại chùa Giác Ngộ, để gạt gẫm hàng ngàn bệnh nhân trên khắp cả nước, và lớn tiếng tuyên bố rằng, các phương pháp chữa bệnh của VHY đã được các Giáo sư Bác sĩ chuyên ngành, các nhà khoa học công nhận là có cơ sở khoa học, và kết quả tốt. Rằng các ý kiến nói VHY lừa đảo là do “ghen ăn tức ở”.v.v.   Nhưng đến nay, khi bị vợ chồng Dũng lò vôi tố cáo VHY lừa đảo, và khi báo chí và mạng xã hội đồng loạt vạch trần những thủ đoạn lừa đảo của VHY và đồng bọn, thì Thích Nhật Từ đã có hành động lưu manh là dùng email chuagiacngovn@gmail.com để báo cáo với bên chủ quản facebook về tác quyền đoạn clip mà Nhật Từ lừa gạt bá tánh, buộc facebook phải gỡ bỏ những clip được xem là bằng chứng tố cáo Thích Nhật Từ lừa gạt.   Nhưng vì không thành công, nên Thích Nhật Từ đã xóa hết các clip cũng như những bài thuyết pháp tuyên truyền cho “Thần y” VHY.   Nói trắng ra là Thích Nhật Từ đã tiếp tay cho những hành động lừa đảo của VHY, nhằm chiếm đoạt tiền, là mồ hôi nước mắt của rất nhiều người nghèo bệnh tật. Hành động này của Thích Nhật Từ phải bị nghiêm trị mới đúng. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao giữa vợ chồng Dũng lò vôi và VHY bỗng nhiên nổi sóng?   Dũng lò vôi đã cùng VHY xây dựng ba trung tâm khám chữa bệnh tại Bình Phước, tại Bình Dương và Bình Thuận. Thực ra 3 dự án bất động sản mà Dũng lò vôi và VHY kết hợp xây dựng, thuần túy là những dự án phân lô bán nền, nhưng được gắn nhãn mác "chùa, hay cứu người giúp đời", kèm thương hiệu "thần y Võ Hoàng Yên".   Nói trắng ra là Dũng lò vôi cũng đã trục lợi ngàn tỷ từ danh tiếng của “Thần y” VHY. Tuy đã lợi dụng nhau để làm giàu bất chính, và khi đụng chạm đến quyền lợi thì những mâu thuẫn âm ỷ đương nhiên bật ra. Và khi 2 bên không đạt được những thỏa thuận nào đó, thế là choảng nhau.   Đó chính là cuộc chiến một mất một còn của giang hồ vàng, hiện đang tồn tại trên mảnh đất hình chữ S này.   Thao Ngoc 13/3  
......

Nước Mỹ kế thừa và phát triển

Đỗ Ngà     Ngày 18.02.2021 Tổng thống Jobiden cho ra soát lại các chuỗi cung ứng công nghệ liên quan với Mỹ mà trong đó Trung Quốc đóng vai trò quan trọng, thì ngày 24.02 ông ký một sắc lệnh hành pháp nhằm vào việc loại bỏ vai trò Trung Cộng trong các chuỗi cung ứng này. Sắc lệnh ký chưa được 20 ngày là chính phủ Hoa Kỳ đã bắt tay hành động.   Được biết, trong ngành công nghệ bán dẫn, Mỹ là quốc gia cung cấp sản phẩm chip cho các tập đoàn công nghệ lớn của Tàu, ngược lại Trung Quốc đang là nước cung cấp đất hiếm làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp bán dẫn. Đấy là sự ràng buộc qua lại. Ý của Mỹ là muốn cắt đường cung cấp chip để bóp chết các đại gia công nghệ Tàu nhưng vướng đất hiếm. Chỉ cần tìm nguồn cung đất hiếm thay thế thì Mỹ thoải mái bóp cổ Tàu mà không ngại bị Tàu trả đũa. Đó là vấn đề mấu chốt.   Cách làm việc của Tổng thống Biden giống như con người ông vậy, không ồn ào nhưng đi bước nào chắc bước đó. Được biết trước đây, Huawei đã bị Tổng thống Donald Trump tròng thòng lọng vào cổ, thì giờ Tổng thống Joe Biden lại dùng tay siết mạnh hơn. Theo Vneconomy dẫn lời của Reuters thì trong tuần vừa qua, chính quyền Biden đã cho sửa đổi giấy phép cấp cho các doanh nghiệp Mỹ bán hàng cho Tập đoàn công nghệ viễn thông Huawei. Mục đích là hạn chế hơn nữa nguồn cung chip để sử dụng cho thiết bị 5G của Huawei. Reuters cho rằng quyết định trên của Mỹ có thể làm gián đoạn hoặc phá vỡ các hợp đồng hiện tại với Huawei, vốn được ký kết theo các giấy phép trước đó.   Động thái này của Tổng thống Biden thì trước sau gì phía Trung Cộng cũng siết lại nguồn cung đất hiếm. Tuy nhiên, ông Biden cũng đã chuẩn bị tình huống. Song hành với việc trừng phạt Huawei thì ông cũng đang có động thái chuẩn bị. Được biết, hôm nay ngày 12.03, bộ tứ kim cương gồm Mỹ, Nhật, Úc và Ấn họp nhau bàn về kế hoạch giảm phụ thuộc đất hiếm vào Trung Cộng.   Thực ra đất hiếm của Mỹ và Úc vẫn có, tuy nhiên vì công nghệ tinh chế đất hiếm gây ô nhiễm môi trường nặng nên Mỹ chỉ khai thác đất hiếm thô xuất sang Trung Quốc, Trung Quốc dùng nguồn đất hiếm thô nhập và đất hiếm thô khai thác nội địa sản xuất ra đất hiếm tinh chế rồi xuất sang Mỹ phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn. Nay trong bộ tứ Kim Cương có Ấn Độ là nước nghèo sẵn sàng thay thế Trung Cộng xây dựng ngành công nghiệp khai thác và tinh chế đất hiếm, họ có thể nhập đất hiếm thô từ Mỹ và Úc, sau đó tinh chế rồi xuất sang Mỹ nhằm thay thế dần nguồn cung từ Trung Quốc.   Được biết vào năm 2010, khi mà Trung Quốc với Nhật leo thang tranh chấp quần đảo Senkaku thì phía Trung Quốc chơi trò ngừng xuất đất hiếm sang Nhật. Lúc đó, giá một số kim loại thuộc nhóm này đã tăng vọt gần 9 lần. Nhật cũng cay Trung Cộng về trò ngưng xuất đất hiếm này lắm, tuy nhiên bao năm qua Tokyo vẫn ngậm bồ hòn làm ngọt phải nhượng Bắc Kinh ít nhiều. Nay có nguyên bộ tứ, và trong bộ tứ này có một thị trường tỷ dân thì về lâu về dài, Nhật có thể rời xa dần sự ràng buộc bất đắc dĩ với Bắc Kinh.   Lần này bộ tứ Kim Cương không chỉ bàn về quân sự mà còn bàn về cả giải pháp kinh tế, một bước tiến lớn để bộ tứ này đi đến hợp tác cả về kinh tế và quân sự nhằm tạo 2 gọng kìm kiểm soát sự lớn mạnh của Trung Cộng. Như vậy, Tổng thống Joe Biden không những không lật chính sách này của người tiền nhiệm Donald Trump mà ông còn phát triển nó lên mức toàn diện hơn.   Phản ứng trước kế hoạch của Tổng thống Joe Biden, tờ Hoàn Cầu Thời Báo dẫn lời người phát ngôn bộ ngoại giao Trung Cộng Zhao Lijian rằng “Mỹ là một quốc gia không đáng tin" và ông ta kêu gọi Mỹ ngừng gây áp lực vô lý đối với công ty Trung Quốc và đề nghị họ làm nhiều điều có lợi hơn cho trao đổi song phương trong hợp tác công nghệ và thương mại.   Rõ ràng là trước hành động của Tổng thống Joe Biden thì Bắc Kinh đã phản ứng nhưng là phản ứng yếu ớt của kẻ ở chiếu dưới, tức phản ứng trong tư thế không có công cụ gì để trả đũa.   Thực ra mối đe dọa từ Trung Quốc đã được cơ quan FBI nghiên cứu và điều tra rất kỹ để cung cấp dữ liệu cho Tổng thống ra quyết định. Việc làm này được đặt nền tảng dưới thời Tổng thống Barack Obama và sau đó Tổng thống Donald Trump dùng kết quả điều tra này để ra chính sách. Và đến bây giờ là Tổng thống Joe Biden lại phát triển những gì mà Donald Trump đã làm dang dở. Đấy! Tổng thống Cộng Hòa Hay Tổng Thống Dân Chủ đấu nhau ì xèo để tranh ghế, nhưng cuối cùng ông nào lên thì họ cũng biết kế thừa những chính sách lớn có tính sống còn cho nước Mỹ, họ chẳng dại gì thù vặt mà phủ định nó cả. Như thế thì nước Mỹ không mạnh sao được?   -Đỗ Ngà-   Tham khảo: https://vietnamfinance.vn/chinh-quyen-ong-biden-giang-don... https://vietnambiz.vn/bo-tu-kim-cuong-lien-thu-de-pha-the... https://www.globaltimes.cn/page/202103/1218187.shtml https://www.fbi.gov/.../counterintelligence/the-china-threat  
......

Khi phá hoại trở thành bản chất

  Phạm Minh Vũ       Đây là công trình chào mừng thị xã Hoài Nhơn đón nhận danh hiệu "Đơn vị Anh hùng thời kỳ đổi mới". Công trình được triển khai trước Tết Tân Sửu 2021.   Để thực hiện công trình hợp với danh hiệu anh hùng này, UBND thị xã Hoài Nhơn đã giải tỏa hơn 5.000m2 đất rừng sản xuất (trồng keo) của người dân và đền bù giá trị cây trồng cho người dân. Hiện tại địa phương đang lên phương án đền bù, di dời 1 hộ dân sống dưới chân núi đến địa điểm an toàn để phòng ngừa việc sạt lở vào mùa mưa bão.   Nghĩa là để làm công trình anh hùng này, tỉnh Bình Định bạt núi và bất chấp có nguy cơ sạt lở. Khi hỏi lãnh đạo Thị xã, họ nói rằng: “Đây là công trình phục vụ lợi ích công cộng, làm đẹp cho thị xã Hoài Nhơn, chứ không phải công trình phục vụ lợi ích cá nhân”.   Công cộng thì thiếu gì cách làm, chỉ cần dựng cái bảng lên ghi chữ Thị xã Hoài Nhơn vào là được rồi. Chứ công cộng mà phải bạt núi rồi đền bù tiền cho dân, rồi bù thêm một ngôi nhà số tiền tốn có khi lên tới cả trăm tỷ đồng cho cái gọi là Anh Khùng này liệu có đáng?   Mà cũng phải, nếu dựng cái biển lên thì đâu có tiền để ăn chia, phải vẽ ra dự án thật khủng khiếp tốn hàng trăm tỷ, để có cái mà ăn.   Mà ăn kiểu này thì khốn nạn quá, bất chấp hệ sinh thái rừng, bất chấp tàn phá môi sinh và cả sinh mạng của nhân dân để mà ăn, thì cái ăn này thật tận cùng của khốn nạn.   Mà ăn và phá, thuộc về bản chất người cộng sản, muôn đời không thay đổi được.  
......

Đấu trường Đông Nam Á trong thời đại cạnh tranh giữa các đại cường

Foreign Affairs  -  Bilahari Kausikan Dịch giả: Trần Ngọc Cư Số tháng 3-4/2021 Khi còn là một nhà ngoại giao Singapore, tôi đã từng hỏi một người đồng cấp Việt Nam rằng sự thay đổi lãnh đạo sắp xảy ra ở Hà Nội có ý nghĩa như thế nào đối với quan hệ của đất nước ông ta với Trung Quốc. Ông trả lời: “Mọi nhà lãnh đạo Việt Nam phải hòa hợp với Trung Quốc, mọi nhà lãnh đạo Việt Nam phải đứng lên chống lại Trung Quốc, và nếu bạn không làm được cả hai điều này cùng một lúc thì bạn không xứng đáng là nhà lãnh đạo”. Khi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden bắt đầu nhiệm kỳ của mình, nhóm chuyên gia đối ngoại của ông nên chú ý đến những lời nói đó. Đông Nam Á là tâm điểm của cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Ở những mức độ khác nhau và trong những cung cách riêng của mình, mọi quốc gia trong khu vực đã áp dụng đường lối đó đối với Trung Quốc – và đối với cả Hoa Kỳ. Đông Nam Á luôn luôn là ngã tư chiến lược, nơi lợi ích của các đại cường giao nhau và đôi khi va chạm. Nó tự nhiên là một khu vực đa cực, không bao giờ nằm dưới sự kiểm soát của bất cứ một thế lực duy nhất nào từ bên ngoài, ngoại trừ trong thời gian ngắn bị Nhật Bản chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai. Sự cạnh tranh ngày nay giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ chỉ là một giai đoạn khác của một động lực đã nằm sẵn hằng thế kỷ trong bản năng sống còn của khu vực này, là cùng một lúc họ vừa phòng ngừa, vừa cân bằng, vừa hùa theo ăn có [hedge, balance, and bandwagon], điều này nằm trong DNA chính trị của khu vực. Người Mỹ dường như thấy khó nắm bắt được điều này. Họ có một xu hướng mạnh mẽ là nhìn khu vực này theo quan niệm nhị phân: nếu khu vực không phải là “tự do”, nó phải là “cộng sản”; nếu dân chủ không tiến tới, ắt hẳn nó đang thụt lùi; nếu Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) không ôm lấy Hoa Kỳ, tổ chức này có nguy cơ nằm trong túi áo của Trung Quốc. Thái độ giản lược hóa này đã dẫn đến một số thất bại về chính sách, trong đó, thảm hại nhất là Chiến tranh Việt Nam. Ba cuốn sách nổi bật đưa ra những điều chỉnh kịp thời đối với quan điểm sai lầm nói trên thông qua các bài tường thuật về sự hàm hồ và áy náy mà từng mỗi quốc gia Đông Nam Á đang cảm thấy khi họ nhìn về vai trò của Trung Quốc trong khu vực. “Under Beijing’s Shadow” [Dưới bóng Bắc Kinh] của Murray Hiebert là tác phẩm đồ sộ và trình bày khéo léo nhất trong ba tác phẩm. Giống như Hiebert, Sebastian Strangio tập trung vào mối quan hệ của Trung Quốc với các nước trong khu vực bằng cuốn “In the Dragon’s Shadow” [Dưới bóng con rồng] trong khi đó David Shambaugh đóng khung cuốn “Where Great Powers Meet” [Nơi các đại cường gặp gỡ] xoay quanh chủ đề cạnh tranh Hoa Kỳ-Trung Quốc. Tầm cỡ và sức nặng kinh tế của Trung Quốc chắc chắn gây lo lắng trong các nước láng giềng Đông Nam Á, những lo lắng đã trở nên ngày càng sâu sắc do chính sách đối ngoại hiếu chiến của Chủ tịch Tập Cận Bình. Nhưng những quan ngại này phải được cân nhắc so với sự cần thiết của việc duy trì các mối quan hệ chính trị và kinh tế với cường quốc lớn nhất này của châu Á. Không một quốc gia nào ở Đông Nam Á sẽ chấp nhận một mối quan hệ độc quyền với Trung Quốc hoặc với Hoa Kỳ hoặc với bất cứ cường quốc nào khác. Không một quốc gia nào dám chọn đứng về một phía. KHÔNG PHẢI VÌ LỢI ÍCH TẦM THƯỜNG TRƯỚC MẮT Nhiều nhà quan sát bên ngoài thường đinh ninh – có lẽ một cách vô ý thức nhưng vẫn xúc phạm – rằng các quốc gia trong khu vực đều tham nhũng hết thuốc chữa, ngây thơ đến chết người, khiến họ sẽ bán lợi ích quốc gia của mình cho một tô cháo. Tác giả của những cuốn sách này không mắc phải sai lầm đó. Không thể coi nhẹ các mối quan hệ kinh tế, nhưng không một thành viên ASEAN nào cấu trúc quan hệ của mình với Trung Quốc chỉ trên cơ sở thương mại và đầu tư. Chủ nghĩa dân tộc vẫn là một lực tác động chính trị mạnh mẽ. Hiebert đặc biệt thành thạo trong việc phơi bày những dòng chảy ngầm, mà ông mô tả khéo léo là “sự pha chế phức tạp giữa hy vọng và lo lắng”, giữa “dự kiến và bất an”, nằm bên dưới bề mặt quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng nhỏ hơn ở phía nam. Điều này đúng ngay cả với các quốc gia phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc, chẳng hạn như Campuchia và Lào. Trong số những phần mạnh nhất trong cuốn sách của Hiebert là những phần mà ông xem xét các quốc gia này, cho thấy sự phức tạp của thái độ đối với Trung Quốc và cách các quốc gia nhỏ vẫn có thể thực hiện quyền tự tung tự tác của mình bất chấp sự phụ thuộc của họ vào Bắc Kinh. Ví dụ, ông lưu ý cách các nhà lãnh đạo của Lào – một quốc gia “dân số thấp và mắc nợ nhiều” – đã dành 5 năm để tranh cãi với Trung Quốc về một dự án đường sắt để đảm bảo các điều khoản “họ có thể chấp nhận”. Tôi tình cờ đến Viêng Chăn, thủ đô của Lào, vào đầu năm 2016, khi Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Một người bạn – một đảng viên – nói với tôi rằng một số người cao cấp sẽ bị cách chức vì quá thân Trung Quốc. Tôi lấy làm hoài nghi. Nhưng hai Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Choummaly Sayasone và Phó Thủ tướng Somsavat Lengsavad, đã thực sự bị cách chức. Lào có các định chế thực sự – quan trọng nhất trong số đó là đảng tiên phong theo kiểu chủ nghĩa Lenin, có quyền lợi là tối quan trọng – và mặc dù bị Trung Quốc chèn ép và không có rộng chỗ để nhúc nhích, nhưng nước này sử dụng các định chế đó trong khả năng tốt nhất. Ngược lại, Campuchia là nơi mà tác giả Shambaugh gọi là “quốc gia chư hầu toàn diện [duy nhất] của Trung Quốc” trong ASEAN, một mô tả mà Hiebert lặp lại. Không giống như ở Lào, sự lãnh đạo ở Campuchia gần như hoàn toàn theo đường lối cá nhân: Thủ tướng Hun Sen đã mô tả sự ủng hộ đối với Trung Quốc là “sự lựa chọn chính trị của Campuchia” và những lựa chọn của ông là những lựa chọn duy nhất quan trọng ở Campuchia. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người ở Campuchia đều tràn đầy nhiệt tình về sự lệ thuộc của Hun Sen đối với Trung Quốc. Vào tháng 1 năm 2018, tỉnh trưởng Preah Sihanouk [còn gọi Kampong Som hay Sihanoukville] đã viết một lá thư cho Bộ Nội vụ phàn nàn về việc đầu tư của Trung Quốc đã dẫn đến gia tăng tội phạm và gây ra “tình trạng mất an ninh trong tỉnh”. Sự lãnh đạo theo chủ nghĩa cá nhân của Hun Sen phải có ngày chấm dứt, đó là một tất yếu sinh học. Vị thế của Campuchia với tư cách là một nước chư hầu của Trung Quốc có thể chỉ là một giai đoạn mà thôi. Những cuốn sách này nói rõ rằng Trung Quốc có những trách nhiệm pháp lý nghiêm trọng ở Đông Nam Á – mặc dù không nhất thiết phải là những trách nhiệm được các nhà quan sát ở phương Tây xác định. Ví dụ, một số nhà phân tích phương Tây tỏ ra lo ngại về hoạt động kiều vận của Bắc Kinh đối với các cộng đồng gốc Hoa, coi những nhóm thiểu số này như một đội ngũ nội gián tiềm năng. Tập đã rêu rao sự ủng hộ của “tất cả người Trung Hoa” đối với phiên bản “giấc mơ Trung Hoa” của ông, làm dấy lên những nghi ngờ về ý định của Trung Quốc. Nhưng cả ba cuốn sách đều chứng minh rằng ở Đông Nam Á, nơi mà các mối quan hệ giữa người gốc Hoa và người bản địa thường đầy rẫy những căng thẳng tiềm ẩn, thì người Hoa hải ngoại hoàn toàn không phải là một lợi thế rõ ràng cho Bắc Kinh. Các tác giả thừa nhận rằng không có mối tương quan đơn giản giữa sắc tộc và ảnh hưởng. Sự hiện diện đơn thuần của các cộng đồng người gốc Hoa ở các nước Đông Nam Á không nhất thiết phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Vào năm 2018, trong cuộc tổng tuyển cử ở Malaysia, đại sứ Trung Quốc đã công khai vận động cho lãnh đạo đảng dân tộc Trung Hoa của liên minh cầm quyền, phá vỡ một quy tắc cơ bản của ứng xử ngoại giao: không can thiệp vào nội bộ nước khác. Liên minh cầm quyền đã thua, và người kế nhiệm của họ đã nhanh chóng đàm phán lại một số dự án kinh tế do Trung Quốc hậu thuẫn. Trong chuyến thăm Trung Quốc vào cuối năm đó, Mahathir Mohamad, tân thủ tướng Malaysia (ông từng giữ chức thủ tướng từ năm 1981 đến 2003), đã cảnh báo rõ ràng rằng các hành động của Trung Quốc trong khu vực có thể giống như một “phiên bản mới của chủ nghĩa thực dân”. Các nhà quan sát phương Tây có xu hướng coi các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, nơi họ đã dần dần xâm phạm biên giới biển của các nước láng giềng, là ví dụ rõ ràng nhất về tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Tuy nhiên, như Hiebert và Strangio đã nói rõ, ở Đông Nam Á, có nhiều lo lắng về các hoạt động của Trung Quốc ở một vùng nước khác: sông Mekong, con sông chảy qua 5 trong số 10 nước thành viên ASEAN và không nhận được sự quan tâm đầy đủ từ các chuyên gia quan hệ quốc tế. Strangio nhắc nhở độc giả rằng “ảnh hưởng kinh tế và chính trị của Trung Quốc chảy xuống sông Mekong rồi đổ vào Đông Nam Á” và “quyền kiểm soát giống như một cái van” của Trung Quốc đối với thượng nguồn của con sông “giúp Bắc Kinh có quyền kiểm soát đáng kể” đối với dòng chảy về phía nam của nó. Các dự án xây dựng đập của Trung Quốc trên thượng nguồn sông Mekong đã và đang làm giảm dòng chảy của hạ lưu. Kinh tế của Campuchia và Lào vẫn chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp tay làm hàm nhai [subsistence agriculture]. Các nhà lãnh đạo ở Campuchia và Lào có thể không quan tâm quá nhiều đến những gì Trung Quốc làm ở Biển Đông, nhưng họ sẽ phải suy nghĩ kỹ về một vấn đề có khả năng gây ra mối đe dọa sống còn đối với sinh kế của chính người dân của họ. Nếu các hành động của Trung Quốc trên sông Mekong không khiến Phnôm Pênh và Viêng Chăn phải suy nghĩ lại về cách họ tiến hành quan hệ với Trung Quốc, thì các thành viên ASEAN khác cũng nên xem xét lại mối quan hệ của tổ chức này với Lào và Campuchia. QUẢN LÝ MỐI NGỜ VỰC  Một số độc giả có thể ngạc nhiên trước ý kiến cho rằng trong một khu vực nằm dưới bóng của một cường quốc lớn mà một tổ chức đa phương khu vực có ảnh hưởng thực sự. Nhưng ASEAN có ảnh hưởng thật đấy. Không tác phẩm nào trong số những cuốn sách nói trên bàn đầy đủ đến tổ chức này. Sách của Shambaugh là cuốn duy nhất dành một chương cho ASEAN. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Rất ít học giả thực sự hiểu cách hoạt động của ASEAN. Mục đích cơ bản của nó không phải là giải quyết các vấn đề mà là quản lý sự ngờ vực và sự khác biệt giữa các thành viên và ổn định một khu vực mà ngay cả sự lịch sự trong các quan hệ cũng không được coi là đương nhiên, nhờ đó giảm thiểu cơ hội can thiệp của các đại cường. Ngay cả một số nhà lãnh đạo ASEAN dường như cũng không hiểu được điều này. Vào tháng 7 năm 2012, khi Campuchia giữ vai trò chủ tịch của tổ chức, ASEAN lần đầu tiên không thống nhất quan điểm về thông cáo chung của các bộ trưởng ngoại giao. Hor Namhong, ngoại trưởng Campuchia, từ chối chấp nhận bất kỳ thỏa hiệp nào về ngôn ngữ liên quan đến Biển Đông, nhấn mạnh việc hoàn toàn không nên đề cập đến vấn đề này. Rõ ràng là ông ta đã làm như vậy theo lệnh của Trung Quốc; Fu Ying, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc, hầu như không thèm che giấu sự hiện diện trùm khắp của mình tại một cuộc họp mà bà ta không có bổn phận tham dự. Tuy nhiên, chỉ một tuần sau, Marty Natalegawa, khi đó là Ngoại trưởng Indonesia, đã thuyết phục Campuchia tham gia đồng thuận của ASEAN về Biển Đông. Nội dung của tuyên bố chủ yếu được lấy từ các văn bản đã được thống nhất ý kiến trước đó, và trong một số trường hợp, ngôn ngữ cuối cùng còn mạnh mẽ hơn các thỏa hiệp mà Campuchia đã bác bỏ chỉ tuần trước. Nỗ lực đi ra ngoài nguyên tắc của Phnom Penh nhằm làm hài lòng Bắc Kinh tỏ ra vụng về và cuối cùng chỉ làm lãng phí thời gian. Các xếp lớn của bà Fu ở Bắc Kinh không thể quá hài lòng khi để bàn tay can thiệp nặng nề của Trung Quốc bị phơi bày một cách trắng trợn mà không đạt được mục đích gì. Và kể từ đó, Campuchia không còn ngoan cố một cách ngu ngốc trong các cuộc thảo luận về Biển Đông. Không quốc gia nào cần đến Bắc Kinh xác định lợi ích quốc gia của mình để duy trì mối quan hệ thân thiết với Trung Quốc. Ngoại trừ Campuchia, không thành viên ASEAN nào thấy cần phải khôn khéo sắp xếp các lợi ích của mình trên các lĩnh vực khác nhau với bất kỳ một cường quốc lớn duy nhất nào. Ngoại giao của ASEAN và các thành viên đương nhiên là lăng nhăng, không chung thủy một vợ một chồng [promiscuous, not monogamous]. Shambaugh cho rằng “các quốc gia ASEAN đã được điều kiện hoá để không chỉ trích Trung Quốc một cách công khai hoặc một cách trực tiếp”. Nhưng các quốc gia ASEAN cũng không công khai chỉ trích Hoa Kỳ hay bất kỳ cường quốc lớn nào khác. Họ không công khai chỉ trích người khác không phải vì họ bị “điều kiện hóa” bởi bất kỳ ai mà bởi vì những lời chỉ trích công khai ngăn cản các lựa chọn và làm giảm khả năng ngoại giao. Các nước nhỏ chỉ có thể cơ động trong các khe hở [interstices] giữa các mối quan hệ của các cường quốc lớn. Mục đích thiết yếu của các diễn đàn do ASEAN lãnh đạo như Hội nghị cấp cao Đông Á hàng năm, nơi quy tụ các quốc gia thành viên ASEAN với các nước như Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và Hoa Kỳ, là tối đa hóa các không gian xen kẽ đó, làm sâu sắc thêm tính đa cực tự nhiên của khu vực. ĐỐI TRỌNG MỸ  Tất nhiên, có một số cường quốc từ bên ngoài quan trọng hơn những cường quốc khác. Nếu không có Hoa Kỳ, thì không có sự kết hợp nào của các cường quốc còn lại có thể cân bằng với Trung Quốc. Không phải mọi thành viên ASEAN sẽ nói như vậy một cách công khai, nhưng hầu hết các thành viên dường như đều nhận ra sự thật này. Vào cuối những năm 1980, chính trị trong nước Philippines và một thảm họa thiên nhiên đã buộc các lực lượng Hoa Kỳ phải rời khỏi Vịnh Subic và Căn cứ Không quân Clark. Năm 1990, Singapore, quốc gia từ lâu đã ủng hộ sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, đã ký kết một biên bản ghi nhớ (MOU) với Washington cho phép một số lực lượng Hoa Kỳ sử dụng các cơ sở của Singapore. Vào thời điểm đó, một số thành viên ASEAN đã lớn tiếng và chỉ trích kịch liệt thỏa thuận này. Nhưng không có lấy một tiếng xì xào nào khi Singapore ký một thỏa thuận liên quan đến hợp tác quốc phòng và an ninh nhiều hơn với Hoa Kỳ vào năm 2005 hoặc khi Biên bản ghi nhớ 1990 được gia hạn vào năm 2019. Sự thay đổi thái độ đó phản ánh sự bất bình ngày càng tăng của khu vực đối với hành vi của Trung Quốc, mà cả ba cuốn sách đều ghi lại. Chính sách của Trung Quốc thường gây ra sự phản đối. Ví dụ, cả Hiebert và Strangio đều khám phá chi tiết về dự án đập Myitsone ở Myanmar. Như Strangio lưu ý, kể từ thời điểm Myanmar ký thỏa thuận xây dựng con đập với một công ty nhà nước Trung Quốc vào năm 2006, “sự phản đối đã gần như diễn ra đều khắp”. Dự án đã bị đình chỉ vào năm 2011, nhưng, như Hiebert viết, như gần đây vào năm 2019, “hoạt động vận động hành lang vụng về, bất chấp dư luận của đại sứ Trung Quốc [để hồi sinh dự án] đã thúc đẩy các cuộc biểu tình mới chống lại con đập ở các thành phố trên khắp đất nước”. Một ưu điểm to lớn của cuốn sách của Shambaugh là phân tích chi tiết về cách thức Trung Quốc ngày càng gia tăng dấu chân của mình ở Đông Nam Á, nhưng nỗ lực này đã không dẫn đến việc giảm quan hệ kinh tế hoặc an ninh giữa ASEAN với Mỹ. Trong một số trường hợp, quan hệ với Hoa Kỳ thậm chí còn được mở rộng. Không giống như nhiều học giả khác, Shambaugh hiểu rằng các quốc gia Đông Nam Á không xem các lựa chọn mà họ có sẵn phải ở dạng nhị phân, tổng số bằng không [theo phe này thì phải bỏ phe kia]. Tuy nhiên, Shambaugh chỉ đúng một phần khi ông kết luận rằng “Đông Nam Á chưa bao giờ có quan hệ tốt hơn với Hoa Kỳ, và ngược lại,” như dưới thời Obama. Người ta cảm thấy an ủi khi nghe một tổng thống Mỹ nói về việc đưa châu Á trở thành mối quan tâm trung tâm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Người ta cảm thấy vui lòng mát dạ khi Tổng thống Barack Obama dành thời gian tham dự các cuộc họp của ASEAN. Chuyến thăm năm 2012 của ông tới Myanmar, nhằm khuyến khích sự tự do hóa ban đầu của chế độ độc tài, là một bước đột phá táo bạo. Việc xây dựng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương là một thành tựu quan trọng trong một khu vực mà thương mại là chiến lược. Nhưng quyền lực mềm, thứ mà Obama có rất nhiều, sẽ không đủ [để đối phó với Trung Quốc] nếu không thực hiện quyền lực cứng – và Obama không dám làm điều đó. Năm 2012, chính quyền của ông đã làm trung gian cho một thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Manila liên quan đến bãi cạn Scarborough, ở Biển Đông. Khi Trung Quốc phản bội các điều khoản của thỏa thuận bằng cách từ chối đưa các tàu của họ ra khỏi khu vực tranh chấp, Washington đã không làm gì cả. Năm 2015, Tập đã hứa với Obama rằng Trung Quốc sẽ không quân sự hóa Biển Đông. Nhưng khi Bắc Kinh làm như vậy bằng cách triển khai lực lượng hải quân và tuần duyên để đe dọa các quốc gia tranh chấp thuộc khối ASEAN vào năm 2016, một lần nữa Hoa Kỳ lại không làm gì cả. Sự thất bại của Obama vài năm trước đó, vào năm 2013, trong việc thực thi giới hạn đỏ về việc sử dụng vũ khí hóa học của Syria đã làm suy yếu uy tín của sức mạnh Hoa Kỳ — và Trung Quốc đã chú ý đến sự kiện này. Việc Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump từ chối Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương khi nhậm chức vào năm 2017 là một cái tát vào mặt bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ. Nhưng không phải tất cả những gì ông ấy làm đều sai. Dù thiếu mạch lạc và thô thiển đến thế nào đi nữa, Trump dường như hiểu theo bản năng tầm quan trọng của việc thể hiện quyền lực cứng. Khi ném bom Syria vào năm 2017 trong khi ăn tối với Tập Cận Bình, ông đã làm nhiều điều để khôi phục uy tín về sức mạnh của Mỹ bằng cách thể hiện sự sẵn sàng sử dụng vũ lực. Trump cũng rõ ràng bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và trao quyền cho Hạm đội 7 của Hoa Kỳ tiến hành các hoạt động tự do hàng hải để thách thức các đòi hỏi của TQ. Tự do hàng hải là một quyền và các quốc gia khác không cần Trung Quốc cho phép để thực hiện quyền đó. Ngược lại, trong nhiệm kỳ thứ hai của Obama, Lầu Năm Góc và Hội đồng An ninh Quốc gia đã gây gổ ồn ào về sự khôn ngoan của các hoạt động như vậy, làm suy yếu hiệu quả được dự kiến. Vì lúc bấy giờ là phó tổng thống của Obama, Biden không thể dễ dàng tách mình khỏi những gì đã xảy ra trong nhiệm kỳ của Obama. Nhưng ngày nay bạn cũng như thù sẽ xem xét kỹ lưỡng mọi động thái của Biden để tìm bất cứ dấu hiệu yếu kém nào của ông. Ông có thể sẽ rà soát lại chính sách của Hoa Kỳ, nhưng không chuyển hướng về cơ bản, đối với Trung Quốc và thương mại. Chính quyền của ông sẽ đưa ra và truyền đạt chính sách đến với bạn bè và đồng minh bằng một sự cân nhắc và chặt chẽ hơn so với chính quyền Trump. Bầu không khí ngoại giao của Hoa Kỳ sẽ được cải thiện sau thời kỳ ảm đạm và hỗn loạn trong những năm Trump. Tất cả những điều này sẽ được hoan nghênh. Nhưng tất cả sẽ trở thành vô ích nếu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ rơi trở lại tình trạng miễn cưỡng sử dụng quyền lực cứng của Obama. Biden nên thận trọng về việc thúc đẩy các giá trị của Mỹ nhằm bù lại sự thờ ơ của Trump đối với chúng. Những giá trị này không nhất thiết phải là tài sản chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á, nơi chúng không được tất cả mọi người chia sẻ. “Dân chủ” là một thuật ngữ có ý nghĩa rất uyển chuyển, “nhân quyền” được giải thích theo nhiều cách hiểu khác nhau, và Đông Nam Á nói chung chú trọng nhiều hơn đến quyền của cộng đồng hơn là quyền của cá nhân. Hoa Kỳ đã không triển khai lực lượng trên đất liền Đông Nam Á kể từ khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc. Với tư cách là một lực lượng cân bằng ngoài khơi, Hoa Kỳ sẽ luôn cảm thấy khó quyết định xem mình nên giữ một vị trí như thế nào: một lập trường quá mạnh mẽ chống lại Trung Quốc sẽ gợi lên lo ngại về sự vướng víu trong khu vực; một lập trường quá thụ động sẽ gây ra nỗi sợ hãi bị bỏ rơi. Điều này không thể tránh né. Nhưng Biden phải tránh sai lầm của Obama khi nghĩ rằng Hoa Kỳ cần giảm bớt sự cạnh tranh để đảm bảo sự hợp tác của Bắc Kinh trong các vấn đề như biến đổi khí hậu. Như bất cứ một sinh viên ngành quan hệ quốc tế nào nên biết, hợp tác không phải là một ân huệ mà một nhà nước ban tặng cho một nhà nước khác. Nếu có lợi cho mình, Bắc Kinh sẽ hợp tác. Các quốc gia có thể cạnh tranh và hợp tác cùng một lúc. Sự hiểu biết đó về cơ bản là những gì Đông Nam Á mong đợi ở Hoa Kỳ. Tác giả:Bilahari Kausikan là cựu Bí thư Thường trực Bộ Ngoại giao Singapore. https://baotiengdan.com/2021/03/10/dau-truong-dong-nam-a-trong-thoi-dai-canh-tranh-giua-cac-dai-cuong/  
......

Người biểu tình châu Á và giấc mơ Mỹ

Project Syndicate Ian Buruma - Chuyển ngữ: Hoàng Thủy Ngữ 4-3-2021 Những người biểu tình phản đối vụ đảo chính quân sự ở Myanmar hy vọng có sự can thiệp của Mỹ, cho thấy hình ảnh của nước Mỹ với tư cách là đất nước đấu tranh cho tự do toàn cầu vẫn chưa chết, ngay cả sau 4 năm Donald Trump theo chủ nghĩa cô lập “Nước Mỹ trên hết”. Nhưng Hoa Kỳ luôn là một nước ủng hộ có chọn lọc cho nền dân chủ, và bây giờ nó đang thu hẹp lại. Một tháng trước, những người biểu tình đã tụ tập bên ngoài Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Yangon để phản đối cuộc đảo chính quân sự ở Myanmar. Họ kêu gọi Tổng thống Joe Biden can thiệp để các tướng lãnh rút về doanh trại và bà Aung San Suu Kyi được trả tự do. Đảng của bà, Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đã giành chiến thắng vang dội trong cuộc tổng tuyển cử năm 2020. Đó là lý do tại sao các tướng lãnh, những người sợ mất đặc quyền, đã thu tóm quyền Nhưng Tòa đại sứ Hoa Kỳ có phải là nơi tốt nhất để tập trung phản đối? Tổng thống Mỹ có thể thực sự làm được gì – ngoài việc lên án cuộc đảo chính bằng lời nói? Hy vọng vào sự can thiệp của Mỹ của những người biểu tình cho thấy hình ảnh nước Mỹ như nhà vô địch của tự do toàn cầu vẫn chưa chết, ngay cả sau 4 năm Donald Trump theo chủ nghĩa cô lập “Nước Mỹ trên hết”. Năm ngoái, những người biểu tình ở Hồng Kông thậm chí còn coi Trump như một đồng minh khi họ phản đối Trung Quốc đàn áp tàn bạo quyền tự trị lãnh thổ. Những người biểu tình đã vẫy lá cờ Mỹ với hy vọng Hoa Kỳ sẽ giúp họ thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản độc tài Trung Quốc vì ông ta có lúc chỉ trích Trung Quốc. Sứ mệnh tự phong của Mỹ nhằm truyền bá tự do trên khắp thế giới đã có một lịch sử lâu đời. Hệ quả là nhiều cuộc chiến tranh không cần thiết đã xảy ra. Nhưng chủ nghĩa lý tưởng dân chủ của Mỹ cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều người. Theo lời của John F. Kennedy, nước Mỹ  từ lâu đã coi mình là quốc gia “tham gia vào một cuộc đấu tranh trên toàn thế giới, trong đó chúng tôi nhận trọng trách bảo tồn và phát huy những lý tưởng mà chúng tôi chia sẻ với phần còn lại của nhân loại“. Khi vùng lên chống lại Liên Xô vào năm 1956, người Hungary nhận ra rằng, từ ngữ thường trở thành sáo rỗng. Cách mạng Hungary đã bị dập tắt sau 17 ngày. Hoa Kỳ đã không làm gì để giúp cuộc nổi dậy mà chính mình đã khuyến khích. Nhưng, đôi khi, tự do có thể có được với sự giúp đỡ của Mỹ – chứ không chỉ chống lại chế độ chuyên chế của Hitler ở Tây Âu. Trong thập niên 1980, người dân Philippines và Hàn Quốc đã nổi dậy chống lại chế độ độc tài với các cuộc biểu tình rầm rộ, không khác gì các cuộc biểu tình ở Hồng Kông, Thái Lan và Myanmar trong hai năm qua. Nhiều người ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng đã làm như vậy. Một “nữ thần dân chủ” cao 10 mét, lấy cảm hứng từ Tượng Nữ thần Tự do của Mỹ, đã được dựng lên tại Quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989. Các cuộc biểu tình ở Trung Quốc đã kết thúc một cách thảm khốc. Nhưng các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ đã lật đổ được chế độ độc tài Ferdinand Marcos ở Philippines và chế độ quân phiệt ở Hàn Quốc. Sự hỗ trợ của Mỹ đóng một vai trò quan trọng. Ở Đài Loan, một chính phủ độc tài đã được thay thế bằng nền dân chủ – một lần nữa với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Nhưng điều mang lại hiệu quả ở Philippines, Hàn Quốc và Đài Loan không chắc sẽ có hiệu quả ở Thái Lan, Hồng Kông và Myanmar. Sự khác biệt chính là 3 quốc gia nêu ra đầu tiên là những nước mà những người cánh tả gọi là “các quốc gia chư hầu” trong Chiến tranh Lạnh. Các nhà độc tài của họ cũng là “những nhà độc tài của chúng tôi”, được Hoa Kỳ bảo vệ như đồng minh trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản. Các chế độ này được duy trì nhờ sự hỗ trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ. Do đó, họ có thể tiếp tục đàn áp người dân, miễn là người Mỹ vẫn coi chủ nghĩa cộng sản là một mối đe dọa toàn cầu. Nhưng khi Trung Quốc mở cửa kinh tế và Liên Xô ngày càng suy yếu, các chế độ này nhanh chóng dễ bị tổn thương. Trên truyền hình Mỹ, Marcos buộc phải hứa tổ chức một cuộc bầu cử tự do và công bằng. Khi cố gắng đánh cắp kết quả cuộc bầu cử, ông đã bị một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ yêu cầu từ chức mà không hề phản kháng (cut and cut cleanly). Marcos lên trực thăng và cuối cùng phải sống lưu vong ở Hawaii. Tương tự như vậy: Khi sinh viên Hàn Quốc, được phần lớn tầng lớp trung lưu ủng hộ, đổ ra đường để phản đối, Hoa Kỳ cuối cùng đã ủng hộ nền dân chủ. Các sinh viên không chỉ tức giận chế độ quân sự của nước họ, mà còn với cả Hoa Kỳ. Phụ thuộc vào sự bảo vệ của quân đội Mỹ, các tướng lãnh phải nghe theo khi Hoa Kỳ bảo họ rút quân. Các tướng lãnh của Thái Lan và Myanmar không có lý do gì để làm điều tương tự. Biden có thể đe dọa họ bằng các biện pháp trừng phạt và chỉ trích họ bằng những lời lẽ gay gắt. Nhưng, với việc Trung Quốc sẵn sàng tham gia với tư cách là người bảo trợ cho Myanmar, chính quyền quân sự không phải lo lắng nhiều (mặc dù, cho đến nay, họ vẫn e dè phản ứng của Trung Quốc). Giới lãnh đạo chính trị ở Thái Lan cũng có thể dựa vào Trung Quốc. Từ lâu, Thái Lan đã có truyền thống lợi dụng một cường quốc này chống lại một cường quốc khác. Và, bởi vì Hồng Kông chính thức là một phần của Trung Quốc, nên rất ít quyền lực bên ngoài có thể làm gì đó để bảo vệ quyền của người dân – bất kể có bao nhiêu lá cờ Mỹ tung bay trên đường phố. Trong Chiến tranh Lạnh, các chế độ ở châu Âu và châu Á có thể dựa vào Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ do đó có ảnh hưởng lớn đến các nước này. Giờ đây, một cuộc chiến tranh lạnh mới đang diễn ra – lần này là với Trung Quốc. Nhưng vị thế cường quốc của Hoa Kỳ đã suy giảm rất nhiều kể từ khi đạt đến đỉnh đlểm vào thế kỷ 20. Và niềm tin vào nền dân chủ Mỹ đã bị xói mòn do cuộc bầu cử của một kẻ ái kỷ ngu xuẩn đã quấy rối các đồng minh truyền thống. Trung Quốc cũng là một siêu cường đáng gờm hơn so với Liên Xô trước đây. Trung Quốc cũng thịnh vượng hơn nhiều. Các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á vẫn cần sự hỗ trợ về an ninh từ Hoa Kỳ. Chừng nào Nhật Bản không thể đóng vai trò quân sự hàng đầu, do cái quá khứ xấu xa và hiến pháp theo chủ nghĩa hòa bình, Hoa Kỳ vẫn sẽ là đối trọng chính đối với một Trung Quốc ngày càng thống trị. Nhưng, cũng như Thái Lan trong trò chơi quyền lực khôn khéo, các đồng minh của Hoa Kỳ có lẽ sẽ không trở thành “chư hầu” như trước đây. Ngay cả người Hàn Quốc cũng cẩn thận để không làm xáo trộn mối quan hệ với Trung Quốc. Hoa Kỳ ở xa; Trung Quốc ở kế bên. Mô hình này đúng như mong đợi. Sự thống trị của Mỹ không thể kéo dài mãi mãi. Các quốc gia châu Á cũng như châu Âu nên tránh phụ thuộc hoàn toàn vào một cường quốc không phải lúc nào cũng có thể bảo vệ mình. Trở thành “trạng thái chư hầu” có thể là một điều nhục nhã. Tuy nhiên, có thể sẽ đến một ngày, một số người, ở đâu đó, sẽ nhớ đến Pax Americana, khi Hoa Kỳ đủ mạnh để loại bỏ những thành phần không mong muốn. https://baotiengdan.com/2021/03/10/nguoi-bieu-tinh-chau-a-va-giac-mo-my/  
......

Xung đột về quyền sở hữu đất đai sẽ lại tạo những phiên bản Đồng Tâm, Thủ Thiêm, Lộc Hưng…

Hoài Nguyễn - vietnamthoibao.org Không sửa đổi luật đất đai và các văn bản có liên quan, việc khiếu nại, khiếu kiện và cả bạo lực liên quan đất đai sẽ không chấm dứt Căn nguyên các tranh chấp lớn hiện tại của Việt Nam từ đất đai mà ra, không sửa đổi luật đất đai và các văn bản có liên quan, sẽ không bao giờ chấm dứt được việc khiếu nại, khiếu kiện và xa hơn là các bạo lực liên quan đất đai. Luật sư người Mỹ gốc Việt Hoàng Duy Hùng (cựu nghị viên ở thành phố Houston) có bài viết gửi đăng trên báo Công an nhân dân của Bộ Công an Việt Nam, và báo Nhân dân của Cơ quan Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, viết về phiên tòa xét xử vụ án Đồng Tâm (*). Trong bài viết ở phần đầu, có đoạn: “Vấn đề cơ bản nhất là lúc đầu số người hùa theo “tổ đồng thuận” đã không hiểu luật một cách đúng đắn. Ở Việt Nam, đất đai là của Nhà nước, người dân được trao quyền sử dụng, khi cần sử dụng cho việc chung (như xây dựng công trình công cộng, công trình quốc phòng,… thì Nhà nước thu hồi, đền bù). Ở Mỹ và châu Âu cũng có luật Eminent Domain tương tự như vậy. Ðất Ðồng Sênh là đất của sân bay Miếu Môn, là đất phục vụ nhiệm vụ quốc phòng”. Tác giả Hoàng Duy Hùng, viết: “Ở Mỹ, án lệnh của Tối cao Pháp viện trong vụ Graham v. Connor, 490 U.S. 386 (1989) cho phép Cảnh sát dùng vũ lực bắn chết nghi phạm trong cả các trường hợp dân sự nếu Cảnh sát cảm thấy tính mạng của mình bị đe dọa. Chánh Thẩm phán lúc đó là W.Rehnquist viết án lệnh như sau: “Các cảnh sát viên phải quyết định chỉ trong tích tắc, rất căng thẳng, không chắc chắn tình thế ra sao cho mình, nên áp dụng bạo lực cần thiết là điều có lý (reasoanable)” (…) Nếu ở Mỹ, theo án lệnh Graham v. Connor, 490 U.S. 386 (1989) đề cập ở trên, khi tính mạng bị đe dọa, chỉ trong tích tắc Cảnh sát phải quyết định có hay không bóp súng, đâu cần xác định lựu đạn “rởm” hay lựu đạn “thật” mới bắn hạ. Công an Việt Nam quá hiền, như theo luật pháp Mỹ thì Cảnh sát đã bắn cả băng đạn”. Cá nhân người viết bài này cũng là luật sư, có thời gian học tập tại Cộng hòa Dân chủ Đức (thời còn phân chia với Tây Đức), và từng phụ trách pháp lý của doanh nghiệp tư nhân ngành xăng dầu văn phòng đại diện tại Singapore, xin được trao đổi đôi điều với ông luật sư Hoàng Duy Hùng trước ngày khai mở phiên phúc thẩm vụ án Đồng Tâm. Thứ nhất, sở hữu đất đai từ trước đến nay là một khái niệm phức tạp, vì thực chất sở hữu đất đai chưa bao giờ được coi là một quyền sở hữu tuyệt đối trong bất kỳ hệ thống pháp lý nào. Sở hữu đất đai là một thứ quyền chịu sự điều chỉnh của cái gọi là “eminent domain” như viện dẫn của ông Hoàng Duy Hùng. Eminent domain là một thứ quyền thực hiện tước đoạt quyền sở hữu này của nhà nước, chính quyền địa phương, một cá nhân, hoặc một tổ chức được lệnh thực hiện chức năng của nhà nước, sau khi thực hiện nghĩa vụ đền bù công bằng cho người chủ sở hữu đất đai đó. Thế nhưng ông Hoàng Duy Hùng đã cố tình quên rằng để thực hiện việc trưng thu đất đai, nhà nước phải thực hiện thông qua một quá trình gọi là “due process”. Thí dụ như ở xứ Hoa Kỳ nơi ông Hoàng Duy Hùng đang ở, Tu chính án thứ 5 của Hiến pháp Mỹ quy định việc tước đoạt này chỉ thực hiện được khi có đủ 4 yếu tố: (1) tài sản tư nhân (2) được trưng thu (3) cho mục đích công cộng (4) và với việc đền bù công bằng. Một số dạng “trưng thu từng phần” cũng phải được đền bù công bằng. Thí dụ như nhà nước làm sân bay ở gần khu đất của người dân. Ô nhiễm tiếng ồn do sân bay gây ra cho người dân trong nhiều trường hợp cũng phải được đền bù, vì mặc dù nhà nước không lấy đi đất của dân, nhưng việc xây sân bay đã làm cho miếng đất đó bị mất một phần giá trị, vì thế được coi là bị “trưng thu một phần”. Việt Nam là một đất nước đang phát triển, việc xây dựng các dự án công nghiệp hoặc các khu đô thị lớn là việc vẫn cần phải làm. Vì thế trong nhiều trường hợp việc trưng thu vẫn phải được thực hiện. Thế nhưng quyền lợi của người dân trong các vụ trưng thu này phải được đảm bảo thông qua quá trình tố tụng công khai, minh bạch và công bằng. Nhà nước vẫn có “eminent domain”, nhưng đổi lại người dân phải có “due process” tức ‘quy trình hợp lệ’ – và trong vụ án tranh chấp ở đồng Sênh, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội lại cho thấy rõ là người dân không hề có “due process”. Thứ hai, ông Hoàng Duy Hùng đã viện dẫn án lệnh Graham v. Connor, 490 U.S. 386 (1989) để cho rằng “Công an Việt Nam quá hiền, như theo luật pháp Mỹ thì Cảnh sát đã bắn cả băng đạn”. Bạn đọc có thể tham khảo án lệnh Graham v. Connor, 490 U.S. 386 (1989) tại https://supreme.justia.com/cases/federal/us/490/386/. Án lệnh này cho biết vì ngờ vực một người có dấu hiệu hành vi phạm pháp tại một cửa hàng tiện lợi, mà các viên cảnh sát đã sử dụng vũ lực được nạn nhân cho rằng vượt quá mức cần thiết. Vụ án Đồng Tâm được biết đến như sau: Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020, khoảng 3.000 cảnh sát cơ động và các lực lượng tại địa phương bắt đầu bao vây và tấn công xã Đồng Tâm. Chính quyền tổ chức cuộc bao vây, tấn công mà không có thông báo trước. Theo truyền thông độc lập và blogger, phía công an đã cắt mạng internet và cắt sóng điện thoại trước, sau đó ồ ạt tiến vào làng với súng ống, hơi cay và lựu đạn, chất nổ. Cuối cùng, công an xông vào nhà riêng của ông Lê Đình Kình và bắn chết ông tại buồng ngủ. Trong cuộc tấn công phía chính quyền có ba người thiệt mạng vì trợt chân khi xâm nhập vào nhà của ông Lê Đình Kình. Phiên xử sơ thẩm, phòng xử án có khoảng 50% là cảnh sát tư pháp, an ninh; không có bất cứ người nhà các bị cáo nào được vào tham dự phiên tòa, và cũng không có người dân thường nào được vào phòng xử án. Lời khai bị cáo tại phiên sở thẩm, bị cáo Bùi Việt Hiếu: “Tường rào xung quanh sân bay Miếu Môn đã được quân đội xây xong từ trước tết dương lịch nên kế hoạch bảo vệ xây tường rào chỉ là cái cớ để tấn công những người dân Đồng Tâm để xử lý người biết rõ về nguồn gốc đất đồng Sênh”. Bị cáo Lê Đình Công: “47,36ha là đất của dân Đồng Tâm đã được thu hồi và giao cho quân chủng phòng không không quân, phần còn lại là đất nông nghiệp của dân Đồng Tâm. Đại diện UBND xã Đồng Tâm và đại diện quân chủng phòng không không quân đã ký văn bản thống nhất không tranh chấp giữa quốc phòng và người dân”… Tạm gác qua tình tiết tại phiên tòa, với diễn biến của đêm về sáng ngày 9-1-2020 cho thấy đây là một cuộc tập kích được chuẩn bị trước của lực lượng công an vũ trang, nên nếu mang án lệnh Graham v. Connor, 490 U.S. 386 (1989) ra để nói rằng “theo luật pháp Mỹ thì Cảnh sát đã bắn cả băng đạn” là một viện dẫn bất tương xứng pháp lý. Thứ ba, cái này là nói thêm với ông luật sư Hoàng Duy Hùng biết để sau phiên tòa phúc thẩm vụ án Đồng Tâm, nếu ông thích viết tiếp bài gửi báo Công an nhân dân và báo Nhân dân, hãy lưu ý đất đai luôn là vấn đề nhạy cảm ở nông thôn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Kể cả hiện nay, nhiều lao động nông nghiệp ở các vùng quê đã ra thành phố hay vào các khu công nghiệp làm việc, người nông dân không còn “khát” đất như trước, thậm chí có nơi bỏ ruộng, nhưng hễ động đến đất đai là vấn đề lại hết sức phức tạp. Nhẹ thì kiện cáo, nghiêm trọng có thể tranh chấp dẫn đến xô xát. Đặc biệt, đất đai ở nông thôn miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ thời cải cách ruộng đất, đến nay trải qua nhiều biến động, kể cả về công tác quản lý và trên thực địa, nhất là quá trình từ việc góp đất vào hợp tác xã đến việc khoán hộ, giao đất trở lại cho người nông dân đã có sự xáo trộn lớn. Tiếp đến là việc dồn điền đổi thửa, thu hồi đất làm đường giao thông hay các công trình cộng… thực hiện đền bù, giải tỏa hay giãn dân, làm cho lịch sử đất đai ở nông thôn càng trở nên phức tạp… Cá nhân người viết cho rằng ông Hoàng Duy Hùng cần học lại lịch sử, bởi ít nhất cũng là từ khi Lê Thánh Tông vào miền Nam cùng với bao nhiêu người để mở mang bờ cõi, thì đất là đất của nhân dân, nhà vua công nhận những đất khai hoang ra, nghĩa là được nhân dân làm chủ từ hàng trăm năm… Thế nhưng bỗng nhiên năm 1975, nhà nước mới ở Việt Nam ra đạo luật bảo rằng đất thuộc sở hữu toàn dân nhưng do nhà nước thống nhất quản lý. Những câu chữ đó là những thuật ngữ mà ý kiến cá nhân người viết cho rằng đây là sự chiếm đoạt hoàn toàn quyền sở hữu của nhân dân trên đất đai. Đó là một việc không hợp lý đối với nhân tình, thế thái và đối với cả lịch sử. Hoài Nguyễn    
......

Quân đội – Công an cũng diễn biến

Phạm Trần| Tình trạng  “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra từ thời khóa VII, sau sự tan rã của khối Cộng sản Liên bang Sô Viết năm 1991. Sau 30 năm, cho đến bắt đầu khóa đảng XIII (2021-2026), tình trạng này không những vẫn diễn tiến  mà còn nghiêm trọng hơn bao giờ hết, vì suy thoái tư tưởng đã lan qua Quân đội và Công an. Bằng chứng không viển vông hay suy đoán, vì Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã cảnh giác như thế tại các Hội nghị của Quân đội với  tư cách ông là Bí thư Quân ủy Trung ương. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI nhiệm kỳ 2020-2025, ngày 28/9/2020, ông chỉ thị toàn quân phải: “Kiên quyết đấu tranh mạnh mẽ, hiệu quả hơn trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; làm thất bại âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", "phi chính trị hóa" Quân đội; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội.” Ông nói: “Trước đòi hỏi của tình hình mới, với điều kiện và khả năng của mình, hơn ai hết, Quân đội phải đi đầu đấu tranh phản bác mạnh mẽ hơn nữa đối với những quan điểm sai trái, thù địch, không chỉ trên báo chí, mà ngay trong nội bộ cũng như ngoài xã hội, tuyệt đối không để những quan điểm sai trái xuất hiện, tồn tại trong Quân đội.” (theo báo Nhân Dân, ngày 28/9/2020) Sau đó, tại Hội nghị Quân chính toàn quốc ngày 7/12/2020, ông Trọng lại kêu gọi: “Tiếp tục đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch hòng chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, Quân đội ta. Đấu tranh chống các biểu hiện cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác; không để suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.” Ông nói: “Quân đội phải làm mạnh hơn nữa, bài bản hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa. Đối với những người lầm đường, lạc lối thì phải kiên trì vận động, cảm hóa, giáo dục, thuyết phục. Đối với những kẻ mượn cớ, nhân danh "góp ý" để chống đối, phá hoại thì phải kiên quyết trừng trị theo pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng, kỷ luật của Quân đội.” Lạ chưa, đến Tổ chức chặt chẽ và kỷ luật như Quân đội mà cũng có thành phần “cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, giảm sút niềm tin, mơ hồ”, hay còn có: “những người lầm đường, lạc lối”  thì lực lượng này cũng đã lung lay không nhỏ. Ở diện rộng hơn, Báo cáo Chính trị tại Đại hội đảng XIII ( 25/01 - 01/02/2021), đã thừa nhận: - Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, "lợi ích nhóm", bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi.  - Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Do đó, văn kiện quan trọng nhất của Đảng đã hô hào: - Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. - Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Những cam kết này cũng đã được đưa vào Nghị quyết để buộc đảng viên, kể cả Lực lượng võ trang gồm Quân đội, Công an, Dân quân, phải:”Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.” Thực tế ra sao? Nhưng tại sao Lãnh đạo đảng CSVN lại đang sợ đảng tan như đã xảy ra ở Liên bang Xô viết năm 1991? Bởi vì, theo phân tích của Tạp chí Quốc phòng Toàn dân (QPTD) ngày 21/12/2020 thì: “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình thay đổi tư duy, nhận thức về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên. Họ hoài nghi, phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và dần đánh mất các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản; dễ dàng chấp nhận tư tưởng tư bản chủ nghĩa, tin vào các luận điểm sai trái, phản động. Tiếp đến, họ không những không chấp hành mà còn thực hiện sai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thậm chí trở thành phần tử chống đối, sẵn sàng ngả theo các thế lực thù địch khi được chúng ve vãn, tung hô.” Từ những biến chứng này, bài viết đã nêu lên hiện tượng “thù trong giặc ngoài” đã phối hợp với nhau đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ: “Như vậy, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, trong đó bên trong mang tính quyết định. Những biểu hiện này có thể xảy ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với mọi cá nhân, tổ chức và trong Quân đội cũng không phải là ngoại lệ. Chính sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đã ươm mầm cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chỉ chờ có sự tác động đúng lúc từ bên ngoài sẽ nảy chồi, phát triển.” Vậy cụ thể những việc gì đã xảy ra trong hàng ngũ Quân đội? Tạp chí QPTD cho biết: “Thực tiễn thời gian qua cho thấy, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã xảy ra một vài hiện tượng đơn lẻ, như: có quân nhân sử dụng mạng xã hội bôi nhọ, làm giảm uy tín của các lãnh đạo, các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang; một vài cán bộ Quân đội đã nghỉ hưu có bài viết, phát ngôn xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, nói xấu cán bộ lãnh đạo Bộ Quốc phòng. Đó còn là một số sĩ quan cao cấp bị xử lý kỷ luật cả về Đảng và chính quyền, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự do “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội”, “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc”, hoặc “buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra một số vi phạm, khuyết điểm trong thực hiện nhiệm vụ chính trị”, v.v. “ Những vi phạm trong Quân đội như thế là nghiêm trọng, vì nó đã làm lu mờ sức chiến đấu và xói mòn sự tuyệt đối trung thành với Đảng của lực lượng trên 5 triệu người trong Lực lượng Võ trang. Đó là lý do tại sao Tạp chí QPTD đã cảnh giác rằng: ”Thực tế đó, một lần nữa khẳng định tính cấp thiết của việc ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nếu muốn phòng, chống một cách triệt để biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội ta.” Những bước cứu nguy Để cứu vãn tình hình, bài báo đề xướng những bước cứu nguy bao gồm: - Loại bỏ căn bệnh chủ nghĩa cá nhân  - Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, lý luận cho cán bộ, chiến sĩ. - Học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. - Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng góp phần xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, từ đó ngăn chặn tận gốc biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội. - Tự soi, tự sửa… tăng cường kiểm tra, giám sát đảng viên, tổ chức đảng trong chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định của Đảng; kịp thời chấn chỉnh, xử lý không để sai phạm dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trên mặt trận truyền thông, Tạp chí QPTD yêu cầu: - Các cơ quan báo chí và lực lượng nòng cốt trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị trong toàn quân. - Ngăn chặn, xử lý đối tượng vi phạm ẩn danh trên mạng xã hội; thậm chí, yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ (Google, YouTube, Facebook,...) ngăn chặn không cho xuất hiện hoặc gỡ bỏ những thông tin vi phạm pháp luật, trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam. - Ngăn chặn không cho các hiện tượng tiêu cực từ bên ngoài có điều kiện tiếp xúc và xâm nhập vào nội bộ đơn vị. Cuối cùng: “Bảo đảm trong mọi điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; có ý chí quyết tâm cao, vượt qua gian khổ, hy sinh, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.” Công an có diễn biến không? Quân đội thì như thế, còn lực lượng 1.5 triệu Công an có bị diễn biến phức tạp không? Nếu có thì điều gì sẽ xảy ra đối với đội ngũ an ninh có trọng trách được gọi là “thanh kiếm và lá chắn” bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân? Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không nói trực tiếp chuyện nhậy cảm này. Ông chỉ nói up mở rằng: “Với tinh thần của Công an là tuyệt đối không để bị động, bất ngờ, đã làm tốt rồi thì cần làm mạnh hơn nữa, bài bản hơn nữa, chất lượng, chặt chẽ, hiệu quả hơn nữa, tuyệt đối không chủ quan, tự mãn, mất cảnh giác". (Trích phát biểu tại Hội nghị Đảng ủy Công an Trung ương, ngày 1/12/2020) Ông Trọng nói rõ: “Cùng với xây phải kiên quyết đấu tranh mạnh mẽ, phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, những việc làm vi phạm pháp luật, trái với lòng dân, trái với chủ trương, chính sách của Đảng.” Ông Nguyễn Phú Trọng không cho biết liệu có tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong lực lượng Công an không, nhưng một bài viết của Học viện Chính trị Công an Nhân dân (CAND), ngày 17/9/2019 đã cho thấy việc: “Chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ - Một số vấn đề đặt ra đối với lực lượng công an nhân dân giai đoạn hiện nay.” Bài nghiên cứu viết: “Hiện nay, cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với lực lượng công an nhân dân, với trọng trách là “thanh kiếm và lá chắn” bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân….Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng in-tơ-nét để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...” Vì vậy, theo bài viết, “Công an nhân dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.” Vậy Công an phài làm gì? Bài báo quy định các nhiệm vụ cho Công an phải :”Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và vô hiệu hóa nhiều âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước; tổ chức có hiệu quả công tác đấu tranh trên phương diện tư tưởng, lý luận, nhất là phản bác các luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động… tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…” Trước mắt ra sao? Đó là những việc Công an phải thi hành để bảo vệ lực lượng không bị suy thoái, nhưng trong thức tế, Công an đã  bộc lộ những hạn chế không nhỏ trong công tác. Hãy đọc tiếp: “Việc lực lượng công an nhân dân tham gia đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế cần khắc phục, nhất là công tác quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ còn bộc lộ sơ hở, để xảy ra một số vụ, việc cán bộ, chiến sĩ vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, của ngành, làm giảm niềm tin trong nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, truyền thống của lực lượng.” Nhưng nghiêm trọng đến mức nào? Bài báo tiết lộ: “Trong công tác và trong chiến đấu, một số cán bộ, chiến sĩ còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thiếu ý chí rèn luyện, phấn đấu vươn lên, thậm chí có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống. Bởi vậy, cùng với việc thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, lực lượng công an nhân dân cần xác định việc tăng cường đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một giải pháp quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng lực lượng công an nhân dân giai đoạn hiện nay.” Để bảo đảm cho lực lượng không ngả nghiêng và mất định hướng, Công an được lệnh phải rèn luyện để : - Là lực lượng tiên phong, gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. - Chống đòi “phi chính trị hóa” lực lượng công an nhân dân. - Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần xây dựng hình ảnh đẹp của người cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân trong lòng nhân dân. - Kịp thời phát hiện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị và đề xuất biện pháp xử lý phù hợp, không để các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng. - Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc giải quyết dứt điểm các vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh, không để hình thành “điểm nóng” về an ninh, trật tự. - Đấu tranh, không để kẻ địch, phần tử xấu xâm nhập, lôi kéo, móc nối, tác động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Như thế là đã rõ như hai nhân 5 là 10. Cả Quân đội và Công an đang phải đối phó với tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong hàng ngũ, khi nhiệm kỳ XIII của đảng bắt đầu. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và hai Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Ngô Xuân Lịch và Bộ trưởng Công an, Đại tướng  Tô Lâm đã cố gắng giảm thiểu hậu quả trong các phát biểu, nhưng họ đều biết rõ đe dọa tan hàng đã đứng trước mắt. Vấn đề còn lại là gần hay xa mà thôi. (03/2021) Phạm Trần Nguồn: https://huynhngocchenh.blogspot.com/2021/03/quan-oi-cong-cung-dien-bien.html  
......

Lợi ích nhóm hoành hành

  Đỗ Ngà     Thảm sát Đồng Tâm nó bắt nguồn từ việc chính quyền thu hồi đất của dân làm sân bay. Sau đó dự án sân bay bị hủy rồi đất thu hồi đó chuyển cho doanh nghiệp, mà cụ thể là Viettel. Vì việc giao đất đó mà xảy ra tranh chấp, khi xảy ra tranh chấp như vậy thì nhà nước lại vác súng đến nhà dân bóp cò để triệt phản kháng. Cướp đất sau đó giết người đều do bàn tay nhà nước làm, doanh nghiệp chỉ có việc nấp sau lưng nhà nước rồi an tâm làm dự án rồi chia lại lợi ích cho những lãnh đạo nhà nước ấy là xong. Sự phối hợp nhà nước – tư nhân rất hoàn hảo. Đất đai là chuyện muôn thuở, nó là nơi tạo ra dân oan khắp mọi miền đất nước.   Đến nay thì vụ án Đồng Tâm đã ngã ngũ, phần thua đã thuộc về nhân dân. Hiện giờ nhà nước dùng 2 chiêu bài để lấy đất dân nghèo với giá rẻ bèo giao cho doanh nghiệp thân hữu, đó là thu hồi đất xây đô thị hoặc thu hồi đất làm sân bay. Thu hồi đất làm đô thị thì Thủ Thiêm là vụ điển hình, còn thu hồi đất làm sân bay thì Đồng Tâm là vụ điển hình.   Được biết, hiện nay có hàng loạt địa phương như Hà Giang, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Bạc Liêu, Cà Mau, Cao Bằng và Bắc Giang... đang có đề xuất làm sân bay. Chính vì đề xuất như thế này mà bà Phạm Chi Lan  đã phải lên tiếng cảnh báo rằng, sẽ tránh lãng phí nguồn lực, tốn nhiều tiền của, và sẽ kém hiệu quả.   Vâng! Tại Cam Ranh đã có sân bay từ lâu, vậy mà Ninh Thuận lại đòi có sân bay nữa thì bay kiểu gì? Cam ranh – Ninh Thuận có cự li chỉ có từ 50-60 km đường ô tô thì bay kiểu gì? Vô lý. Nếu xây là gây ra lãng phí kinh khủng. Tuy nhiên nếu nhìn ở khía cạnh khác là họ xin quy hoạch sân bay vì mục đích khác thì sao? Chẳng phải vụ thảm sát Đồng Tâm nó bắt nguồn từ quyết định thu hồi đất xây sân bay Miếu Môn sao? Rồi cuối cùng họ đã hủy dự án sân bay và lấy đất giao doanh nghiệp làm giàu. Nếu họ tính bài đó thì việc họ xin xây các sân bay cách nhau chỉ chừng 100 km cũng được. Vì mục đích của họ là lấy đất chứ có phải là làm sân bay thật đâu? Mà nếu có xây dựng sân bay thật đi nữa thì đất khu vực sân bay được chia chác cho “con cháu các cụ” chiếm hết như sân bay Long Thành.   Ngoài chuyện xin làm sân bay tràn lan thì hiện nay, có 3 thành phố là Bắc Ninh, Huế, Khánh Hòa dự tính tách ra làm thành phố trực thuộc trung ương. Mà như ta biết, khi thành phố được chấp nhận nâng cấp đô thị thì sẽ được trung ương rót kinh phí về để phục vụ công tác quy hoạch chứ? Mà đã có quy hoạch thì ắt có thu hồi đất. Đấy là điều mà chính quyền và doanh nghiệp thân hữu đang cần. Không cách làm giàu nào dễ cho bằng cách nấp sau những chính sách nhà nước để trục lợi. Và nhờ đó các sân sau sẽ ăn trên đầu trên cổ dân oan như Thủ Thiêm thôi. Quan chức sẽ giàu, bọn đầu nậu sân sau sẽ giàu, chỉ có dân nghèo là mất tất cả.   -Đỗ Ngà-   Tham khảo: https://dantri.com.vn/.../ba-pham-chi-lan-khong-the-moc... https://vietnambiz.vn/bac-ninh-thua-thien-hue-khanh-hoa...  
......

Chính biến thành Naypyidaw - Và Bài học phi chính trị hoá lực lượng vũ trang ở Việt Nam

Quân đội Miến Điện Phạm Minh Vũ   Đã có hơn 50 Dân thường bị giết chết và thậm chí có cả lãnh đạo đảng NLD (National League for Democracy) bị sát hại sau khi tướng lãnh quân đội Miến Điện đầu tháng hai vừa qua đã tiến hành cuộc đảo chính lên nắm quyền.   Cuộc xuống đường kéo dài hơn một tháng qua hội tụ đầy đủ mọi tầng lớp người Dân Miến Điện, cùng với nhiều sáng kiến mới mẽ trong cách thức biểu tình, đã làm cho quân đội Miến Điện rúng động, và quân đội điên cuồng nổ súng, xả hàng loạt đạn thật vào những người biểu tình ôn hoà, tay không tấc sắt, mong thực hiện lời dạy của Mao là “quyền lực sinh ra từ họng súng”.   Quân đội Miến Điện đã tiêu diệt nền Dân chủ mong manh, vừa mới ra đời non một thập kỷ bằng thứ sức mạnh bạo quyền.   Hàng triệu người Miến Điện thuộc mọi lứa tuổi và mọi thành phần xã hội xuống đường biểu tình, bất chấp bị đàn áp đẫm máu.Điều đó cũng nói lên rõ ý chí không muốn quay lại với chế độ quân phiệt của người dân Miến Điện hiện nay.   Cuộc xuống đường kéo dài hơn một tháng qua dù máu đã đổ, Kyal Sin một sinh viên đã hi sinh vì bị đạn bắn vào đầu, em nằm xuống cho đất nước của em được đứng lên. Và đó chưa phải là người cuối cùng nằm xuống.   Đây là ý chí người dân là cố gắng thoát khỏi những thòng lọng của những lãnh tụ độc tài đầy quyền lực, luôn dùng bạo lực như là giải pháp thuộc bản năng.   Việc sử dụng bạo lực của những tướng lãnh quân đội để dập tắt những làn sóng của mọi thành phần người dân Miến Điện đòi dân chủ là chống lại loài người, tàn ác, không thể dung thứ. Như lời Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan trong cuộc họp ASEAN mới đây thẳng thừng chỉ trích quân đội Miến Điện rằng: "Cầm súng bắn vào người dân nước mình là đỉnh cao nỗi ô nhục quốc gia".   Thật vậy, không có nỗi ô nhục nào bằng ô nhục cầm súng bắn thẳng vào đồng bào mình.   Ông Balakrishnan nói về điều đó như là một chân lý. Và nếu là chân lý, thì ta suy rộng ra quân đội nào mà bắn vào dân mình đều là tột đỉnh Ô nhục.   Hôm nay, tòa án Việt Nam xét xử phúc thẩm vụ án Đồng Tâm, nhà văn Nguyên Ngọc từng thốt lên là tội ác mà nhà cầm quyền Việt Nam gây ra ở Đồng Tâm thật trời không dung đất cũng không tha. Vì công an Việt Nam nổ súng sát hại một lão già 58 tuổi đảng, rồi tử hình 2 con trai cụ chỉ mục đích cướp miếng đất trị giá hàng tỷ đô ở Đồng Sênh.   Vậy chiếu theo chân lý Ông Balakrishnan nói ra, thì nhà cầm quyền Việt Nam do Nguyễn phú trọng cầm quyền gây ra ở Đồng Tâm cũng là tột đỉnh của sự ô nhục.   Rõ ràng việc nổ súng vào dân là một việc làm của một chế độ tàn bạo, lấy máu dân dựng nên chế độ. Duy trì quyền lực trên họng súng rõ ràng quân đội bị vòng xoáy quyền lực chính trị mê hoặc.   Ở các nước có nền Dân chủ mạnh mẽ, thì quân đội hay Lực lượng vũ trang (LLVT)chỉ giữ đúng vai trò bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân. Không bao giờ tham gia vào cuộc tắm máu dân.   Máu đã đổ ở Miến Điện, hay Đồng Tâm khi lực lượng vũ trang nghe theo lệnh cấp trên, điều đó là quân đội bị chính trị hoá. Nó tạo thứ chính trị bạo tàn vì lợi ích kẻ cầm quyền độc tài luôn đối nghịch với nhân dân.   Quân đội có súng ống, hay vũ khí hiện đại là để chống ngoại xâm, gìn giữ và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Những thứ vũ khí ấy cũng do từ máu và mồ hôi công sức của dân mà ra. Vì thế nó phải phục vụ tổ quốc và người dân, không phải là công cụ trung thành của bất kỳ đảng phái nào hoặc phe nhóm nào.   Không phải chỉ giữ quyền lực, Lực lương vũ trang ở Việt Nam bị nhiều lãnh đạo đảng lợi dụng cho việc đi cướp đất của dân tạo ra một đế chế dân oan mạnh nhất thế giới.   Nhìn qua Myanmar và rõ nhất ở Đồng Tâm, Việc phi chính trị hoá LLVT là cần thiết. Vì chế độ đảng phái chính trị nào cũng nhất thời, do con người điều hành, thì sai xót khi ra quyết sách là không thể tránh, vì vậy quân đội không thể trung thành với họ. Xét theo lịch sử, lãnh tụ độc tài nào cũng luôn rêu rao “còn đảng còn mình”.   Vì vậy, bài học ở Miến điện rút ra ở đây là để tránh một cuộc tắm máu đồng bào do quân đội gây ra trong tương lai, cách tốt nhất là chỉ trung thành với tổ quốc và nhân dân.   Không mệnh lệnh nào bằng mệnh lệnh của đại đa số Nhân dân. Quân đội Việt Nam hãy đứng vê nhân dân trước khi không thể...
......

Đánh dấu 39 năm Ngày Dựng Cờ Chính Nghĩa (8/3/1982 - 8/3/2021)

Ảnh : Tướng Hoàng Cơ Minh hướng dẫn các thành viên Mặt Trận tại vùng rừng núi Đông Dương, trong dịp lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị 8/3/1982. Ảnh: Tư liệu Đảng Việt Tân Lý Thái Hùng Cách đây 39 năm, trong lúc cả nước chìm đắm trong gông cùm bạo tàn của chế độ độc tài Cộng Sản, hàng triệu người tìm cách vượt biên, vượt biển ra nước ngoài tìm tự do, thì một số người yêu nước từ hải ngoại đã tìm cách trở về để bắt tay với những lực lượng kháng cự tại quốc nội, dựng lại ngọn cờ Chính Nghĩa sau cuộc chính biến Tháng Tư, 1975. Đánh dấu của sự trở về này chính là buổi lễ công bố bản Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, gọi tắt là Mặt Trận, tiền thân của Đảng Việt Tân vào ngày mồng 8 tháng Ba, 1982, nhằm minh định lập trường đấu tranh cứu nước và dựng nước, trong bối cảnh tan tác, đau thương của toàn thể dân tộc dưới sự cai trị của đảng CSVN. Tại miền Nam, hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị đày ải nơi các trại tù khổ sai chung thân dưới mỹ từ “Trại tập trung cải tạo.” Hàng trăm ngàn gia đình thân nhân của các quân cán chính này đã bị lưu đày đến những vùng rừng sâu nước độc dưới mỹ từ xây dựng “Khu kinh tế mới.” Nền kinh tế trù phú miền Nam hoàn toàn bị phá hủy dưới chủ trương “đánh tư sản mại bản.” Tại miền Bắc, cuộc chiến tranh biên giới do Đặng Tiểu Bình phát động dưới cái gọi là “dạy cho đàn em CSVN một bài học,” đã huy động gần nửa triệu Hồng quân và súng đạn, tổng công kích 6 tỉnh miền Bắc vào đầu năm 1979, đã không chỉ khiến cho hàng vạn người bị hy sinh, hạ tầng cơ sở bị phá hoại nặng nề, mà còn làm cho hàng triệu người dân miền Bắc sống điêu đứng trong nhiều năm dài. Những thảm cảnh không bút mực nào tả xiết này đã hoàn toàn bị bưng bít bằng bức màn sắt của chế độ, bao trùm lên toàn thể đất nước từ 1975 đến 1987, khi chế độ buộc phải mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài để cứu nguy nền kinh tế phá sản. Người Việt Nam lúc đó bị cách ly khỏi thế giới bên ngoài, đè nghẹt dưới gọng kềm chuyên chính, cảm nhận đất nước đang từng ngày biến thành địa ngục trần gian. Chính trong bối cảnh vô vọng đó của dân tộc, và trước sự thờ ơ của thế giới coi số phận Việt Nam như đã an bài, người Việt Nam đã không đầu hàng nghịch cảnh mà cương quyết vùng lên tìm đường cứu nước. Tại buổi lễ trong vùng rừng núi Đông Dương, Tướng Hoàng Cơ Minh, Chủ Tịch Mặt Trận đã tuyên xưng chính nghĩa của dân tộc: “Những nguyện vọng nhỏ bé nhất của người dân như cơm đủ ăn, áo đủ mặc, sống cảnh gia đình đoàn viên cũng không còn có thể thực hiện được… Nguy hại hơn nữa, CSVN đã đưa Tổ Quốc chúng ta vào vòng thống trị của đế quốc, đem quân khống chế Lào, xâm chiếm Kampuchia… Vì sự sống còn của dân tộc, vì khát vọng tự do và hòa bình, dân tộc Việt Nam quyết tâm hy sinh và chiến đấu… Trong bầu không khí phấn khởi của Mùa Xuân Khởi Nghĩa, trong niềm căm phẫn tột độ của toàn dân, với tinh thần “Quyết tâm giải phóng Việt Nam,” Mặt Trận công bố Cương Lĩnh Chính Trị để hướng dẫn toàn dân trong công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc và xây dựng Quê Hương.” Châm ngôn của Mặt Trận là: “Lấy chính nghĩa để huy động toàn dân. Lấy chính nghĩa để khuất phục kẻ thù. Lấy chính nghĩa để tranh thủ thế giới.” Vì thế ngày 8 tháng Ba, Mặt Trận đã tuyên xưng đây là ngày Dựng Cờ Chính Nghĩa. XEM THÊM: Bối cảnh xuất hiện “Ngày Dựng Cờ Chính Nghĩa 8/3/1982” https://viettan.org/boi-canh-xuat-hien-ngay-dung-co.../ Người Việt Nam đã không chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của một cá nhân hay dòng họ như thời quân chủ xa xưa. Người Việt Nam cũng không chiến đấu để bảo vệ quyền lợi cho một giai cấp, của một đảng độc tôn. Chính nghĩa đấu tranh của người Việt Nam vào thập niên 80 là ở chỗ chiến đấu để giành lấy độc lập và tự do, vì quyền lợi tối thượng của đất nước và vì lẽ sống còn của toàn dân đang bị thiểu số độc tài áp bức. XEM THÊM: Những quan niệm nền tảng của Đảng Việt Tân https://viettan.org/.../phan-hai-nhung-quan-niem-nen-tang/ Nhưng có chính nghĩa không chưa đủ, chúng ta còn phải quảng bá và phát huy chính nghĩa đó bằng những quan niệm và hành động thực tiễn. Hành động thực tiễn biểu hiện qua tinh thần chiến đấu trường kỳ, không chấp nhận thỏa hiệp hay nhượng bộ đối phương cho đến ngày chế độ độc tài hoàn toàn sụp đổ, và đất nước có cơ hội canh tân, xây dựng một nền dân chủ vững chắc, tự do, văn minh và nhân bản. Hành động thực tiễn còn biểu hiện tinh thần sẵn sàng từ bỏ cuộc sống ấm êm tại hải ngoại, để đồng cam cộng khổ với quốc nội trong từng nỗ lực xây dựng tiềm lực đấu tranh lâu dài. Với tinh thần đó, những thành viên của Mặt Trận, đã nối tiếp nhau xây dựng hành lang phục quốc từ những ngày đầu thành lập khu chiến gian lao với hai bàn tay trắng, tới con đường Đông Tiến hào hùng với những chuyến nhập nội đầy hiểm nguy, trắc trở – bằng chính xương máu và tài lực của mình, dựa trên những quan niệm thực tiễn làm kim chỉ nam hành động: Lấy sức mạnh dân tộc làm căn bản, đại đoàn kết toàn dân làm vũ khí và đứng trên lập trường dân tộc để đấu tranh toàn diện. Trong chiến lược “Toàn Dân Toàn Diện,” Mặt Trận kêu gọi sự tham gia của mọi thành phần dân tộc, và tấn công chế độ trên mọi bình diện, mọi phương tiện, với phương châm “tiết kiệm xương máu của toàn dân và bảo tồn tài nguyên của đất nước,” nhằm tiến tới một cuộc “vùng dậy của toàn dân” để chấm dứt chế độ độc tài. Với chủ trương “Lấy đại đoàn kết toàn dân làm vũ khí,” Mặt Trận cũng đã kêu gọi anh em thuộc “hàng ngũ bên kia” quay trở về phục vụ dân tộc thay vì chủ nghĩa “Cộng sản quốc tế.” 39 năm trước, Mặt Trận không chủ trương mở một cuộc chiến tranh mới mà là tiến hành một cuộc đấu tranh giải phóng. Nếu sức mạnh của chiến tranh đến từ nòng súng, đến từ đại pháo xe tăng thì sức mạnh chính yếu của đấu tranh giải phóng đến từ con tim, đến từ quyết tâm của con người. Chính những quyết tâm này, chúng ta đã cùng nhau thắp sáng ngọn lửa tự do và liên tục trao đến tay nhiều thế hệ, kể cả những người từng ở bên này hay bên kia chiến tuyến trước năm 1975. Lúc đó vẫn có một số người nghi ngờ về chủ trương này, liệu có thể đạt được mục tiêu giải phóng đất nước sau những bàng hoàng về sự sụp đổ của miền Nam trong lúc có hơn 1 triệu quân trong tay? Nhưng đến ngày hôm nay, chúng ta càng thấy rõ, như lời tâm huyết của cố Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, đã từng chia sẻ với đồng bào: “Chúng ta không chủ trương chiến đấu đơn độc, nhưng không ngại chiến đấu một mình. Chúng ta luôn lấy sức mạnh dân tộc làm căn bản. Không nước nào giúp chúng ta mà không vì quyền lợi của chính họ. Hãy vận động sự hỗ trợ của thế giới trên căn bản tương quan quyền lợi. Có những vấn đề Việt Nam mà người Việt Nam phải giải quyết. Có những vấn đề Việt Nam của thế giới mà thế giới phải chung tay giải quyết. Không ai thương dân tộc Việt Nam bằng chính người Việt Nam.” Do đó, muốn Việt Nam có tự do và dân chủ thật sự, chính người Việt Nam hơn lúc nào hết phải cùng nhau góp phần đấu tranh bằng hết tấm lòng, khả năng và trí tuệ của mỗi người. Nhìn lại 39 năm ngày Dựng Cờ Chính Nghĩa, mặc dù cuộc đấu tranh chưa thành tựu và còn rất nhiều chông gai phía trước, nhưng chúng ta vững tin là sớm muộn gì chế độ độc tài cộng sản cũng phải cáo chung, với những chỉ dấu rõ rệt trong hiện tình đất nước: Thứ nhất, lòng dân đã chán ngán và nhìn thấy rõ là đảng CSVN không có khả năng mang lại đời sống tự do và hạnh phúc thực sự cho toàn dân. Những chính sách cải cách kinh tế nửa vời, dè chừng, tuy có mang lại một số thay đổi, nhưng về căn bản, đất nước và xã hội Việt Nam đã không phát triển lành mạnh theo đúng tiềm năng của dân tộc. Chính bộ máy độc tài của đảng Cộng Sản Việt Nam đã biến Việt Nam thành một xứ tư bản hoang dã, cạnh tranh theo quy luật “mạnh được yếu thua.” Thứ hai, đảng CSVN thực chất là một tập đoàn mafia với các phe nhóm “cộng sinh” theo quy luật “dựa vào nhau để tồn tại, dè chừng nhau để thủ thân, đấu đá nhau để thủ lợi.” Dưới chiêu bài “đốt lò,” phe Nguyễn Phú Trọng đang đào xới những vụ án tham ô liên hệ đến cán bộ của những phe nhóm khác để triệt hạ con đường thăng tiến của một số cán bộ hầu giữ chặt quyền lực đảng và nhà nước vào trong tay phe nhóm mình. Sự kiện Nguyễn Phú Trọng dù tuổi cao và sức khoẻ suy yếu những vẫn cố bám chặt ghế tổng bí thư thêm một nhiệm kỳ thứ ba trong đại hội XIII cho thấy là Nguyễn Phú Trọng đi theo đường mòn Tập Cận Bình để thao túng tất cả. Thứ ba, người dân đã không còn quá sợ hãi bộ máy trấn áp của chế độ. Người dân đã biết cách khai thác những biện pháp cải tổ nửa vời và dùng mạng xã hội để tạo những áp lực thay đổi hoặc đẩy bộ máy hành chánh rơi vào tình thế lúng túng đối phó trong nhiều trường hợp. Nhờ vậy mà ngày hôm nay, không gian hoạt động của các đoàn thể xã hội dân sự đã mở rộng trên nhiều lãnh vực và người dân tự liên kết nhau để chống lại những thủ đoạn trấn áp của an ninh, nhằm phát triển tiềm lực trong quần chúng. Tóm lại, gần 4 thập niên sau ngày Dựng Cờ Chính Nghĩa chưa phải là thời gian quá dài trong dòng lịch sử dân tộc, nhưng đủ cho phong trào dân chủ Việt Nam bắt rễ để chuẩn bị cho thế trận mới trong ngày toàn dân tổng phản công toàn diện, bằng chính sức mạnh của người Việt Nam trong và ngoài nước. Thông điệp nhân bản, xây dựng và chủ trương thực tiễn của Mặt Trận phát xuất từ tấm lòng trong sáng của những người Việt Nam yêu nước, đầy nhiệt tình và can đảm – dù đã hy sinh hay vẫn còn kiên trì chiến đấu, đã thắp sáng ngọn lửa chính nghĩa của dân tộc qua nhiều thế hệ, và đang góp phần xiển dương dòng lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lý Thái Hùng https://viettan.org/danh-dau-39-nam-ngay-dung-co-chinh.../  
......

Giải mã vụ Đồng Tâm (Phần 5-6)

  Hoàng Xuân Phú|   5. Thông điệp Đồng Tâm?   Tấn công vào Đồng Tâm, tra tấn và giết hại cụ Kình hết sức dã man, đồng thời thiêu cháy ba sĩ quan cảnh sát, rồi gán tội giết người cho sáu người dân Đồng Tâm, kéo theo hai án tử hình, một án chung thân... Tại sao phải hành xử như vậy? Nhằm phát đi thông điệp gì? Điều đó thì chỉ tác giả kịch bản và đạo diễn mới biết rõ. Nhưng họ không nói ra, và có lẽ đến lúc trút hơi thở cuối cùng cũng không thể nói ra, vì sự thật quá tệ hại. Thành thử, muôn dân chỉ có thể suy đoán. Nhiều người bứt rứt với câu hỏi: Mấy chục hecta đất ở nơi xa vắng ấy có đáng để hành xử như vậy hay không? Không. Mấy chục, chứ mấy trăm hecta cũng không. Vì thế, nếu chỉ quanh quẩn trong phạm vi mấy chục hecta đất đai tranh chấp, thì sẽ không thể lý giải nổi thảm kịch Đồng Tâm.   5.1. Tâm tư thượng giới? Để hiểu phần nào cội nguồn của tội ác Đồng Tâm, hãy lùi ba mươi năm, trở lại những năm tháng chấn động địa cầu, bởi sự sụp đổ đồng loạt của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Ngày ấy, nền chuyên chính hà khắc nhân danh vô sản bỗng trở nên bất lực, khi nhân dân đứng lên lựa chọn chế độ phi cộng sản. Lực lượng vũ trang khổng lồ tỏ ra vô dụng, sau nửa thế kỷ được chăm bẵm, biệt đãi để bảo vệ chế độ. Ở Romania, súng có nổ theo kỳ vọng, nhưng chẳng cứu vãn nổi tình hình, mà chỉ làm cho kết cục của vợ chồng Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Romania Nicolae Ceaușescu thêm thê thảm. Ở Moskva, cuộc chính biến trong ba ngày 19-21/8/1991 nhằm cứu vãn chế độ cộng sản ở Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết thất bại, khi phần lớn lực lượng vũ trang được điều động không tuân lệnh cấp trên, mà lại đứng về phía những người biểu tình. Kể từ đó, giới cầm quyền ở các nước cộng sản còn sót lại thấp thỏm lo âu, sợ đến lượt mình. Vậy là gấp gáp đua nhau vơ vét, từ tài sản mang danh sở hữu toàn dân và tài sản riêng của muôn dân. Đồng thời siết chặt chuyên chính, trấn áp từ xa mọi mầm mống có thể kích hoạt quá trình sụp đổ của chế độ.   Ăn cắp vặt lẻ tẻ trở thành cao trào tham nhũng và cướp bóc có tổ chức. Càng lên cao quy mô tham nhũng càng cao. Khi nhân sự các cấp được xác định bởi đa số phiếu bầu, mà những kẻ tham nhũng ngút trời, ai ai cũng biết, vẫn được bầu vào những vị trí siêu cao, thì chứng tỏ đa số có quyền tham gia bỏ phiếu thuộc thể loại nào. Trong quần thể ấy, chống tham nhũng hay được tận dụng như một phương tiện để thanh trừng đối phương và phân chia lại thị phần tham nhũng. Khi tham nhũng đã trở thành bản chất của chế độ, thì chống tham nhũng (ngoài khuôn khổ của chiến dịch "nhổ cỏ lạ") có thể bị quy kết là chống chế độ. Do đó, có thể nhân danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng.   Vì không đánh giá đúng thực tế trần trụi ấy, cụ Kình nhầm tưởng sẽ an toàn, khi viện dẫn ý ngọc lời vàng của đấng tối cao để giương cao ngọn cờ chống tham nhũng. Tiếc thay, cụ cả tin nhầm thời, như đã từng tâm sự với cháu dâu Nguyễn Thị Duyên. Rằng "bác Trọng chống tham nhũng giỏi, sẽ để mắt đến vụ án dân Đồng Tâm chống tham nhũng". Rằng "họ không thể nào làm trái luật pháp, lương tâm và sự thật". Rằng "con yên tâm, cứ tin vào luật pháp Việt Nam và bộ máy nhà nước này". Và rằng "ông tin vẫn còn những cá nhân cấp cao tôn trọng sự thật". Đó là nhầm lẫn chết người. Vâng, chết người theo đúng nghĩa đen. Vì cụ Kình đã bị giết, bởi đồng chí đồng đảng mà cụ đã gửi trọn niềm tin. Thế lực cầm quyền thừa biết, nhóm nông dân Đồng Tâm chẳng dám, mà cho dù có dám thì cũng chẳng đủ sức để chống phá chế độ. Song nhóm thảo dân lại phạm phải ba điều tối kỵ, mà đấng cầm quyền không thể dung tha. Thứ nhất là hành động có tổ chức và mang bóng dáng của phong trào quần chúng, gắn bó xung quanh cụ Lê Đình Kình. Thứ hai là cả gan khống chế lực lượng vũ trang, lôi kéo các tay súng của đảng buông súng. Thứ ba là buộc Chủ tịch Nguyễn Đức Chung, người đứng đầu chính quyền Thủ đô Hà Nội, phải cúi đầu ký cam kết. Mấy hành động ấy không chỉ bị coi là thách thức chính quyền và là nỗi nhục không thể nuốt trôi, mà còn bị nhìn nhận là mầm mống chống đối dễ lây lan. Thêm vào đó, những lời ngợi ca và cổ vũ của dư luận bốn phương như đổ thêm dầu vào lửa, có thể gia tăng hưng phấn và ngộ nhận trên đất Đồng Tâm, nhưng đồng thời cũng khuếch đại nỗi căm giận và lo sợ của đấng cầm quyền. Vì vậy họ đã ra tay, đương nhiên không nhằm giải quyết tranh chấp mấy chục hecta đất đai, mà để trả thù và dập lửa từ xa, để đám lửa Đồng Tâm không trở thành tiền lệ, cháy lan ra muôn nơi.   Để hiểu hơn nỗi lo dày vò nơi thượng giới, hãy quan sát lễ xuất quân bảo vệ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII. Khi đó, 15 ngày trước lúc Đại hội khai mạc, 6.000 người, thiết giáp BTR-60 PB, RAM 2000 MKIII cùng nhiều loại vũ khí tối tân đã rầm rộ xuất quân. Đại hội đảng của cái đảng độc nhất, lại luôn miệng quả quyết rằng "ý đảng hợp lòng dân" và "được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ". Vậy thì hà cớ gì mà phải huy động lực lượng đến mức ấy để bảo vệ "nhiều vòng, nhiều lớp"? Nếu chỉ là biện pháp thận trọng, thì cứ việc tiến hành kín đáo, tại sao phải phô trương đến như thế?   Chưa hết, lại còn hạn chế xe tải, xe khách trên các tuyến đường hướng về Hà Nội, suốt từ 5 giờ sáng đến 8 giờ tối tất cả các ngày diễn ra Đại hội XIII, mặc dù trong thời gian ấy tất thảy 1.587 đại biểu tham dự Đại hội đã yên vị ở trung tâm Thành phố Hà Nội, chứ chẳng còn ai lang thang trên các ngả đường dẫn về Thủ đô. Vậy tại sao lại phải hạn chế giao thông đến tận những vùng xa xôi, cách nơi tổ chức Đại hội đến gần 50 km, như Vực Vòng, Đồng Văn (Hà Nam)? Kết quả là phơi bày nỗi sợ, hơn là biểu dương lực lượng. Mà biểu dương lực lượng cũng nhằm kìm nén nỗi sợ mà thôi. Sợ ai? Hiển nhiên, những loại vũ khí tối tân được huy động, như thiết giáp BTR-60 PB và RAM 2000 MKIII, không phải để "đón" dân oan khiếu kiện, hay "tiếp" mấy vị bất đồng chính kiến...   Hãy đọc Thông tư số 17/2018/TT-BCA ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Bộ công an, quy định về trang bị vũ khí, vật liệu nổ quân dụng và công cụ hỗ trợ. Theo Điều 4 Khoản 1 của Thông tư ấy, thì "công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh" cũng "được xem xét trang bị… súng chống tăng, … súng máy phòng không, tên lửa chống tăng cá nhân…". Đương nhiên, không phải để đánh giặc ngoại xâm, vì nhiệm vụ quốc phòng thuộc phạm vi trách nhiệm của Quân đội. Thử hỏi, súng chống tăng, tên lửa chống tăng và súng máy phòng không của lực lượng "công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh" sẽ nhắm vào đối tượng nào, trong một đất nước mà chỉ có Quân đội mới có xe tăng và máy bay chiến đấu? Một khi đã lo xa, chuẩn bị đối đầu với cả nguy cơ quân ta tấn công quân mình, thì tất nhiên thế lực cầm quyền không thể bỏ qua biến cố Đồng Tâm. Thật ra, nếu thực tâm mong muốn, thì chính quyền có thể dễ dàng giải quyết tranh chấp đất đai ở Đồng Tâm một cách êm thấm. Song ngược lại, sự cố đã được duy trì và kích động gia tăng, để tận dụng nó như một cơ hội hiếm có. Cơ hội để biểu dương sức mạnh của bạo lực chuyên chính, nhằm dằn mặt toàn dân. Cơ hội để thực tập tấn công trấn áp người dân trên quy mô lớn. Vâng, không còn giả vờ diễn như diễn tập, mà tất cả đều hết sức thực khi thực tập. Tấn công thực, đàn áp thực, bắt bớ thực, và giết người cũng thực.   Nếu chỉ muốn trấn áp và bắt bớ ba chục người dân Đồng Tâm, thì chỉ cần điều động vài trăm cảnh sát cơ động đã là quá đủ. Nhưng lại huy động hàng nghìn cảnh sát, hẳn là để thực tập chỉ huy và hiệp đồng tác chiến trên qui mô lớn. Đặc biệt, cuộc thực tập Đồng Tâm là cơ hội để kiểm nghiệm, xem lực lượng "còn đảng còn mình" có triệt để chấp hành mệnh lệnh một cách vô điều kiện hay không, nhất là khi nhận lệnh giết dân và giết cả đồng đội.   Ngày xưa, đầu của quan coi lương Vương Hậu bị Tào Tháo mượn để tránh lòng quân sinh biến. Ngày nay, đầu của đảng viên cộng sản Lê Đình Kình cũng bị mượn để ngăn lòng dân ai oán. Giống nhau ở chỗ, cả hai đều vô tội. Nhưng khác nhau ở chỗ, trước khi bị giết Vương Hậu còn được Tào Tháo thuyết phục một cách trung thực, rằng "Ta muốn mượn cái đầu ngươi để dẹp yên lòng quân", và "Ta cũng biết ngươi không có tội, nhưng không giết ngươi thì lòng quân sinh biến, sau khi ngươi chết, vợ con ngươi ta nuôi cho, ngươi đừng lo." Với cụ Kình thì hoàn toàn ngược lại, trước khi bị giết còn bị đồng chí xỉ vả, tra tấn, và chết rồi còn bị bồi thêm hai án tử hình, một án chung thân và 112 năm tù dành cho con cháu, người thân. Âu cũng thể hiện thứ đạo đức đặc trưng, từng giáng họa lên bao đồng bào, đồng chí thời Cải cách ruộng đất 1954, nay được đám đồng chí đồng đảng học tập và làm theo phát huy gấp bội. Vẫn chưa đủ, ba mạng cảnh sát cũng bị hy sinh, để biện hộ cho việc giết hại cụ Kình và lý giải các hình thức chuyên chế sẽ được triển khai trong tương lai. Bốn mạng người chỉ là giá khởi điểm, một khi đã quyết "Bằng bất cứ giá nào phải giữ cho được an ninh chính trị, trật tự xã hội”, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chỉ thị trong buổi làm việc với Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương vào sáng ngày 21 tháng 9 năm 2020. Tất nhiên, cần phải hiểu, cái muốn giữ không phải là giá trị phổ cập của thế giới văn minh, mà chỉ "giữ cho được" thứ "an ninh" và "trật tự xã hội" theo khẩu vị riêng của đấng cầm quyền sở tại.   5.2. Thông điệp bất chấp   Từ cách xử lý vụ Đồng Tâm toát ra thông điệp: Nếu dám làm trái ý đấng cầm quyền, cho dù hành động hợp pháp và chính đáng đến đâu đi nữa, thì cũng bị thẳng tay trừng trị. Và khi ra tay, thế lực cầm quyền bất chấp tất cả. Bất chấp đạo lý. Bất chấp lẽ phải. Bất chấp sự thật. Bất chấp cả Hiến pháp và pháp luật của chính Nhà nước này.   Lãnh đạo Bộ công an đã bất chấp sự thật khi thông báo về cuộc tấn công vào Đồng Tâm. Cơ quan cảnh sát điều tra đã bất chấp sự thật khi tung ra Kết luận điều tra hoàn toàn sai trái. Viện kiểm sát và Tòa án đã bất chấp sự thật khi bê đống bịa đặt từ Kết luận điều tra vào Cáo trạng và Bản án. Nhiều tình tiết vu khống, bịa đặt đã bị vạch trần. Còn vô số tình tiết sai trái khác chưa bị động tới. Nhưng ở đây, ta chỉ bổ sung thêm một ví dụ hết sức đơn giản, để minh họa cho mức độ sai trái tràn lan của các thông tin được nhồi nhét vào Kết luận điều tra, Cáo trạng và Bản án.   Về kích thước phòng khách nhà cụ Lê Đình Kình, Kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra viết tại trang 23: "Phòng khách có kích thước (4,5 x 7 x 2)m" (xem nửa trên Ảnh 5.1). Thử hỏi, có phòng khách nào chỉ cao 2 mét hay không? Vậy mà thông tin ấy lại được viết vào Kết luận điều tra, rồi được các thể loại cấp trên kiểm duyệt và phê duyệt. Những tưởng sản phẩm trí tuệ tầm ấy chỉ có đất dung thân ở Bộ công an, ai dè cũng được Viện kiểm sát trân trọng kết nạp. Thật vậy, Cáo trạng viết tại trang 21: "Phòng khách có kích thước (4,5x7x2)m" (xem nửa dưới Ảnh 5.1). Chẳng phải vì lười nên copy & paste, rồi kéo theo cả lỗi, mà đã cần cù đánh máy lại văn bản và sửa đổi những chỗ mà họ không ưng. Cụ thể, trong câu ấy, họ đã bỏ đi khoảng trống ở hai bên dấu nhân, song vẫn giữ lại kích thước của chiều thứ ba là 2 mét. Giả sử, nếu phòng khách nhà cụ Kình đã bị họ phá tan tành, thì bịa tùy ý đã đành. Đằng này, căn phòng ấy vẫn còn đó, với kích thước nền là 4,55 x 7,25 và chiều cao là 3,67 mét, nhưng họ vẫn thản nhiên viết là 2 mét.   Ảnh 5.1: Kích thước phòng khách nhà cụ Lê Đình Kình trong Kết luận điều tra và Cáo trạng.   Một thông tin đơn giản về một căn phòng đang tồn tại, không cần phải viết ra và nếu viết thì không cần phải viết sai, mà vẫn viết và vẫn sai như thế, thì đương nhiên, để vu khống người dân và bào chữa cho tội ác Đồng Tâm, họ chẳng thèm kiềm chế khi bịa đặt về các diễn biến đã qua. Vậy nên bất chấp sự thật, bịa ra chuyện cụ Lê Đình Kình dùng dao phóng lợn và cầm lựu đạn để tấn công cảnh sát. Và bịa ra chuyện ông Lê Đình Chức, giữa vòng vây cảnh sát vẫn điềm nhiên dùng dao phóng lợn chọc xuống cửa sổ, khiến ba sĩ quan cảnh sát cùng rơi xuống hố kỹ thuật, rồi thong thả đổ xăng xuống đó để thiêu...   Nếu tư duy một cách đơn giản, thì chẳng đáng ngạc nhiên, khi họ thể hiện truyền thống vu khống bịa đặt. Song vẫn băn khoăn với câu hỏi: Tại sao lại bịa đặt quá ngớ ngẩn như thế? Nếu chỉ do một đám thiểu năng tùy tiện nhào nặn thì đi một nhẽ. Đằng này, còn mấy tầng biên tập và phê duyệt, ít nhất lên đến lãnh đạo cấp Bộ. Chẳng lẽ cái công nghệ tuyển chọn, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ đúng quy trình xây dựng đảng đã ngu hóa bộ máy cầm quyền đến mức ấy rồi sao? Phải chăng vì thế mà càng bịa càng ngu, càng ngu càng bịa? Thật xót cho muôn dân, phải tốn tiền nộp thuế, để nuôi bộ máy cầm quyền án ngữ bởi những não trạng tệ hại như vậy. Không chỉ hại cơm, mà còn hại dân, hại nước...   Nhưng nếu tư duy một cách cảnh giác, thì cần đặt thêm câu hỏi: Phải chăng, họ cố tình bịa đặt ngớ ngẩn đến mức cả những người ngu ngơ cũng có thể nhận ra, nhằm gửi đến toàn dân thông điệp, rằng họ bất chấp cả sự thật?   Sự thật là thứ có thể diễn ra ngoài ý muốn của thế lực cầm quyền, nên có thể biện bạch, rằng bất đắc dĩ mới đành phải bất chấp. Nhưng tại sao lại bất chấp cả Hiến pháp và pháp luật, là thứ do chính họ đặt ra và có thể ban hành như ý? Chẳng phải đến vụ Đồng Tâm mới bất chấp pháp luật, mà đã bất chấp từ lâu. (Ví dụ điển hình là ngang ngược chà đạp lên quyền biểu tình của công dân suốt mấy chục năm qua, mặc dù quyền ấy đã được hiến định trong tất cả các Hiến pháp của chế độ này.) Song phận dân đen thì chẳng biết bấu víu vào đâu ngoài pháp luật. Thành thử, người dân vẫn viện dẫn pháp luật để kêu oan, tố cáo quan tham và đòi công lý. Tiếc thay, đối với giới cầm quyền thì thái độ cứng đầu đó hay bị đồng nghĩa với việc lợi dụng Hiến pháp và pháp luật để phá rối "an ninh chính trị và trật tự xã hội". Phải chăng, chính vì vậy mà trong vụ Đồng Tâm, họ đã cố tình hành xử hết sức thô bạo, bất chấp Hiến pháp và pháp luật, nhằm dạy toàn dân bài học: Hiến pháp và pháp luật chỉ là công cụ để bề trên cai trị thần dân, nên đừng ngây thơ tưởng đó là thứ có thể dùng để trói buộc đấng cầm quyền.   Diễn ra trước thềm Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải chăng vụ Đồng Tâm cũng có tác dụng tương tự đối với nội bộ đảng cầm quyền. Đó là răn đe đối phương và nhắn nhủ tới toàn đảng: Điều lệ đảng chỉ là công cụ để cấp trên khống chế cấp dưới, nên đừng ngây ngô viện dẫn điều cấm trong Điều lệ đảng để cản trở kế hoạch quyền lực của đấng tối cao. Xét từ góc độ này, phải chăng vụ Đồng Tâm cũng góp phần chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIII? Trên thực tế, Đại hội XIII đã nhất trí "không sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng hiện hành". Tức là vẫn giữ nguyên cả Điều 17 của Điều lệ, trong đó quy định "Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp." Tuy nhiên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII vẫn bầu ông Nguyễn Phú Trọng giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ thứ ba.   Về lý mà nói, điều lệ đảng là văn bản pháp lý tối cao của mọi đảng chính trị, mà tất cả các tổ chức và các đảng viên của đảng đều phải nghiêm chỉnh chấp hành. Lãnh đạo cấp càng cao thì càng phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của điều lệ đảng, đặc biệt là những quy định dành riêng cho các vị trí lãnh đạo, bao gồm cả quy định về nhiệm kỳ của Tổng bí thư. Đây là một đặc điểm nhận dạng cơ bản, để phân biệt một đảng chính trị đích thực với một băng đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tại Điều 48: "Chỉ Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ Đảng." Hiển nhiên, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam có quyền và chỉ có quyền quyết định sửa đổi hay không sửa đổi Điều lệ đảng, chứ Đại hội không hề có quyền quyết định vi phạm hay cho phép ai đó vi phạm Điều lệ đảng. Đó là tư duy pháp lý sơ đẳng, mà mọi người trưởng thành với đầu óc khỏe mạnh đều phải hiểu. Vì thế, khi Đại hội XIII đã quyết định "không sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng hiện hành", thì bản thân Đại hội XIII và cả cái Ban Chấp hành Trung ương do nó bầu ra cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ hiện hành, tất nhiên cả Điều 17, Khoản 1.   Vậy mà, Ban chấp hành Trung ương khóa XIII lại vi phạm Điều lệ đảng để hiện thực hóa kế hoạch nhiệm kỳ thứ ba của Tổng Bí thư. Hơn nữa, cả Đại hội XIII cũng chấp nhận như vậy.   Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định không mệt mỏi, rằng "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay." Vậy còn đảng của ông thì thế nào? Tuy chẳng nói ra, nhưng chính bản thân Tổng bí thư cùng Đại hội XIII do ông đạo diễn (và cũng diễn ra như ý) đã phơi bày một thực tế trần trụi, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ mất tính đảng, mất tính chiến đấu như ngày nay.   Bài học đọng lại là: Điều lệ đảng, vốn được coi là thiêng liêng, mà dàn lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam còn thản nhiên chà đạp như thế, thì đừng quá ngạc nhiên khi họ chà đạp gấp bội lên Hiến pháp và pháp luật của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.   6. Ta phải làm gì?   Khi "chiến công đặc biệt" đã diễn ra như trình bày trong phần 4, thì các bị cáo Đồng Tâm chẳng hề liên can đến cái chết của ba sĩ quan cảnh sát. Nếu bị cáo khai nhận hành vi giết người nào đó, thì là do bị ép cung. Dấu hiệu ép cung thô bạo đã quá rõ ràng, mà Tòa án vẫn bám vào kết quả ép cung để kết án, thì là đồng lõa ép cung để chà đạp công lý. Do đó, việc Tòa án tuyên bố sáu bị cáo Lê Đình Chức, Lê Đình Công, Lê Đình Doanh, Bùi Viết Hiểu, Nguyễn Quốc Tiến và Nguyễn Văn Tuyển phạm tội giết người là cố tình kết án oan sai. Tất nhiên, ai cũng hiểu, trong những phiên xét xử kiểu này, thẩm phán chỉ là diễn viên đóng thế mà thôi.   Bản án số 355/2020/HS-ST có đoạn (trang 43):   "Hành vi của bị cáo Lê Đình Chức là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng làm chết 03 người đang thi hành công vụ, thể hiện tính côn đồ, tàn ác, mất nhân tính và không còn khả năng cải tạo, nên cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc nhất của khung hình phạt, loại bỏ vĩnh viễn khỏi đời sống xã hội để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung."   Càng tin Lê Đình Chức không giết ba cảnh sát, thì càng rùng mình trước phán quyết "tàn ác, mất nhân tính và không còn khả năng cải tạo", nên phải "loại bỏ vĩnh viễn khỏi đời sống xã hội". Phải chăng, chính tác giả đích thực của Bản án mới phù hợp với phán quyết ấy? Chẳng lẽ, chỉ vì mục đích "răn đe" và "phòng ngừa", mà họ hành động "tàn ác, mất nhân tính" đến như vậy hay sao? Liệu bản thân họ có "còn khả năng cải tạo" nữa hay không?   Sau phán xử sơ thẩm oan sai, mọi người chỉ còn cách trông chờ vào phiên tòa phúc thẩm. Nhưng ngày 6/11/2020, tức là 53 ngày sau khi kết thúc xét xử sơ thẩm vụ án Đồng Tâm, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình đã long trọng tuyên bố trước Quốc hội: "Chưa phát hiện kết án oan người vô tội." Tức là, ông ta cho rằng phiên xét xử sơ thẩm vụ án Đồng Tâm cũng không hề "kết án oan người vô tội". Nếu thế thì tương tự như vụ án Hồ Duy Hải, hạ màn phúc thẩm hay giám đốc thẩm cũng y án sơ thẩm mà thôi.   Có điều, dù y án, nhưng có lẽ sẽ không dám thi hành án tử hình đối với Lê Đình Chức và Lê Đình Công. Bởi thế lực cầm quyền biết rõ, ai mới là kẻ giết chết ba sĩ quan cảnh sát Nguyễn Huy Thịnh, Dương Đức Hoàng Quân và Phạm Công Huy. Vì vậy, cũng biết rằng, nếu bất chấp sự thật mà thi hành án tử hình đối với Lê Đình Chức và Lê Đình Công vì tội giết ba cảnh sát, thì cũng khởi động cả bản án kết liễu chế độ, đồng thời kết liễu cả tương lai của bản thân và gia đình mình.   Vậy nên làm gì bây giờ? Thuyết phục đạo lý với thế lực bất chấp đạo lý ư? Hay chỉ ra lẽ phải với thế lực bất chấp lẽ phải? Hay vạch trần sự thật với thế lực bất chấp sự thật? Hay tranh luận pháp luật với thế lực bất chấp pháp luật? Hay tuyên bố phản đối thế lực bất chấp tất cả? Làm như vậy phỏng có ích gì không?   Chắc hẳn trong bộ máy cầm quyền vẫn tồn tại những người không bất chấp tất cả, có lương tri đủ tầm để không thể chấp nhận tội ác Đồng Tâm. Nhưng tại sao họ không lên tiếng phản đối tội ác? Vì không đủ bản lĩnh? Hay vì vị thế không đủ cao, nên có lên tiếng cũng vô ích, giống như lấy trứng chọi đá mà thôi? Hay đơn giản vì chưa biết sự thật?   Tôi đã viết hai bài "Tội ác Đồng Tâm" và "Viết thêm về tội ác Đồng Tâm" để minh oan cho cụ Lê Đình Kình và các bị cáo Đồng Tâm, đồng thời giúp thế lực cầm quyền nhận ra, kịch bản tệ hại đã bị lộ tẩy, để sớm dừng chân, tránh dấn bước phạm thêm sai lầm. Có người trách tôi: "Tại sao lại công bố hai bài ấy trước khi xử án, để chúng nó có cơ hội biến báo?" Tôi đã tính đến nguy cơ ấy, và đã lưỡng lự vì nó. Nhưng rồi vẫn quyết định công bố hai bài ấy rất sớm, hơn nửa năm trước phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ Đồng Tâm. Vì đã biết quá rõ căn bệnh cố hữu của bộ máy cầm quyền lâu nay trên đất nước Việt Nam thấm đẫm đau thương, là mỗi khi phạm phải sai lầm thì thường chẳng chịu dừng lại để thừa nhận sai lầm, mà càng dấn tới để tỏ ra mình vẫn đúng. Cho nên, nếu muốn giúp các nạn nhân Đồng Tâm, thì cần giúp phía cầm quyền nhận ra sai lầm càng sớm càng tốt, để họ chưa kịp phạm thêm sai lầm mới.   Tiếc rằng, thiện chí của tôi đã không lay chuyển nổi bản năng và ý chí dấn tới của họ trên con đường sai lầm và tội lỗi.   Mặc dù vậy, tôi vẫn viết thêm bài này. Không phải để tranh luận với thế lực bất chấp tất cả. Mà viết cho đồng bào tôi đọc, cho đồng bào tôi hiểu. Bởi cái mà đồng bào tôi đang rất cần và rất đói là sự thật.   Đặc biệt, những người có lương tri trong đảng cầm quyền càng cần hiểu đúng cái sự thật phũ phàng của tội ác Đồng Tâm, và giúp các đồng chí của họ cùng hiểu ra sự thật.   Chỉ khi đã hiểu đúng sự thật, thì mỗi người mới có thể tự mình trả lời câu hỏi: Ta phải làm gì? Hà Nội, ngày 7 tháng 3 năm 2021   Nguồn : http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php...  
......

Thán phục phụ nữ Myanmar

Chu Mộng Long Tôi không khỏi thán phục phụ nữ Myanmar. Trên thế giới, phụ nữ từng xuống đường và đổ bao nhiêu xương máu với hình thức biểu tình đối mặt với bạo lực. Phụ nữ Myanmar cũng vậy, đã dũng cảm như bao nhiêu phụ nữ tiền phong trên thế giới, nhưng thêm sự thông minh ngoài tưởng tượng.   Sau sự hứng đạn vào đầu với tâm nguyện cống hiến cả thân xác và tinh thần của mình vì tự do, dân chủ và bình đẳng cho đồng bào Myanmar của nữ vũ công Ma Kya Sin, chị em phụ nữ Myanmar đã sáng tạo ra lá chắn thép để cuộc đấu tranh an toàn hơn nhưng cũng thách thức hơn. Những chiếc váy, những chiếc quần lót được thay cho lá cờ của chế độ quân phiệt độc tài giăng khắp ngả đường đất nước Myanmar.   Họ đã đánh vào điểm yếu của đàn ông theo chủ nghĩa duy dương vật, nôm na là chủ nghĩa thờ con kẹc, với tâm thức sâu nặng rằng những gì thuộc đàn bà đều là xấu xa bẩn thỉu. Váy, quần lót phụ nữ đối mặt với súng đạn của thần kẹc mà bọn quân phiệt tự hào. Hiệu quả, không thằng nào dám chui qua. Một bức hình cho thấy, một thằng lính leo lên nóc ô tô dùng tay bóc bỏ những cái váy và quần lót để chứng tỏ tao không chui. Thật xấu hổ, đã mó vào mà không sợ bẩn tay sao, quân tuyệt tự?   Tôi cứ hình dung, nếu quân tuyệt tự ấy cúi đầu chui qua hàng rào "tàn vàng tàn tía" kia thì cũng không thể còn dũng khí bắn vào người biểu tình. Bởi cái con kẹc và súng đạn ngạo nghễ của chúng coi như đã cúi đầu quy phục phụ nữ, nơi đã sinh ra chúng nó, giúp chúng nó không tuyệt tự.   Chợt nhớ Hồ Xuân Hương của Việt Nam đã từng: "Tàn vàng tàn tía che đầu nhau đỡ khi nắng cực". Nhưng phụ nữ Việt Nam thời nay thì sao? Có còn đủ dũng khí và sự thông minh như nữ sỹ xưa hay đa số đã bị ru ngủ hoàn toàn trong những lời vuốt ve gọi là "tôn vinh sự hy sinh thầm lặng"?   Phụ nữ Myanmar xuống đường vì cả hai mục tiêu: nhân quyền và nữ quyền. Tinh thần phụ nữ Myanmar bất tử!   Chu Mộng Long  
......

Ngày 8 tháng 3: Giải phóng hay tôn vinh sự hy sinh của phụ nữ?

Chu Mộng Long Đang bận đến mức không dám ngó đến FB. Ăn cơm xong, định xem mấy phút thời sự trên truyền hình rồi làm việc ngay. Bất ngờ bật kênh HTV9 thấy một chương trình tôn vinh "sự hy sinh thầm lặng" của phụ nữ nhân ngày 8.3. Bức xúc quá, lại phải gác công việc, viết mấy dòng trên FB.   Chương trình lấy tấm gương Hai Bà Trưng ra làm tiền đề để ngợi ca những phụ nữ thời nay. Nhiều nữ bác sỹ vừa gồng mình trên tuyến đầu chống dịch vừa phải đảm đương việc nhà, dọn dẹp, giặt giũ, cơm nước cho chồng con. Có một nữ bác sĩ trẻ phải hoãn lại ngày cưới nhiều lần vì phải tham gia chống dịch...   Tất nhiên, cá nhân tôi cũng rất tôn trọng những phụ nữ trên. Nhưng tôn vinh "sự hy sinh thầm lặng" nhân ngày 8.3 là phản đề của cái ngày mà quốc tế gọi là "giải phóng phụ nữ"! Cái phản đề ấy làm cho nhiều người hiểu lệch lạc, dẫn đến lạm dụng tối đa về sự hy sinh của phụ nữ.   Sự thật, nói về "sự hy sinh thầm lặng" thì phụ nữ toàn thế giới đã từng hy sinh suốt hàng ngàn năm lịch sử. Chủ nghĩa duy dương vật (phallicism) với thể chế phụ quyền, người phụ nữ bị tước đoạt quyền tự do và bình đẳng, bị đối xử tàn tệ bằng nô lệ tình dục, bằng lao động khổ sai, kể cả bị ném vào chiến tranh hoang dã. Suốt hàng ngàn năm ấy, phụ nữ chấp nhận và chịu đựng làm thân trâu ngựa cho đàn ông hưởng lạc, không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì thuộc về con người, đó đã không phải là sự hy sinh vĩ đại sao?   Theo tôi, ngay cả Bà Trưng, Bà Triệu chống giặc và hy sinh trong chiến tranh cũng không có ý nghĩa gì về giải phóng phụ nữ mà chỉ càng nói lên sự hưởng lạc và bạc nhược của đàn ông khi đất nước rơi vào tay giặc. Không phải vô cớ mà luật pháp của thế giới văn minh cấm lạm dụng đàn bà, con nít trong chiến tranh.   Ngày 8.3 là kỷ niệm ngày giải phóng phụ nữ toàn thế giới sau những cuộc biểu tình bằng máu trên phạm vi lớn ở Âu - Mỹ vào đầu thế kỷ 20 - biểu tình đòi quyền được lao động giới hạn ngày tám tiếng, đòi quyền bình đẳng với nam giới, trong đó có quyền ứng cử và bầu cử. Hiện nay phụ nữ còn được thêm nhiều cái quyền khác trong gia đình, như quyền được giải phóng cả gánh nặng sinh con, dọn dẹp, giặt giũ, nấu ăn... Không có lý do gì giải phóng phụ nữ mà buộc họ gánh nặng cả hai vai, vừa vai xã hội vừa vai gia đình, trong khi đàn ông chỉ có một vai xã hội.   Tôn vinh "sự hy sinh thầm lặng" của phụ nữ là xuyên tạc, làm méo mó ý nghĩa ngày 8.3. Làm như vậy là phục sinh chủ nghĩa duy dương vật, tiếp tục thể chế phụ quyền đã từng lạm dụng triệt để thân xác phụ nữ. Chúng ta hãy thực hiện tinh thần giải phóng phụ nữ bằng hành động thiết thực, từ công việc gia đình đến hoạt động xã hội để chia sẻ với gánh nặng của phụ nữ chứ không phải bằng trò ru ngủ bịp bợm rằng, phụ nữ đã hy sinh cao cả!   Ru ngủ, bịp bợm phụ nữ đã "hy sinh thầm lặng" thì hàng ngàn năm trước chủ nghĩa duy dương vật đã làm rồi và còn làm tốt hơn nhiều. Huyền thoại từng ngợi ca nhiều phụ nữ tự nguyện hiến tế mạng sống của mình cho thần linh. Các tôn giáo độc thần mặc khải phụ nữ sinh ra là "kẻ bất toàn" (imperfectmen), tội lỗi, cho nên phải phụ thuộc đàn ông, phải chấp nhận hy sinh vì đàn ông để cứu chuộc tội lỗi. Chế độ phong kiến còn vinh danh nhiều phụ nữ bị gả bán cho ngoại bang, giữ tiết hạnh để thờ chồng, thậm chí chấp nhận được chết hay bị chôn sống theo chồng. Vinh danh sự hy sinh như vậy chưa đủ sao?   Chu Mộng Long  
......

Đông Nam Á giữa Mỹ và Trung Quốc

Trong hình, Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) và Thủ Tướng Cambodia Hun Sen. (Hình minh họa: Tang Chhin Sothy/AFP via Getty Images) Lê Mạnh Hùng - nguoi-viet.com|  Trong trận chiến tranh lạnh kéo dài 45 năm giữa Mỹ và Liên Xô, hai bên đã đụng độ hoặc nóng (qua những đại diện hoặc trực tiếp) hoặc lạnh trên khắp thế giới. Nhưng chiến trường chính của cuộc chiến tranh lạnh là Châu Âu, nơi mà Liên Xô thường xuyên lo ngại các chư hầu có thể tách ra theo phương Tây, trong lúc Mỹ thì lo rằng các đồng minh của mình có thể tìm một thỏa thuận riêng với Liên Xô. Cuộc cạnh tranh lần này giữa Mỹ và Trung Quốc may mắn là còn ít căng thẳng hơn. Lực lượng quân sự hai bên hãy còn chưa ở trong tình trạng tích cực chuẩn bị chiến đấu qua một đường chiến tuyến vạch sẵn tuy rằng tại Đài Loan và Bắc Hàn hai bên vẫn còn ở trong tình trạng căng thẳng vốn có từ nhiều chục năm nay. Tuy nhiên giống như chiến tranh lạnh, hai bên cũng có một chiến trường chính mà cạnh tranh sẽ gay gắt nhất: Đông Nam Á. Và tuy rằng tại đây không có một chiến tuyến vạch sẵn như Châu Âu thời Chiến Tranh Lạnh, nhưng điều đó chỉ làm cho cuộc đấu tranh trở thành phức tạp hơn. Các nước Đông Nam Á lúc này đã nhìn Mỹ và Trung Quốc như hai cực của một nam châm kéo đất nước mình đi theo hai chiều đối nghịch. Tỷ dụ như những người chống lại cuộc đảo chính gần đây tại Miến Điện đã giăng các biểu ngữ tấn công Trung Quốc vì đã ủng hộ các ông tướng cũng như kêu gọi Mỹ can thiệp. Các chính phủ vì thế cảm thấy bị áp lực phải chọn bên. Năm 2016, ông Rodrigo Duterte, tổng thống Philippines, hung hăng tuyên bố nước ông “ly dị nước Mỹ” và cam kết phục tùng Trung Quốc. Trung Quốc đòi chủ quyền trên hầu như toàn bộ vùng Biển Đông và việc Mỹ bác bỏ việc đòi chủ quyền này đã tạo ra những tranh cãi gay gắt bên trong tổ chức chính tập hợp các quốc gia này, Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) mà Trung Quốc tìm cách thu phục. Tranh chấp về Đông Nam Á sẽ còn trở nên gay gắt nữa vì hai lý do. Thứ nhất Đông Nam Á càng ngày càng trở nên có tầm quan trọng chiến lược đối với Trung Quốc. Đông Nam Á nằm ngay phía dưới Trung Quốc, chặn ngang con đường hàng hải huyết mạch chuyên chở dầu hỏa và các nguyên liệu đến cho Trung Quốc và mang hàng hóa Trung Quốc xuất cảng sang các nước khác. Trong lúc Trung Quốc bị chặn ngang ở phía Đông bởi vì Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan, thì cả ba đều là những đồng minh trung thành của Mỹ, do vậy Đông Nam Á là trận địa đỡ khó khăn hơn cả về kinh tế và quân sự. Đông Nam Á cũng cung cấp cho Trung Quốc cửa ngõ để có thể đi ra được cả Thái Bình Dương lẫn Ấn Độ Dương. Chỉ trở thành thế lực chi phối tại Đông Nam Á, Trung Quốc mới có thể giải tỏa được mối lo bị bao vây. Nhưng Đông Nam Á không chỉ là một trạm trung chuyển trên đường đi đến các nơi khác. Đông Nam Á tự nó cũng có tầm quan trọng. Đông Nam Á là quê hương của 700 triệu người, đông hơn là Liên Hiệp Châu Âu, Châu Mỹ La Tinh hay là vùng Trung Đông. Kinh tế vùng, nếu tính như là một quốc gia sẽ đứng thứ tư trên thế giới tính theo chỉ số sinh họat, chỉ sau Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ. Và các nước này còn đang tăng trưởng kinh tế rất mau. Indonesia và Malaysia tăng trưởng với tốc độ 5-6% trong 10 năm qua; Việt Nam và Philippines với tốc độ 6-7%. Các nước nghèo như Miến Điện và Cambodia còn tăng trưởng nhah hơn nữa. Đông Nam Á nay trở thành nơi các công ty quốc tế lựa chọn làm nơi sản xuất, trong lúc dân chúng nay đã giàu đủ để có thể tạo ra một thị trường hấp dẫn. Trên phương diện thương mại cũng như trên phương diện địa chính trị, Đông Nam Á là một phần thưởng đáng quý cho kẻ nào thắng.  Trong hai đối thủ, Mỹ và Trung Quốc, cho đến nay Trung Quốc đang dẫn trước. Trung Quốc trở thành nước bạn hàng lớn nhất, và đầu tư vào Đông Nam Á cao hơn Mỹ nhiều lần. Ít nhất một quốc gia Đông Nam Á, Cambodia nay trở thành hầu như là chư hầu của Trung Quốc. Và hầu như không nước nào dám công khai đứng về phía Mỹ trong các cuộc tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên Trung Quốc cũng có nhiều nhược điểm lớn. Đầu tư Trung Quốc tuy nhiều, nhưng có nhiều khuyết điểm. Các công ty Trung Quốc bị tố cáo là làm hủ hóa hay phá hủy môi sinh. Nhiều công ty mang công nhân Trung Quốc vào làm thay vì dùng dân bản xứ, tạo ra những tranh chấp với dân chúng bản xứ. Và ngoài ra còn thói của Trung Quốc dùng những biện pháp trừng phạt thương mại hoặc đầu tư để cảnh cáo các quốc gia nào đã làm Trung Quốc không hài lòng. Trung Quốc cũng làm cho các nước láng giềng bất mãn bằng những hành động đe dọa quân sự. Việc Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng những đảo nhân tạo vũ trang trên các cồn cát và ghềnh đá trên Biển Đông, cũng như quấy rối các tàu đánh cá hoặc các tàu thăm dò của các nước khác, cũng là một nguồn căng thẳng với hầu hết các quốc gia trong vùng từ Việt Nam đến Indonesia. Trung Quốc cũng giữ liên hệ với các đám phiến quân chống lại các chính phủ trong quá khứ. Chính những hành động đó đã làm Trung Quốc mất sự ủng hộ nhiều của dân chúng Đông Nam Á. Các bạo động chống Trung Quốc thường xuyên xảy ra tại Việt Nam và Indonesia. Ngay cả nước Lào nhỏ bé, một nước độc tài Cộng Sản mà dân chúng cũng lên tiếng chống lại sự hiện diện gia tăng của Trung Quốc. Lãnh tụ các quốc gia Đông Nam Á có thể không dám công khai chỉ trích Trung Quốc vì sợ những ảnh hưởng kinh tế, nhưng họ cũng không dám thân cận quá với Trung Quốc vì sợ phản ứng của chính dân chúng mình. Thành ra việc Trung Quốc tìm cách bá quyền tại Đông Nam Á chưa chắc đã có thể thành công. Các quốc gia Đông Nam Á có thể không muốn từ bỏ buôn bán và đầu tư với nước láng giềng phía Bắc nhưng họ cũng muốn những cái gì mà Mỹ có thể mang lại: hòa bình, ổn định và một trật tự thế giới dựa trên luật pháp trong đó, Trung Quốc không phải cứ cậy sức của mình mà muốn làm gì thì làm. Giống như tất cả những nước nhỏ khác, các quốc gia Đông Nam Á đều muốn né tránh không theo một nước nào và tìm cách lợi dụng cuộc đấu tranh giữa hai bên để kiếm mối lợi cho nước mình. Đó là cơ hội cho Mỹ. Để tránh cho Đông Nam Á rơi vào quỹ đạo Trung Quốc, Mỹ nên khuyến khích các quốc gia tại đây hãy mở cửa và xây dựng các đối trọng chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc. Một cơ cầu là xây dựng việc hội nhập vùng cũng như củng cố các quan hệ với các nước Đông Á như Nhật Bản và Nam Hàn. Trên hết Mỹ phải sẵn sàng đứng ra bảo vệ trật tự quốc tế mỗi khi có những vi phạm về phía Trung Quốc. [qd] Lê Mạnh Hùng    
......

Móc túi người bệnh vỗ béo công an

  Đỗ Ngà   Theo Nghị quyết 129/2020/QH14 của Quốc hội ban hành ngày 13/11/2020 về việc chi ngân sách trung ương năm 2021 như sau: Chi cho bộ Công An là 96.146 tỷ đồng (chính mươi sáu ngàn một trăm bốn mươi sáu tỷ đồng), trong khi đó ngân sách được phân bổ cho Bộ Y Tế là 9.171 tỷ đồng (chín ngàn một trăm bảy mơi mốt tỷ đồng). Tính ra ngân sách chi cho công an gấp 10,5 lần ngân sách cho y tế.   Được biết ngày 4/3, trên báo Lao Động cho biết là giá giường bệnh tại Bệnh viện Bạch Mai lên tới 3,3 triệu đồng/ngày, tức khoảng 100 triệu đồng cho mỗi tháng. Giá như vậy thì dân nào chịu nổi? Được biết, từ năm 1990, Chính Quyền CS đã luật hóa việc cho phép bệnh viện nhà nước thu phí dịch vụ từ người bệnh như là một hình thức kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp. Nói thẳng ra nhà nước thu thuế nhưng phủi trách nhiệm lo an sinh cho người dân. Nói nôm na là thế này, Bộ Y Tế ngụ ý nói với bệnh viện công rằng “Tụi bây tự tìm cách móc túi bệnh nhân mà sống, chính phủ không rót tiền an sinh để lo sức khỏe cho bọn dân đen được”. Kết quả là đến bây giờ, bệnh viện dựa vào tình thế ngặt nghèo của người bệnh để ra giá 100 triệu đồng viện phí/tháng. Được biết hiện nay Bộ Y Tế quản lý 47 bệnh viện cấp trung ương, 419 bệnh viện cấp tỉnh, 684 bệnh viện cấp huyện. Và tất cả các bệnh viện này đều làm như một doanh nghiệp, tức họ phải kinh doanh vụ với bệnh nhân của họ chứ họ không nhận tiền từ quỹ an sinh của nhà nước để cung cấp dịch vụ y tế giá rẻ cho dân nghèo được. Được biết, người khám bằng bảo hiểm y tế tại bệnh viện chỉ được bảo hiểm chi trả theo quy định, còn những dịch vụ phát sinh mà bệnh viện tự vẽ thì phần đó bệnh nhân phải móc hầu bao trả cho bệnh viện. Nói tóm lại dù cho bạn có bảo hiểm y tế thì bệnh viện vẫn thiết kế cho bạn dịch ăn theo để họ móc thêm tiền trong túi bạn. Đó là thực tế đang diễn ra với ngành y Việt Nam.   Không những ở Việt Nam mà cả trên thế giới thì nghề y là một nghề học khó và thu nhập các bác sĩ luôn là thu nhập rất cao so với  các ngành nghề khác trong xã hội. Tuy nhiên, hệ thống bệnh viện công của những quốc gia tử tế, thì dù phải trả lương bác sĩ rất cao thì họ vẫn đảm bảo miễn phí y tế cho dân, hoặc giảm giá điều trị lẫn dịch vụ để mọi thành phần dân chúng khi đau yếu đều an tâm đến bệnh viện. Như vậy, lương bác sĩ cao mà thu tiền của bệnh nhân cực thấp hoặc không thu đồng nào thì bệnh viện lấy đâu ra tiền để hoạt động? Xin thưa tiền đó được quỹ an sinh của chính phủ được trích từ ngân sách hằng năm. Số tiền đó là nhà nước thay mặt bệnh nhân trả cho bệnh viện. Mỗi năm, chính phủ sẽ trích một phần từ ngân sách, số tiền đó gọi là quỹ an sinh được chính phủ trình quốc hội duyệt và cứ thế dân cứ đến bệnh viện nằm còn nhà nước thì chi trả khoản đó cho dân. Riêng Việt Nam, khoản này bị ĐCS quỵt mất để dân tự bơi với bệnh tật.   Ở tại nhiều nước giàu có thì họ lo y tế miễn phí cho dân. Còn tại các nước gần với Việt Nam thì sao? Tại nước có mức sống trung bình như Thái Lan chẳng hạn, thì nhà nước không lo chăm sóc y tế miễn phí cho dân như các nước giàu thì họ cũng hỗ trợ hệ thống bệnh viện để giới bình dân có thể tiếp cận y tế với chi phí vừa phải chứ không thả nổi để bệnh viện tự kinh doanh tự siết cổ bệnh nhân như Bệnh Viện Bạch Mai kia.   Đó là hệ thống y tế công tại các nước khác, còn tại Việt Nam, bệnh viện phải thực hiện chức năng kinh doanh dịch vụ kiếm tiền trên bệnh nhân thì nguyên nhân là do ĐCS. Họ đặt sưu cao thuế nặng với dân chủ yếu là để phục vụ ai? Thứ nhất, đó là phục vụ bọn quan tham vì nhà nước này quan lại tham nhũng trăm tỷ ngàn tỷ là chuyện bình thường; Thứ nhì, đó là phục vụ công an vì nhà nước này là nhà nước công an trị. Hãy xem bảng phân bổ ngân sách trung ương năm 2021 thì biết, chi cho công an gấp 10,5 lần chi cho y tế. Chỉ cần đảo lại, lấy kinh phí chi cho công an chuyển qua cho bệnh viện để học giảm giá khám chữa bệnh cho dân từ đó giúp mọi thành phần nhân dân đều được tiếp cận dịch vụ y tế thì tốt biết mấy? Tuy nhiên, điều đó không thể xảy ra trong cái nhà nước công an trị này?!   Qua cách sử dụng ngân sách vô cùng bất công giữa y tế và công an nó phơi bày lên một thực tế rằng, nhà nước này đã gián tiếp móc túi bệnh nhân nghèo để vỗ béo công an. Mà công an làm chuyện gì? Chấp pháp ư? Không! Chấp pháp chỉ là công việc phụ, công việc chính của công an là đánh dân, bắt dân, hành hung dân để bảo vệ chế độ. Chế độ này nó thế đấy, làm gì được nó đâu?!    Đỗ Ngà  
......

Án mạng Đồng Tâm, cảnh sát giết dân và tòa án giết luật pháp

Nhận định về vụ án mạng Đồng Tâm của luật sư Hoàng Ngọc Giao cũng là nỗi nhức nhối của mọi lương tri con người ở Việt Nam cũng như trên thế giới Phạm Đình Trọng NGÀY 8.3.2021 TẠI HÀ NỘI, TƯ PHÁP VIỆT NAM SẼ TRÌNH DIỄN PHIÊN TOÀ PHÚC THẨM VỤ ÁN MẠNG ĐỒNG TÂM. GIỮA ĐÊM, CẢNH SÁT CƠ ĐỘNG BỘ CÔNG AN XÔNG VÀO NHÀ DÂN THÔN HOÀNH, XÃ ĐỒNG TÂM, HUYỆN MỸ ĐỨC, HÀ NỘI, BẮN CHẾT VÀ PHANH XÁC CỤ GIÀ 84 TUỔI. VỤ TẬP KÍCH KINH HOÀNG CŨNG LÀM CHO BA CẢNH SÁT BỊ NẠN KHI RƠI XUỐNG KHE SÂU GIỮA HAI CĂN NHÀ RỒI ĐƯỢC CHO LÀ CHẾT CHÁY. CÁI CHẾT ĐẦY MƠ HỒ, BÍ ẨN VÀ VÔ LÍ CỦA BA CẢNH SÁT KHÔNG ĐƯỢC ĐIỀU TRA, KHÔNG THỰC NGHIỆM, KHÔNG CHỨNG MINH KHOA HỌC VÀ NGƯỜI DÂN CHỈ Ở THẾ THỤ ĐỘNG TỰ VỆ THÌ BỊ TOÀ ÁP ĐẶT TỘI GIẾT BA CẢNH SÁT. CẢNH SÁT CHỦ ĐỘNG GIẾT DÂN LẠI KHÔNG ĐƯỢC XÉT XỬ. BÀI VIẾT DƯỚI ĐÂY XIN CUNG CẤP ĐẦY ĐỦ TỪ CỘI NGUỒN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI DẪN ĐẾN ÁN MẠNG ĐỒNG TÂM. ***** 59 HA ĐẤT PHÍA TÂY ĐỒNG SÊNH KHÔNG PHẢI ĐẤT QUỐC PHÒNG Đầu năm 1979, Việt Nam bị Tàu cộng dẫn dắt vào hai cuộc chiến đẫm máu kéo dài dai dẳng suốt mười năm nhưng chỉ là hai cuộc chiến cục bộ. Cuộc chiến với bóng ma Khmer Đỏ ở Campuchia và cuộc chiến với biển quân Tàu cộng đói rách ở biên giới phía Bắc. Không đủ sức và chưa phải lúc làm cuộc chiến tranh lớn xâm lược Việt Nam, Tàu cộng buộc Việt Nam phải theo đuổi hai cuộc chiến giới hạn cục bộ đến mười năm chỉ nhằm làm cho Việt Nam sau cuộc chiến Nam Bắc tiếp tục chảy máu lâu dài, suy kiệt không thể gượng dậy. Bị sa lầy suốt mười năm trong bãi mìn China ở biên giới Campuchia – Thái Lan, thôi cứ cho là vì nghĩa cả cứu dân tộc Campuchia khỏi cánh đồng chết diệt chủng. Nhưng không nhận ra rằng hơn mười năm cách mạng văn hóa, đất nước Trung Hoa tan hoang, lòng dân li tán, sức dân kiệt quệ, bộ máy quyền lực tan tác, quân đội đói rách, trang bị và kĩ thuật, chiến thuật lạc hậu ở thời thế chiến 2 như quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc khi đó, Tàu cộng không thể mở cuộc chiến tranh tổng lực xâm lược Việt Nam trước quân đội Việt Nam đang là đội quân thiện chiến lúc đó và dư dả vũ khí khá hiện đại của hai cường quốc vũ khí là Nga và Mỹ. Không có tầm nhìn, lãnh đạo Việt Nam đã hốt hoảng hoạch định một cuộc kháng chiến lớn, tổng lực toàn diện với Tàu cộng. Trong hoạch định cuống cuồng đó, năm 1980, dự án sân bay dã chiến Miếu Môn ra đời để phân tán lực lượng không quân, cất giấu máy bay chiến đấu trong những hầm khoét vào chân núi, đối phó với cuộc chiến tranh mở rộng của Tàu cộng. Trong 208 ha đất của dự án sân bay dã chiến Miếu Môn có 47,3 ha đất cánh Đồng Sênh của hợp tác xã nông nghiệp Đồng Tâm và ngay lập tức chính quyền xã Đồng Tâm đã cắt đủ 47,3 ha đất phía Đông cánh Đồng Sênh giao cho sân bay. 59 ha đất phía Tây Đồng Sênh còn lại vẫn là đất ngô, đất lúa của người dân Đồng Tâm. Ngày 31.12.2019, quân đội xây xong bức tường bao quanh sân bay Miếu Môn, tường xây cao hai mét rưỡi, phía trên còn có cọc sắt giăng dây thép gai. 59 ha Tây Đồng Sênh ngoài tường bao sân bay vẫn xanh bãi sắn, nương ngô của dân Đồng Tâm. Vậy là đất quân sự sân bay và đất dân sự của dân Đồng Tâm càng được phân định rạch ròi. Bức tường quân đội xây xác định giới hạn đất quốc phòng càng chứng minh thêm 59 ha đất Tây Đồng Sênh là đất của dân Đồng Tâm. Bất kì pháp nhân nào mang danh nhà nước cấp tỉnh, cấp bộ muốn chiếm, muốn biến 59 ha đất nửa Tây cánh Đồng Sênh ngoài ranh sân bay Miếu Môn thành đất quốc phòng đều phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định đó cho đến tận đêm 9.1.2020, đêm xảy ra án mạng Đồng Tâm không hề có. Mãi mãi cũng không bao giờ có quyết định vô lí đó. Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc kết thúc tháng chín, năm 1989 thì tháng chín, năm 1990, lãnh đạo cộng sản Việt Nam liền len lén sang Thành Đô thì thầm xin làm chư hầu để được yên thân làm vương phương Nam. Sân bay dã chiến Miếu Môn chỉ mới qua giai đoạn gom đất cũng dẹp bỏ. Thu hồi mảnh đất làm ra hạt lúa, hạt ngô của dân để làm sân bay quân sự. Không làm sân bay nữa thì phải trả lại đất cho dân để kinh tế đất nước có thêm hạt lúa, hạt ngô. Nhà nước trung ương không có tầm nhìn quốc gia đã biến đất sống của dân thành đất chết của sân bay chỉ có trên giấy, gây lãng phí, mất mát lớn cho nền kinh tế đất nước, gây hao hụt thu nhập của người dân Đồng Tâm. Không làm sân bay nữa nhưng lấy danh nghĩa quốc phòng, quân đội cũng không trả lại 47,3 ha đất cho dân Đồng Tâm. Còn nhà nước địa phương Hà Nội thì xập xí xập ngầu, dùng quyền lực và mệnh lệnh nhà nước địa phương muốn biến 59 ha đất phía Tây Đồng Sênh ngoài dự án sân bay Miếu Môn thành đất quốc phòng để dấm dúi bán cho doanh nghiệp quân đội Viettel. LỪA DỐI VÀ BẠO LỰC NHÀ NƯỚC TỪ NGOÀI ĐỒNG ĐẾN GIƯỜNG NGỦ NHÀ DÂN Quyết giữ hợp pháp 59 ha đất Đồng Sênh, người dân Đồng Tâm có hai nguồn năng lượng tạo nên sức mạnh không thế lực nào hành xử hợp pháp khuất phục được. Một. Người dân Đồng Tâm có đầy đủ hồ sơ, văn bản nhà nước, bản đồ pháp lí chứng minh 59 ha đất Tây Đồng Sênh chưa bao giờ là đất quốc phòng. Từ trong lịch sử cho đến hôm nay mảnh đất đó vẫn là mảnh đất hợp pháp, chính đáng của hợp tác xã nông nghiệp Đồng Tâm. Đó là sự thật, là lẽ phải Đồng Tâm và người nắm giữ đầy đủ hồ sơ sự thật và lẽ phải Đồng Tâm chính là người con của xóm làng Đồng Tâm, linh hồn của đất đai Đồng Tâm, lão nông 84 tuổi Lê Đình Kình, là người đứng đầu cả tổ chức đảng, cả chính quyền và hợp tác xã nông nghiệp Đồng Tâm suốt hơn 40 năm, vị lão thành cách mạng của đảng cộng sản, đảng viên 58 tuổi đảng Lê Đình Kình. Hai. Người dân Đồng Tâm có hạt nhân lãnh đạo, có niềm tin sắt đá và có chất keo kết dính đoàn kết muôn người như một trong ý chí giữ mảnh đất hợp pháp chính đáng Đồng Sênh. Hạt nhân lãnh đạo, niềm tin sắt son và chất keo kết dính làm nên sức mạnh Đồng Tâm chính là con người lương thiện, bình dị và cao cả Lê Đình Kình cả đời nghèo khổ tận tụy với dân làng nghèo khổ, cả đời lo việc làng, việc nước. Không thể chiếm 59 ha đất Tây Đồng Sênh của dân Đồng Tâm bằng hợp pháp thì phải chiếm bằng phi pháp. Bằng lừa dối và bạo lực, phải tiêu diệt hạt nhân lãnh đạo Đồng Tâm. Phải tiêu diệt được niềm tin, ý chí giữ đất Đồng Tâm. Phải chiếm và phi tang sự thật Đồng Tâm. Nhà nước cấp huyện Mỹ Đức ra đòn lừa niềm tin Đồng Tâm ra Đồng Sênh vắng rồi viên trung tá Trần Thanh Tùng, phó công an huyện bất ngờ phóng cú đá ngàn cân của thế võ chuyên chính. Niềm tin Đồng Tâm trong thân xác cụ già Lê Đình Kình bay như chiếc lá đập đầu vào đá. Cụ Kình thoát chết nhờ chiếc mũ bảo hiểm nhưng hông lãnh trọn cú đá thì xương vỡ vụn. Niềm tin của dân Đồng Tâm bị ném lên ô tô chạy thẳng về trại giam của công an Hà Nội. Lập tức lòng dân Đồng Tâm bảo vệ niềm tin Đồng Tâm bằng cách các mẹ, các chị Đồng Tâm bằng tấm lòng của những người mẹ người chị dồn 38 cảnh sát cơ động về Đồng Tâm hỗ trợ cú lừa cấp huyện của Mỹ Đức vào nhà văn hóa thôn Hoành. 38 công cụ bạo lực nhà nước thành con tin trong tay dân Đồng Tâm, đối trọng với niềm tin Đồng Tâm trở thành con tin trong tay công an Hà Nội. Lừa dối và bạo lực cấp huyện Mỹ Đức không hạ gục được lẽ phải và ý chí Đồng Tâm thì lừa dối và bạo lực cấp thành phố vào cuộc. Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung lừa dân Đồng Tâm bằng cam kết 22.4.2017, hứa hẹn sẽ thanh tra công bằng. Không chứng minh được 59 ha đất Tây Đồng Sênh là đất quốc phòng bằng văn bản pháp luật, Thanh tra Hà Nội liền lấy quyền lực nhà nước áp đặt bằng kết luận thanh tra số 2346/KL-TTTP-P5 ngày 19/7/2017 và được Thanh tra nhà nước bảo kê bằng văn bản số 611/TB-TTCP ngày 25/4/2019 trợn trạo xác nhận kết luận phi pháp, áp đặt của Thanh tra Hà Nội là hợp pháp: “kết luận thanh tra của thành phố Hà Nội là chính xác, hợp pháp”! Không chỉ nhà nước cấp huyện Mỹ Đức. Không chỉ nhà nước cấp thành phố thủ đô Hà Nội. Nhà nước trung ương đã vào cuộc dùng quyền lực nhà nước cướp bằng được đất Tây Đồng Sênh của người dân ở chòm xóm nhỏ bé, hiền hoà Đồng Tâm. Nhà nước trung ương lừa dối không xong thì phải ra đòn bạo lực nhà nước cấp trung ương. Và ba ngàn lính thiện chiến trung đoàn cảnh sát cơ động bộ Công an đã gây ra vụ thảm sát ở thôn Hoành rạng sáng 9.1.2020. Ba ngàn cảnh sát cơ động bủa vây sự thật và lẽ phải Đồng Tâm, xông vào tận giường ngủ, xả súng giết hại người nắm giữ sự thật và lẽ phải Đồng Tâm, không những cướp đi văn bản pháp lí làm nên sự thật và lẽ phải Đồng Tâm mà còn vơ vét cả những đồng tiền đầu tắt mặt tối chắt chiu của dân nghèo Đồng Tâm. Trung đoàn cảnh sát cơ động đứng chân ở Hà Nội, trực chiến ở địa bàn chiến lược trọng yếu là thủ đô Hà Nội nên được gọi là trung đoàn cảnh sát cơ động Hà Nội nhưng là trung đoàn cơ động chiến lược của bộ Công an. Đơn vị tác chiến lớn nhất của bộ Công an là trung đoàn và đơn vị tác chiến lớn nhất của bộ Quốc phòng là binh đoàn. Đơn vị tác chiến lớn nhất phải đảm nhiệm vị trí quốc gia, hoạt động ở tầm quốc gia, trong đội hình chiến lược cơ động của bộ, không phải đơn vị chiến thuật của địa phương. Trung đoàn cảnh sát kị binh, trung đoàn cảnh sát xe bọc thép và các trung đoàn cảnh sát cơ động dù đứng chân ở đâu cũng đều là lực lượng cơ động của bộ Công an. Lãnh thổ quốc gia rộng lớn mới cần lực lượng cơ động. Tỉnh, thành nhỏ hẹp chỉ có những đội phản ứng nhanh do địa phương điều động. Mưa đạn vãi vào căn nhà nhỏ bé mang sự thật và lẽ phải Đồng Tâm, xả đạn vào ngực cụ Kình, người mang niềm tin và ý chí Đồng Tâm rạng sáng 9.1.2020 là sức mạnh bạo lực của lực lưởng cảnh sát cơ động bộ Công an chứ không phải mấy tay súng đội phản ứng nhanh công an Hà Nội. Những thông tin chính thống, những phát ngôn chính thức của cơ quan nhà nước đồng loạt đưa tin sự kiện máu Đồng Tâm 9.1.2020 đều chỉ nhắc đến công an Hà Nội, đều cột sự kiện máu Đồng Tâm vào công an Hà Nội. Cả bản kế hoạnh hành quân 419A đánh úp Đồng Tâm đêm 9.1.2020 cũng đổ cho công an Hà Nội hoạch định, bộ Công an chỉ phê duyệt nhằm làm nhẹ sự kiện, khoanh vùng, giới hạn, hạ thấp sự kiện chỉ ở cấp địa phương, giảm mức độ nghiêm trọng của sự kiện và quan trọng là lấp liếm dấu vết tội ác cấp nhà nước với chòm xóm bé nhỏ Đồng Tâm. Mọi diễn biến trận đánh Đồng Tâm đều do trung tướng, Thứ trưởng bộ Công an Lương Tam Quang thông tin, mọi phát ngôn về trận đánh Đồng Tâm đều do người phát ngôn bộ Công an, Chánh văn phòng bộ, thiếu tướng Tô Ân Xô phát ngôn. Điều đó xác định rằng: Bạo lực tấn công dân ở thôn Hoành nhỏ bé đêm 9.1.2020, dìm trong máu ý chí giữ đất chính đáng, ý chí bảo vệ sự thật và lẽ phải, ý chí chống tham nhũng, chống lợi ích nhóm của người dân Đồng Tâm là trung đoàn cảnh sát cơ động của bộ Công an chứ không phải công an Hà Nội. Sở chỉ huy trận đánh đặt ở bộ Công an chứ không phải ở sở công an Hà Nội. Tư lệnh trận đánh là Thứ trưởng bộ Công an, trung tướng Lương Tam Quang chứ không phải giám đốc công an Hà Nội. Kế hoạch tác chiến là kịch bản của trận đánh. Cấp nào tác chiến thì cấp đó phải làm kịch bản và Kế hoạch 419A đánh úp dân Đồng Tâm đêm 9.1.2020 do chính bộ Công an vạch ra nhưng được hạ cấp bằng tên gọi Kế hoạch 419A của công an Hà Nội bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn xã Đống Tâm. Vì 419A mang dấu son, chữ kí cấp Bộ, cấp quốc gia chứ không phải cấp địa phương Hà Nội nên khi luật sư bảo vệ người dân Đồng Tâm vô tội đòi hỏi chính đáng và cần thiết công khai bản Kế hoạch 419A để chứng minh rằng cuộc động binh đêm 9.1.2020 ở Đồng Tâm là thi hành công vụ liền bị từ chối. Tòa án không thể và không dám công khai bàn tay vấy máu dân Đồng Tâm của bộ Công an. Người dân và lương tri cả nước chăm chú theo dõi số phận sự thật và lẽ phải của dúm dân bé nhỏ Đồng Tâm đã phải thắt lòng nhận ra cả bộ máy nhà nước cộng sản Việt Nam từ huyện, thành phố đến trung ương không ứng xử với dân Đồng Tâm không bằng pháp luật mà bằng lừa dối và bạo lực.. Bạo lực là hạ sách, là lấy máu dân đàn áp sự thật và lẽ phải của dân, lấy máu dân răn đe dân, ăn thua đủ với dân. Máu dân lại đổ là nhà nước cộng sản lại chồng chất thêm nợ máu với dân. Dân gian nhân hậu có câu “Lấy máu gà dọa khỉ” Nhà nước độc tài làm gì có nhân hậu. Nhà nước nhân hậu thì không thể độc tài. Nhà nước độc tài lấy chính máu dân răn đe dân chứ không cần lấy máu gà! Như nhà nước độc tài đã vô tư lấy cả biển máu dân để áp đặt ách cai trị độc tài cộng sản lên cả nước thì xá gì máu dúm dân nhỏ bé Đồng Tâm!. LỪA DỐI VÀ BẠO LỰC TỪ TRẠI GIAM ĐẾN PHIÊN HÒA ÁP ĐẶT TỘI CHO NGƯỜI DÂN ĐỒNG TÂM VÔ TỘI Chỉ ba ngày sau sự kiện máu ba ngàn cảnh sát chiến đấu trang bị tận răng của trung đoàn cảnh sát cơ động chiến lược bộ Công an đánh úp vài chục người già, phụ nữ, trẻ con dân Đồng Tâm, một số người dân vô tội Đồng Tâm bị bắt sáng 9.1.2020 đã xuất hiện trên màn ảnh truyền hình trong chương trình Thời sự giờ vàng tối 12.1.2020 đài truyền hình quốc gia VTV với khuôn mặt bầm dập, thâm tím, với vẻ mặt thất thần, vô hồn, hoảng loạn nhưng lại nói năng gẫy gọn trơn tru như đọc thuộc lòng, như xả máy ghi âm lời nhận tội không đúng sự thật rằng người dân đã mang lựu đạn và vũ khí tự tạo chống lại công an. Bộ mặt bầm dập và tiếng nói vô hồn nhận tội của người dân vô tội Đồng Tâm chỉ sau ba ngày trong trại giam của công an là sự chứng minh rõ ràng, là lời tố cáo vững chắc mức độ nhục hình ghê rợn và sự bức cung trắng trợn của công an. Lời tố cáo nhục hình và bức cung phạm pháp của cảnh sát điều tra với người dân vô tội Đồng tâm đã vang lên nhức nhối ngay trong phiên tòa sơ thẩm xử dân vô tội Đồng Tâm khi ông Lê Đình Công con trai cả cụ Lê Đình Kình khai rành rọt: “Tôi bị điều tra viên Phạm Việt Anh đánh mười ngày như một”. Một tình tiết có giá trị pháp lí rất cao bác bỏ hoàn toàn bản kết luận điều tra của công an, bác bỏ cả cáo trạng buộc tội dân vô tội Đồng Tâm của viện Kiểm sát nhưng quan tòa với những mức án đã định trước có sẵn trong túi, tòa án đã làm ngơ bỏ qua lời tố cáo nhục hình, ép cung. Bị dẫn giải ra tòa trong phiên toà sơ thẩm, bà Bùi Thị Nối chỉ nói vội được câu ngắn: Vì sao có pháp luật mà các người không thi hành? Bị điểm đúng huyệt pháp chế độc tài, công an làm án bằng nhục hình, ép cung, tòa xử án theo chỉ thị, nghị quyết, theo lệnh chứ không xử theo luật, công an hốt hoảng và ngang nhiên xông vào phiên toà, xô đến, kẹp tay, xốc nách, lôi bà Nối ra khỏi tòa. Bạo lực ngang nhiên diễn ra trong phiên tòa để bịt miệng người đàn bà vô tội trở thành bị cáo Bùi Thị Nối. Không đếm xỉa đến lời khai sự thật của người đàn ông vô tội trở thành bị cáo Lê Đình Công. Xét xử không cần nghe sự thật, không biết đến luật pháp, tòa án lại tiếp tục ra đòn nhục hình tinh thần người dân vô tội Đồng Tâm và ép cung cả pháp luật. Giữa đêm người dân lương thiện đang ngủ trong nhà bỗng bị cảnh sát vũ trang phá cửa xông vào nhà. Đạn xả trong nhà dân như đạn vãi vào đồn giặc trong trận đánh công đồn. Kề súng vào đầu, vào ngực bắn chết lập tức người già 84 tuổi. Đạn xuyên qua tay, đạn rạch bụng dân. Thả cho nghiệp vụ cắn xé dân. Đấm, đá, dùi cui tới tấp vụt xuống đầu dân rồi lùa người dân máu tràn trên đầu, máu ướt đẫm bụng, lùa cà người già, phụ nữ, trẻ em, về trại giam. Mang cả xác người già bị bắn chết đi mổ bụng, phanh thậy. Những kẻ phạm pháp, giết dân man rợ hơn cả thời Trung cổ lại nhân danh pháp luật truy tố dân vô tội. Những kẻ giết người bàn tay ròng ròng máu dân lại viết lệnh truy tố gán tội giết người cho người dân vô tội. Tùy tiện truy tố người dân vô tội vào tội có khung hình phạt cao nhất tử hình là đòn bạo lực tinh thần cực kì nham hiểm, độc ác. Bị gán tội danh có khung hình phạt tử hình, người dân thật thà, chất phác phải mang tâm lí vô cùng hốt hoảng, hoang mang, mất tinh thần, dễ dàng chấp nhận mọi dụ dỗ, lừa phỉnh, mớm cung nhận tội của cảnh sát điều tra. Đó là đòn bạo lực tinh thần vô cùng thâm độc của cảnh sát điều tra và tòa án độc tài biến người dân vô tội thành người có tội. Không phải chỉ ra đòn bạo lực tinh thần đánh người dân Đồng Tâm vô tội trở thành bị cáo trước tòa, tòa án còn dùng quyền lực quan tòa bác bô mọi đòi hỏi của luật sư đòi tòa phải thực thi đúng pháp luật. Những đòi hỏi chính đáng, đúng pháp luật không thể thiếu của một phiên tòa là Một. Vật chứng. Cần có văn bản kế hoạch 419A của công an Hà Nội bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn xã Đống Tâm để chứng minh hành động của trung đoàn cảnh sát cơ động của bộ Công an ở Đồng Tâm đêm 9.1.2020 là thi hành công vụ đúng pháp luật. Hai. Nhân chứng. Những công an đã tham gia sự kiện Đồng Tâm đêm 9.1.2020, những công an đã nổ súng giết dân, người dân chứng kiến sự việc cần được thẩm vấn tại tòa để chứng minh cáo trạng buộc tội người dân giết người, chống người thi hành công vụ là thỏa đáng. Ba. Thực nghiệm. Ba sĩ quan cảnh sát cấp tá và cấp úy tuổi quân dầy dạn, nghiệp vụ tinh thông, thử thách từng trải, thế võ tự vệ thuần thục lại dễ dàng rơi xuống hố và càng dễ dàng khoanh tay cam chịu để người dân đổ xăng đốt cháy thui. Cần thực nghiệm để chứng minh trong tình thế đạn vãi như mưa, không ai có thể ló măt ra khỏi nhà, người dân vẫn có thể hò nhau xúm lại đổ hết chậu xăng này đến chậu xăng khác xuống hố và hố nhỏ sâu hút vẫn có đủ ô xy để xăng cháy lâu đến mức thiêu ba cảnh sát thành than. Vật chứng, nhân chứng và thực nghiệm là yêu cầu bắt buộc để chứng minh tội phạm với phiên tòa công minh, làm sáng tỏ công lí. Nhưng phiên tòa sơ thẩm xử người dân vô tội Đồng Tâm chỉ là phiên tòa hình thức, chỉ làm thủ tục xét xử để áp đặt bản án có sẵn cho người dân vô tội Đồng Tâm chứ không cần công lí. Vì vậy mọi đòi hỏi cần thiết, đúng pháp luật của luật sư, mọi đòi hỏi của công lí đều bị tòa độc tài bác bỏ “Không cần thiết”! Không xử theo pháp luật, bác bỏ mọi đòi hỏi của công lí, phiên tòa gán tội cho người dân vô tội Đồng Tâm đã giết chết cả hình hài luật pháp ốm yếu, còi cọc của nền tư pháp được gọi là pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quyền dân là quyền thiêng liêng của con người. Để cướp quyền dân cả nước, đảng cộng sản chỉ cần ghi vào Hiến pháp điều 4: đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Để cướp 59 ha đất của người dân xã Đồng Tâm, nhà nước cộng sản đã xả súng giết dân và gõ búa giết cả luật pháp nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự kiện máu Đồng Tâm một lần nữa chứng minh quyền dân và mạng sống người dân trong nhà nước độc tài rẻ rúng như thế nào và nhà nước độc tài tham lam, tàn bạo như thế nào. Nợ máu Đồng Tâm. Nợ máu cải cách ruộng đất. Nợ máu nội chiến Bắc Nam... Những món nợ máu đảng cộng sản vay của dân sẽ còn mãi trong lịch sử đau thương của giống nòi Việt Nam. Vụ việc Đồng Tâm chỉ là chuyện tranh chấp đất đai giữa chính quyền địa phương quản lí đất và người dân sử dụng đất, chỉ là tranh chấp dân sự thường tình. Trong xã hội, chuyện tranh chấp quyền lợi, tranh chấp quyền sở hữu là điều quá bình thường, ở đâu và thời nào cũng luôn xảy ra. Nhưng không ở đâu và không thời nào việc tranh chấp mấy chục hecta đất nhỏ nhặt giữa chính quyền và người dân cùng nòi giống, cùng người Việt, cùng con Rồng cháu Lạc lại phải trả giá bằng máu, bằng mạng sống con người quí giá như là giữa quân xâm lược và người dân mất nước vậy. Chỉ đội quân xâm lược, đội quân chiếm đóng mới dùng sức mạnh bạo lực xả súng bắn dân chiếm đất dân. Chính quyền xả súng bắn dân để giành phần thắng trong tranh chấp dân sự đã tạo ra đối kháng xã hội ở qui mô quốc gia rộng lớn, gây rối loạn xã hội, gây thất vọng, li tán lòng dân cả nước. Với sức mạnh bạo lực nhà nước, đương nhiên chính quyền phải thắng dân. Nhưng thắng dân bằng bạo lực và thắng dân bằng toà án bất công là chính quyền đã mất dân. Không chính quyền nào có thể tồn tại khi đã mất dân.  
......

Mỹ mở mặt trận kỹ thuật ngăn Trung Cộng

Ông Biden và ông Tập gặp nhau năm 2012, khi cả hai còn là nhân vật lãnh đạo số 2 của quốc gia mình. Ngô Nhân Dụng| Trong tháng Hai 2021, ông Jake Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia mới nhậm chức ở Mỹ gọi cho đồng nghiệp Geoffrey van Leeuwen trong chính phủ Hòa Lan. Một vấn đề “an ninh” họ nói với nhau là SMIC, công ty sản xuất chất bán dẫn (semiconductor) lớn nhất của Trung Quốc,. Chính quyền Trung Cộng đã đầu tư nhiều tỷ đô la để chế tạo chất bán dẫn, cần cho tất cả các máy móc điện tử, bì biết họ còn quá lệ thuộc vào hàng nhập cảng. Các doanh nghiệp nhà nước, như SMIC (Semiconductor Manufacturing International Corp), đã làm hết sức. Nhưng họ vẫn chưa tìm ra được cách làm những chất bán dẫn tối tân nhất. Mỹ, Nhật Bản và Hòa Lan nắm độc quyền các khí cụ sản xuất Theo nhật báo Wall Street Journal ra ngày 28 tháng 2, 2021, ông Sullivan nói chuyện với ông van Leeuwen về vấn đề này.  Bộ Thương mại Mỹ đã cấm các xí nghiệp không được bán cho Trung Cộng những tiến bộ kỹ thuật liên quan đến an ninh quốc gia. Lệnh cấm sẽ được áp dụng trong Tháng Tư năm nay. Nhưng một mình nước Mỹ cấm không đủ. Trung Cộng vẫn có thể dùng áp lực thương mại để mua từ các nước Âu châu, Nhật Bản hay Nam Hàn. Năm ngoái, khối Âu châu đã ký một hiệp ước mậu dịch với Bắc Kinh mà Mỹ không can dự. Chính quyền Joe Biden đang vận động các nước đồng minh đứng chung trong trận tuyến trong cuộc “chiến tranh kỹ thuật cao” giữa “phe dân chủ” và “phe độc tài,” như ông Biden đặt tên. Cuộc chiến tranh này mang tính chất ý thức hệ. Một thành tích Bắc Kinh đang đề cao là đã ngăn chặn được trận đại dịch Covid bắt đầu từ Vũ Hán. Tập Cận Bình muốn các nước khác noi theo mô hình chính trị của Trung Quốc, coi đó là con đường tốt nhất để phát triển và ổn định.   Chính phủ Mỹ chủ trương “phe dân chủ” cần liên kết, không cho “phe độc tài” lợi dụng việc giao thương để cải thiện khả năng kỹ thuật của họ, từ đó sẽ lũng đoạn thế giới. Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken nói, “Các nước dân chủ kỹ thuật cao (techno-democracies) phải liên kết, một cách có hiệu quả, để ấn định các quy luật (cho thế giới kỹ thuật cao)” – khi ông điều trần trước Thượng viện để được phong nhậm. Muốn vậy, “phe dân chủ” phải vượt xa Trung Cộng trong việc sản xuất chất bán dẫn, trí khôn nhân tạo (AI, artificial intelligence) và các lãnh vực tiến bộ nhất, tất cả sẽ quyết định tương lai kinh tế và khả năng quân sự. Hiện nay ngân sách về nghiên cứu (R&D) về kỹ thuật cao của chính quyền Trung Cộng cũng lớn bằng của các công ty và chính phủ Mỹ. Nhưng các nước Âu châu, Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan cũng đổ rất nhiều tiền vào R&D. Phe dân chủ sẽ kết hợp theo nhiều cách khác nhau, không nhất thiết phải tạo thành một tổ chức quốc tế mới. Một khái niệm mới thành hình đặt tên là Dân chủ 10 (Democracy 10) hay Kỹ thuật 10 (Tech 10) trong đó các nước G-7 đứng làm trụ. Các quốc gia trong phe dân chủ đang sẵn sàng cộng tác với Mỹ. Họ thấy phải cùng ấn định các quy luật và tiêu chuẩn về kỹ thuật cao, phải theo cùng một số quy tắc hạn chế việc sử dụng trí khôn nhân tạo để kiểm soát dân chúng, như Trung Cộng đang lợi dụng để đàn áp dân thiểu số ở Tân Cương, Tây Tạng. Đứng hàng đầu trong danh sách của chính phủ Mỹ là việc sản xuất chất bán dẫn. Vì đó là sức đẩy quan trọng nhất trong kinh tế hiện đại – không khác gì dầu lửa trong thế kỷ trước. Hiện nay Trung Cộng là nước sử dụng chất bán dẫn nhiều nhất trên thế giới. Nhưng 80 phần trăm phải nhập cảng từ nước ngoài, hoặc do các công ty ngoại quốc sản xuất trong lục địa. Trong trận tuyến chất bán dẫn, Mỹ cần những đồng minh Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan để kiềm tỏa Trung Cộng.  Trên mỗi mặt trận kỹ thuật, Mỹ sẽ mời các quốc gia vào những kết hợp khác nhau. Những liên minh trong phe dân chủ sẽ được chính phủ Mỹ giữ bí mật, để bảo vệ quyền lợi các nước, không cho biết họ đang chống Trung Cộng. Mỹ và các nước đồng minh sẽ cấm bán cho Trung Cộng một số hàng thuộc các lãnh vực trí khôn nhân tạo, vi tính lượng tử (quantum computing), kỹ thuật sinh học (biotechnology), và hệ thống viễn thông 5G.  Về trí khôn nhân tạo, mà hiện nay Tập Cận Bình đang đầu tư nhiều nhất, phe dân chủ cần có được Israel, là nước đang dẫn đầu thế giới trong việc nghiên cứu AI. Mỹ cũng cần liên kết với Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ để cùng cấm bán một số hàng kỹ thuật cao cho Trung Cộng. Trung Cộng có một thứ “vũ khí” để tự vệ và phản công, là các “khoáng chất hiếm” (rare earths) mà họ làm chủ nhiều quặng mỏ nhất, phần lớn ở Nội Mông Cổ. Đó là những chất cần thiết trong tất cả các khí cụ điện tử, từ máy vi tính đến điện thoại di động. Nếu Trung Cộng ngưng cung cấp “khoáng chất hiếm” thì công nghiệp điện tử của các nước đều trì trệ. Bắc Kinh đã nêu vấn đề này với nhiều nước khách hàng. Nhưng hành động đó khó xảy ra; vì các nước sẽ trả đũa mạnh mẽ. Hơn nữa, nếu tiếp tục bị đe dọa, các nước sẽ chịu tốn tiền khai thác quặng mỏ “khoáng chất hiếm” của họ. Chính phủ Biden đã bắt đầu một cuộc nghiên cứu về khả năng tự túc của nước Mỹ, và thảo luận với Australia cùng nhiều nước khác việc chế biến “khoáng chất hiếm nhân tạo.” Trở lại với lệnh cấm bán các món hàng kỹ thuật cao, hiện nay các xí nghiệp ở Mỹ cũng ý thức mối đe dọa của Trung Cộng. Tất cả đều lo Trung Cộng sẽ “ăn trộm” các sáng chế, phát minh của họ, lo đề phòng nạn gián điệp kinh tế. Mối lo lớn nhất là gián điệp Trung Cộng sẽ lấy trộm rồi lợi dụng các thông tin, dữ kiện cá nhân của tất cả dân Mỹ, từ hồ sơ sức khỏe cho đến vị trí, ngày giờ nào ai đang ở đâu, di chuyển tới đâu, giống như Bắc Kinh đang theo dõi người dân của họ. Nhưng giới kinh doanh Mỹ còn đang phản đối vì các lãnh vực bị cấm bán cho Trung Cộng quá rộng lớn, bao trùm nhiều lãnh vực từ viễn thông cho tới tài chánh, và nhiều chỗ mơ hồ. Nhiều tổ chức tập hợp giới kinh doanh ở Mỹ, với những công ty lớn như Amazon, Walmart, Citigroup yêu cầu chính phủ Mỹ duyệt lại văn bản của lệnh cấm này. Hơn nữa, lệnh cấm mua bán với Trung Cộng sẽ khiến các xí nghiệp Mỹ phải chịu rất nhiều tốn kém. Trong năm đầu tiên thi hành lệnh này các công ty Mỹ sẽ thiệt hại hoảng $52 tỷ mỹ kim, và sau đó mỗi năm $20 tỷ. Nhưng một điều có thể biết chắc là dân chúng Mỹ, từ những người bình thường, đến các nhà chính trị và giới kinh doanh, hiện nay đều ý thức rằng việc xuất cảng kỹ thuật cao bán cho Trung Cộng sẽ gây nên mối đe dọa cho cả an ninh quốc gia và nền kinh tế. Khi Thượng viện phỏng vấn các viên chức mới của chính phủ Joe Biden, các ứng viên đều tỏ thái độ cứng rắn với Bắc Kinh khi nghị sĩ đặt câu hỏi về vấn đề này. Ngô Nhân Dụng    
......

Người Việt tin vào tin giả để nuôi dưỡng ảo tưởng?

Những người tấn công vào Điện Capitol hôm 6/1 được cho là bị dẫn dắt bởi tin giả về gian lận bầu cử VOA Tiếng Việt| Nạn tin giả và thuyết âm mưu hoành hành trong cộng đồng người gốc Việt ở Mỹ vì họ muốn có chỗ dựa để nuôi dưỡng hy vọng và một phần do ‘dân trí thấp’ nên họ dễ bị các nguồn tin giả thao túng, một chuyên gia theo dõi và nghiên cứu vấn đề này nói với VOA. Kể từ cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ hồi năm ngoái, trên các trang mạng xã hội Facebook, Youtube của người Việt và ngay cả trên một số phương tiện truyền thông, báo chí địa phương của người Việt đã tràn ngập những thông tin thất thiệt, những thuyết âm mưu về bầu cử mà tất cả sau đó đều bị chứng tỏ là sai. Những tin giả kiểu như có xe tải chở đến phòng phiếu hàng triệu lá phiếu ma, quân đội Mỹ đột kích thu giữ máy chủ của hãng kiểm phiếu Dominion Voting ở Đức, ông Donald Trump sẽ ban hành thiết quân luật để bắt giữ hết Đảng Dân chủ, Tối cao Pháp viện sẽ phán quyết cho ông Trump thắng, phó Tổng thống Mike Pence sẽ trao chiến thắng cho ông Trump, chiếc laptop bị đánh cắp của bà Nancy Pelosi bị quân đội thu giữ để tìm bằng chứng phản quốc, bà Pelosi bị bắt ở biên giới Canada…thu hút không ít người gốc Việt tin theo. Mới đây nhất, QAnon, tổ chức cực hữu ủng hộ cựu Tổng thống Donald Trump chuyên tung thuyết âm mưu, còn đưa tin Tổng thống Joe Biden hiện chỉ là ‘thế thân’ của ông Trump và ông Trump sẽ trở lại Nhà Trắng vào ngày 4/3. Âm mưu của Nga? Trao đổi với VOA, ông Trần Nhật Bảo, một chuyên gia về tội phạm học từng giảng dạy về hình sự và tội phạm tại các đại học Mỹ, cho biết sở dĩ tin giả hoành hành ở Mỹ ngày nay là ‘kết quả của một hành động chuyên nghiệp chứ không phải ngẫu nhiên’. “Đó là kế hoạch phát tán thông tin giả quy mô có tổ chức, có chủ đích, có sự điều khiển của những người rất có chuyên môn kể từ năm 2015 (tức trước cuộc bầu cử tổng thống năm 2016),” ông Bảo nói với VOA từ thành phố Garden Grove, Quận Cam, bang California. “Họ dùng mạng xã hội định hướng dư luận cho mưu đồ của họ,” ông Bảo, vốn là cộng tác viên cho tạp chí hình sự của Liên Hiệp Quốc, nói thêm và cho rằng rất nhiều người gốc Việt ở Mỹ ‘đã trở thành nạn nhân’ và ‘vẫn tiếp tục bị dắt mũi từ năm 2015 cho đến nay’. Ông chỉ ra thủ phạm là cơ quan tình báo Nga KGB vốn đã bị FBI, Bộ Tư pháp Mỹ chỉ đích danh là ‘đã tìm cách can thiệp vào bầu cử và nội tình nước Mỹ’. Ông Bảo cho biết ông đã theo dõi hoạt động của KGB trên mạng xã hội nhiều năm và ‘thấy sự phá hoại nước Mỹ của họ rất rõ ràng’. “Cách dễ dàng nhất, rẻ tiền nhất để phá rối hay tháo dỡ những định chế về luật pháp và dân chủ của nước Mỹ là thông qua chiến dịch gây nhiễu thông tin,” ông Bảo phân tích. “Mà trên phương diện tuyên truyền thì không ai bằng họ, Mỹ còn thua xa.” “Họ đã tạo ra hơn 300.000 tài khoản giả trên Facebook, ảnh hưởng đến 87 triệu tài khoản, trong số đó có rất nhiều người Việt Nam,” ông nói và cho biết ông đã truy lùng nhiều tài khoản tung tin giả và thấy chúng xuất phát từ thủ đô Sofia của Bulgaria, nơi có rất đông kiều dân Nga. Sau khi cơ quan chức năng Mỹ vào cuộc thì hiện giờ ‘KGB đã rút lui vào hoạt động âm thầm và chỉ còn những cơ sở hạ tầng tung tin giả bên Mỹ vốn tồn tại ngay từ đầu vẫn tiếp tục hoạt động’, cũng theo lời nhà tội phạm học này. Nghe tin giả để nuôi hy vọng? Mặc dù tin giả ảnh hưởng đến một bộ phận người Mỹ nói chung, nhưng tác động của nó đối với cộng đồng người gốc Việt nặng nề hơn ‘một phần là vì nhận thức kém’, ông nói và cho biết chiến dịch ‘disinformation’, tức tung tin giả này, chỉ nhằm vào một số đối tượng đã được chọn trước, chẳng hạn như ‘dân trí thấp’. Giải thích về chứng nghiện và tin tin giả của một bộ phận người gốc Việt ở Mỹ, ông Bảo nói: “Đa số người Việt Nam mất quê hương và ra đi trong hoàn cảnh đau buồn nên họ cần một sự hy vọng để một ngày nào đó họ có thể trở về quê hương trong vinh quang.” Chính những nguồn tin giả đã cho họ hy vọng đó nên họ đã bám vào, cũng theo lời ông Bảo. Theo ông, họ tin rằng ông Donald Trump sẽ giúp họ đem lại tự do dân chủ cho Việt Nam và rằng ông Trump sẽ ‘tiêu diệt Đảng Cộng sản Trung Quốc’. Cũng theo lời ông thì không nhất thiết họ tin vào tin giả nhưng họ vẫn tiếp tục nghe và xem tin giả ‘để tìm niềm vui’ và ‘riết trở thành một thói quen không dứt ra được’. “Hy vọng đó gần như là nguồn sống duy nhất của họ. Họ tìm kiếm, mong mỏi, chờ đợi những loại tin giả đó để tạo cho họ niềm vui tâm lý,” ông nói. Một thủ đoạn mà những người tung tin giả hay dùng là ‘tạo ra một ngày tháng nào đó để nuôi hy vọng, để hướng mọi sự chú ý của người ta đến ngày đó (chẳng hạn như ông Trump sẽ trở lại làm Tổng thống vào ngày 4/3), để kiểm soát suy nghĩ của người nghe tin giả’. Chừng đến khi sự kiện đó không xảy ra thì họ ‘lại đưa ra một số lý do tại sao và lại tiếp tục đưa ra một ngày tháng khác để người ta tiếp tục hy vọng’. Về lý do tại sao những người bị gạt lại vẫn tiếp tục tin hết lần này đến lần khác, ông Bảo nói: “Khi họ đã tin vào ai đó thì họ sẽ tin vào tất cả những gì người đó nói.” ‘Những kẻ lợi dụng’ Ông Bảo cũng lên án một số người Việt trong cộng đồng đã lợi dụng sự lan tràn của tin giả và sự thiếu hiểu biết của một bộ phận đồng hương để tiếp tay tung tin giả mà mục đích chỉ là ‘kiếm tiền trên mạng xã hội’. “Một số YouTuber gốc Việt có mưu đồ tiền bạc. Họ sẵn sàng lợi dụng người Việt làm nạn nhân của họ để phát triển lượng khán giả của mình,” ông chỉ ra. Do đó, những người Việt say mê tin giả trở thành nạn nhân cho những YouTuber làm giàu, theo lời ông. “Tự do truyền thông bị lợi dụng, mạng xã hội rất mạnh còn chính quyền thì bất lực trước tin giả,” ông nói và khuyến nghị truyền thông chính thống phải ‘mở rộng, chia sẻ, lan tỏa nhiều hơn để giúp họ thoát ra khỏi sự kiềm kẹp của tin giả’. Theo lời ông thì đại đa số giới trẻ gốc Việt và những người Việt có học hành đàng hoàng, biết tiếng Anh ‘không tin vào tin giả’. Làm sao khắc phục? Về hậu quả của tin giả đối với người tiếp nhận, ông viện dẫn một số người vì quá tin vào tin giả (chẳng hạn như ‘bầu cử có gian lận’) nên khi đối diện với sự thật ‘họ sẽ trở nên quá khích, bạo động như vụ tấn công vào Điện Capitol ngày 6/1’. Để khắc phục tình trạng này, ông Bảo cho rằng ‘một khi họ đã mù quáng nghe tin giả rồi thì chỉ trích họ chỉ càng làm cho họ rời xa thông tin chính thống’. Tuy nhiên, ông dự đoán chỉ trong vòng một năm nữa các tin giả ở Mỹ ‘sẽ không còn đất sống’ vì khi mong mãi vào những điều hoang đường mà vẫn không thấy xảy ra thì đến lúc nào đó ‘họ sẽ phải chấp nhận thực tế’. “Lúc đó những YouTuber kiếm tiền từ tin giả sẽ không còn người xem nữa,” ông nói. Ông cho rằng ‘luật pháp Mỹ cũng rất đau đầu với vấn nạn tin giả’ vì ‘không thể nào có các biện pháp kiểm duyệt hay chế tài’ và nói đó là ‘điểm yếu của xã hội và luật pháp Mỹ’. Nếu không chế tài được thì chỉ có thể hy vọng những biện pháp dân sự như vụ kiện của hãng Dominion Votings nhằm vào Fox News về tin ‘gian lận bầu cử’ có thể giúp hạn chế tin giả, ông Bảo nói thêm. ‘Biết đâu được thời gian tới sẽ sáng tỏ?’ Trao đổi với VOA, ông Vũ Hoàng Hải, một cựu tù nhân chính trị ở Việt Nam hiện lưu vong ở Mỹ và ủng hộ ông Trump nhiệt thành, nói ông ‘có nghe rất nhiều về việc ông Trump sẽ trở lại nắm quyền vào ngày 4/3’ nhưng ông ‘không tin’. Theo lời ông thì nhiều bạn bè ông là nhà tranh đấu ở trong nước ‘gọi điện sang hỏi rất nhiều có phải ông Trump sắp trở lại Nhà Trắng không?’ “Có anh em ở trên kia (Washington D.C.) cho tôi biết là có dấu hiệu xe cảnh sát ở lại để bảo vệ thủ đô và ngày mai có thể có vấn đề trao quyền lực cho ông Trump,” ông Hải cho biết. Ông Hải cho biết trong kỳ bầu cử vừa qua, ông ‘thu thập tất cả các nguồn tin từ cực hữu, cực tả, trung dung’ và ‘sàng lọc bằng cách kiểm chứng với các nguồn tin nội bộ, tin hành lang…’ Trong khi các đài như Fox News và Newsmax đang đối mặt với các vụ kiện vu khống về gian lận bầu cử, ông Hải nói ông ‘vẫn tin vào sự thật gian lận bầu cử’ và không cho rằng các đài đó đã đưa tin sai. “Bây giờ chưa sáng tỏ được, nhưng biết đâu được thời gian tới sẽ sáng tỏ,” ông nói. Ngay cả thuyết âm mưu về việc máy chủ của Dominion Votings bị lính Mỹ đột kích và tịch thu ở Đức, ông Hải nói ông vẫn ‘theo dõi thông tin này’ chứ không cho rằng đó là tin thất thiệt. “Đến giờ vẫn chưa có đài báo nào nói chính xác việc này cả,” ông lý giải. Ông Hải từng tin vào thuyết âm mưu rằng phó Tổng thống Mike Pence khi đó sẽ quyết định cách đếm phiếu đại cử tri để trao chiến thắng cho ông Donald Trump trong phiên họp Quốc hội ngày 6/1, nhưng sau khi ông Pence bác bỏ thì ông Hải nghĩ việc đó sẽ không xảy ra. Ông Hải cho biết đã bỏ theo dõi tin tức từ truyền thông dòng chính của Mỹ và hiện giờ chỉ xem mỗi kênh Newsmax vì ‘tất cả hãng truyền thông của Mỹ đều có làm ăn và đầu tư ở thị trường Trung Quốc nên họ đều muốn ông Biden thắng để duy trì việc làm ăn này’. Về lý do ông vẫn tin Newsmaxx mặc dù những tin đài này đưa sau đó đều chứng tỏ là không đúng, ông Hải lập luận rằng ông nhìn vào thực tế là ‘ông Biden không có ai ủng hộ’. “Nếu ông Biden thực sự có 81 triệu phiếu bầu thì ông ra đường phải có đông đảo người dân đổ xô ra ủng hộ chứ,” ông lập luận. Về các YouTuber đưa tin gốc Việt, ông Hải nói ông ‘đều nghe hết’ rồi ‘tổng hợp lại’. “Hoa Kỳ là một nước tự do dân chủ. Mỗi người đều có nhận định riêng của mình về vấn đề gì đó. Tôi tôn trọng tất cả ý kiến,” ông nói.
......

Như đỉa phải vôi

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân| Từ nhiều năm qua, tình trạng vi phạm nhân quyền ngày càng tồi tệ ở Việt Nam luôn luôn là một đề tài bị đánh giá nghiêm khắc của các tổ chức nhân quyền thế giới. Hôm 13 tháng Giêng, 2021 vừa qua, Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (HRW) đã công bố “Phúc trình Toàn Cầu 2021” đề cập tình hình nhân quyền của 100 nước trên thế giới. Trong đó Việt Nam bị lên án là 1 trong 83 nước “tiếp tục vi phạm một cách có hệ thống các quyền dân sự và chính trị căn bản của người dân trong năm 2020,” ngay trong mùa đại dịch hoành hành. “Lại thêm một năm đen tối nữa cho nhân quyền ở Việt Nam.” Đó là nhận định của ông John Sifton, Giám Đốc Vận Động Châu Á của HRW trong thông cáo báo chí ngày 13 tháng Giêng. Chỉ tính đến hết tháng Sáu, 2020 Tổ Chức Defend the Defenders (Người Bảo Vệ Nhân Quyền) cho biết CSVN đang giam giữ ít nhất 276 tù nhân lương tâm trong các nhà tù trên cả nước. Lập tức báo Quân Đội Nhân Dân, một trong hai loa tuyên truyền ồn ào nhất của đảng CSVN lồng lộn lên tiếng chống lại nhóm từ “Tù Nhân Lương Tâm.” Theo tờ báo này, ở Việt Nam không có tù nhân lương tâm mà những người gần đây bị tống giam như Phạm Đoan Trang, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Chí Dũng, Lê Hữu Minh Tuấn đều là những người vi phạm pháp luật. Sự ngụy biện trắng trợn để hình sự hóa những hoạt động của các nhà đấu tranh dân chủ của công an điều tra, dẫn tới những bản án nặng nề cho những người sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình một cách chính đáng. Mặt khác bài báo cũng cho rằng sự lên tiếng của HWR là nhằm củng cố niềm tin để các TNLT tiếp tục đấu tranh. Thật ra đây không phải là lần đầu tiên báo QĐND kể cả Báo CAND lên tiếng không chấp nhận các NGOs gọi những nhà hoạt động cho dân chủ, nhân quyền là Tù Nhân Lương Tâm. Nhưng càng cố chống đối, họ càng vô tình xác nhận trước dư luận rằng CSVN rất sợ vấn đề tù nhân lương tâm được thế giới quan tâm theo dõi và trừng phạt. Những gì xảy ra trong thời gian 2 năm gần đây cho thấy sự đàn áp của Hà Nội chưa bao giờ dừng lại hay giảm bớt mà ngược lại càng gia tăng một cách đáng lo ngại. Những bản án tù càng ngày càng khắc nghiệt và phi dân chủ nhưng chế độ cũng ngày càng bị lên án mà không thể chối cãi. Điều thật mỉa mai, tại cuộc họp của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc lần thứ 46 ngày 22 tháng Hai, 2021 tại Genève, Thụy Sĩ, đại diện CSVN đã tuyên bố sẽ  tranh cử một ghế ở hội đồng này trong nhiệm kỳ 2023-2025. Đây là chiếc ghế mà CSVN đã đắc cử lần đầu tiên vào nhiệm kỳ 2014-2016. Ngày nay kẻ thủ ác vẫn mong muốn công khai bước vào Hội Đồng Nhân Quyền một lần nữa để “bảo vệ nhân quyền” bằng cách bào chữa cho hành động chà đạp nhân quyền. Nhưng trong thâm tâm, Hà Nội vẫn lo sợ thế giới lên án và chính vì sợ điều này mà họ cố biện minh cho hành động đàn áp để bảo vệ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của đảng. Trước những bằng chứng tội ác, khi báo QĐND càng biện minh càng làm cho họ không thể bào chữa gì hơn cho hành động côn đồ phi pháp của chế độ đối với người yêu nước. Ví dụ sự kiện công an bắt giữ nhà hoạt động Phạm Thị Đoan Trang chỉ vì cô dám nói lên sự thật vụ Đồng Tâm, cũng như vụ ô nhiễm môi trường Formosa Hà Tĩnh. Những điều đó cho thấy là họ cố tình bịt miệng những tiếng nói can đảm xuất phát từ lương tâm yêu chuộng nhân bản, nhân quyền. Những công dân Việt Nam này chịu đựng sự bắt bớ giam cầm không vì một quyền lợi riêng tư nào nên họ xứng đáng là những tù nhân lương tâm vì lợi ích chung của đất nước. Điều kế tiếp, báo QĐND dù không muốn cũng không thể không nói lên một sự thật: Những sự lên tiếng của cơ quan nhân quyền quốc tế như Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền là để củng cố thêm niềm tin cho các nhà dân chủ trong thời gian bị giam cầm. Sự hy sinh cao cả của họ được thế giới biết đến và hậu thuẫn là động lực quý giá để thúc đẩy họ tiếp tục đấu tranh trên con đường chính nghĩa của dân tộc. Nói tóm lại, bài báo ngụy biện vòng vo về tù nhân lương tâm của báo Quân Đội Nhân Dân đúng là như đỉa phải vôi và chỉ cho thấy họ tự tố cáo hành vi đàn áp nhân quyền man rợ của chế độ CSVN mà thôi! Phạm Nhật Bình  
......

Văn Hóa và Thể Chế

Lý Thái Hùng| Trong bài tiểu luận “Để Việt Nam Hóa Rồng” viết đăng trên VNExpress, ông Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên là chuyên gia tư vấn cho hai đời Thủ Tướng Phan Văn Khải và Nguyễn Tấn Dũng đặt câu hỏi là tại sao sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam vẫn chưa phát triển được như Hàn Quốc hay Singapore? Tại sao Việt Nam tiếp nhận mô hình thể chế thị trường từ phương Tây nhưng vẫn chỉ là nước có thu nhập trung bình? Theo ông Nguyễn Sĩ Dũng thì tuy Việt Nam đã coi “cải cách thể chế là một trong những khâu đột phá quan trọng” nhưng việc áp dụng “mô hình chính phủ kiến tạo” để tạo động lực phát triển phải gắn kết giữa văn hóa và thể chế. Ông Nguyễn Sĩ Dũng đã dùng sự kiện Hoa Kỳ, Úc, Canada đều đã từng là thuộc địa cũ của nước Anh giống như Ấn Độ, Pakistan, Thái Lan, và một số nước Phi Châu; nhưng tại sao những nước như Hoa Kỳ, Canada, Úc phát triển nhanh trong khi những quốc gia như Ấn Độ, Pakistan thì không, hay là phát triển rất chậm. Theo ông Dũng thì vì nước Mỹ, Úc… có cùng nền văn hóa tương đồng với người Anh nên người Anh đã không chỉ “xuất khẩu” thể chế dân chủ mà còn “xuất khẩu” văn hóa đến những quốc gia này. Trong khi đó, nước Anh không thể “xuất khẩu” văn hóa của mình đến Ấn Độ, Pakistan và nhiều nước cựu thuộc địa khác. Trong mạch lý luận đó, ông Nguyễn Sĩ Dũng đã cho rằng Việt Nam tuy thuộc về khối Đông Nam Á (ASEAN) nhưng lại có những tương đồng về văn hóa như các nước ở vùng Đông Bắc Á gồm Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan. Cho nên mô hình “nhà nước kiến tạo phát triển” của Nhật Bản, Nam Hàn, Singpore phù hợp với sự phát triển của Việt Nam hơn. Tuy nhiên, vấn đề là vì sao Việt Nam chưa trở thành “hổ,” thành “rồng” như các nước Đông Bắc Á. Ông Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng đảng và nhà nước CSVN đã: 1) Không thúc đẩy công nghiệp hóa thông qua doanh nghiệp tư nhân như ở Nhật Bản, Nam Hàn; 2) Không có bộ máy hành chánh, công vụ chuyên nghiệp và tài giỏi để hiện thực hóa chương trình công nghiệp hóa. Vì thế, ông Dũng đã kết luận rằng tuy cùng văn hóa, nhưng khi Việt Nam đổi mới chủ yếu là theo đòi hỏi khách quan của tình hình hơn là trên một nền tảng lý thuyết vững chắc. Tôi cho rằng cách trình bày của ông Nguyễn Sĩ Dũng nói trên đã tránh né và không dám nhìn vào sự thật. Lý do là Việt Nam đã đưa ra chiến lược công nghiệp hóa ở đại hội đảng kỳ IX (2001) và coi cải cách bộ máy hành chánh là một trong ba khâu đột phá mang tính chiến lược để phát triển công nghiệp hóa từ đại hội đảng kỳ XI (2011). Nói cách khác, cả hai điều mà ông Nguyễn Sĩ Dũng chỉ trích đều đã được đảng CSVN thực hiện như các nước Nhật Bản vào thập niên 1950 hay Nam Hàn vào thập niên 1970; nhưng khác ở hai điểm căn bản là Việt Nam ôm cứng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư nhân luôn luôn bị chèn ép bởi các doanh nghiệp nhà nước. Chính vì bị trói trong vòng kim cô “định hướng xã hội chủ nghĩa” và quy luật “xin-cho” của thể chế độc tài đảng trị, dù người Việt Nam có văn hóa kinh doanh giống như người Nhật Bản hay người Nam Hàn cũng không thể nào được tự do phát huy nội lực để đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Thật vậy, Nhật Bản hay Nam Hàn đã phát triển và trở thành nước công nghiệp tiên tiến và người dân có được đời sống sung túc, thu nhập cao không phải do một phép lạ từ trên trời rớt xuống mà chính là thể chế chính trị đã cho người dân thấy họ làm chủ đất nước thật sự chứ không phải sống khép nép theo quy luật “xin-cho” từ mệnh lệnh của đảng cầm quyền. Nói tóm lại, văn hóa chỉ là kết quả của một chuỗi những tiến hóa mà con người trải qua nhiều thời đại, nhưng sự hưng thịnh của một quốc gia nằm ở sự chọn lựa thể chế. Lý Thái Hùng  
......

Tú Xương & Nỗi buồn Miến Điện

Tưởng Năng Tiến| Nước bốn nghìn năm hồn chửa tỉnh, Người hăm lăm triệu giấc còn say. Tản Đà “Gia Định báo, tờ báo đầu tiên của nước ta được xuất bản ở Sài Gòn 5 năm trước khi Tú Xương ra đời. Nhưng có lẽ trong hoàn cảnh sự giao thông liên lạc bấy giờ, thậm chí khó lòng nói chắc rằng nho sĩ Trần Tế Xương biết có một tờ báo như thế tồn tại ở trên đời để tính chuyện... cộng tác...” “Nếu có tính đến mấy ông nhà nho chuyển sang viết báo, thì người ta phải đợi đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX, khi Phan Kế Bính viết cho Đông Dương tạp chí, Nguyễn Bá Học viết Nam Phong, Tản Đà làm Hữu Thanh hoặc Phan Khôi làm chủ bút Phụ nữ tân văn. Trước đó, nhà báo ở ta thuần tuý là lớp trí thức mới được Pháp đào tạo (Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh). Ấy là những sự kiện được lịch sử công nhận.” “Tuy nhiên, nếu căn cứ vào nội dung các bài thơ mà Tú Xương để lại, người ta lại không khỏi có ý nghĩ rằng ông nhà nho này sinh ra để làm báo. Ở ông luôn luôn có tư duy của một ký giả, chẳng qua sinh bất phùng thời, không gặp cơ may để thi thố ngòi bút cho đúng lúc thôi ...” (Vương Trí Nhàn. “Tú Xương Nhà Báo”. Cánh Bướm Và Hoa Hướng Dương. nxb Phụ Nữ: Hà Nội, 2006. 31-33). Bác Vương Trí Nhàn – rõ ràng – là một người (rất) bi quan và (vô cùng) khó tính. Cái nhìn của bác ấy về cuộc đời, cũng như đời người (thường) đen thui như mực. Chớ Tú Xương, nói nào ngay, vẫn may mắn chán. Ông may mắn vì được sinh ra ở  Việt Nam, nơi mà tờ báo đầu tiên (Gia Định Báo) đã có mặt rất sớm – chính xác là vào ngày 15 tháng 4 năm 1865. Mãi gần 150 năm sau, hôm 1 tháng 4 năm 2013, trên đường phố Miến Điện mới có tiếng rao (”Báo mới đây!”) và biến cố bất ngờ này đã khiến cho dân chúng “mừng rơi nước mắt” – theo như tường thuật của ký giả Anh Duy, đọc được trên Tuổi Trẻ On Line vào ngày 10 tháng 4 năm 2013: Theo thống kê của tờ Global Post của Mỹ, trong ngày đầu tiên phát hành tờ Golden Fresh Land (1-4), 80.000 bản đã được bán sạch vào trưa cùng ngày. Trả lời phỏng vấn báo Irrawaddy, ông Maung Lay không giữ nổi cảm xúc:“Chúng tôi đã chờ đợi hơn nửa thế kỷ cho ngày hôm nay.” Tun Win, một tài xế taxi tại Yangon, hào hứng: “Giờ đây người dân có thể tiếp cận thông tin mỗi ngày, không phải mỗi tuần một lần.”   Các Tu sĩ Phật giáo Miến Điện biểu tình chống lại Tổ chức Hội nghị Hồi giáo tại Yangon vào ngày 15 tháng 10 năm 2012. AFP PHOTO / Soe hơn WIN. Thiệt tình: nghe mà thấy (thương) hết sức, muốn ứa nước mắt luôn! Cái Xứ Chùa Vàng (chết tiệt) này thiệt là chậm tiến và lạc hậu về mọi mặt. Ở Việt Nam, dù báo chí đã xuất hiện từ lâu nhưng vẫn luôn luôn được đón nhận tưng bừng và “hào hứng” hơn nhiều. Báo Nhân Dân – số ra ngày 12 tháng 3 năm 2000, trong mục “bạn đọc góp ý và phê bình” – có ghi lại một ý kiến (đóng góp) vô cùng nồng nhiệt: Ðối với kiều bào ở California là nơi có đông người Việt Nam, thì báo Nhân Dân điện tử là món ăn tinh thần lớn nhất, quí nhất. Riêng đối với tôi việc làm đầu tiên trong ngày là mở trang báo Nhân Dân điện tử… Nhiều người chỉ mong sáng ra để đọc báo Nhân Dân… Thiệt là quá đã (và quá đáng) nhưng vẫn chưa thấm tháp vào đâu, nếu so với như tường thuật của ông Nghiêm Tiến Quang (Giám đốc Công ty in báo Hà Nội) trên tờ An Ninh Thế Giới, số ra ngày 2 tháng 1 năm 2009: Tại chợ người Việt ở thủ đô Berlin (Đức), tôi gặp một ông mua một lúc 5 tờ ANTG. Tôi bắt tay ông hỏi: “Sao bác mua nhiều thế?”. Ông cười: “Tôi mua hộ mấy ông bạn cùng làm ở chỗ tôi. Tôi hỏi tiếp: “Ở Đức có nhiều người đọc ANTG không? Ông gật đầu: Nhiều đấy. Đọc xong lại cho mượn, rồi chẳng thấy ai trả lại. Bởi báo có nhiều bài cần đọc. Chắc còn lâu, lâu lắm, người Miến mới tiến tới “trình độ” chỉ mong sáng ra để được đọc báo điện tử (Nhân Dân) hay mua luôn một lượt đến 5 tờ (ANTG) vì ... dân trí họ còn thấp lắm – theo như tường thuật của ký giả Từ Khanh, từ Yangon: Sau khi được trả tự do, Daw Suu vận động thành lập 36 “trường” tư. Đúng hơn nên gọi là “trường thí” vì học sinh không phải đóng tiền, dành cho các gia đình nghèo không đủ sức cho con theo học trường nhà nước (đủ thứ phí)...  Chúng tôi bàn sẽ thuê xe đi thăm bốn trong 36 trường của Daw Suu nằm ở ngoại vi Yangon.... Khái niệm “trường” sẽ không đúng khi đến các ngôi trường này, vì mỗi trường chỉ gồm một lớp học. Cả bốn cái trường đều nằm trên những khu vực sinh lầy và hôi hám xa trung tâm Yangon vài chục cây số... Giáo dục ở Việt Nam thì hoàn toàn khác hẳn, có truyền thống và “nền nã” hơn thấy rõ: Giáo sư Nguyễn văn Tuấn ở Úc đã đưa ra những con số làm mát mặt người Việt chúng ta. Nội các chính phủ Việt Nam có nhiều tiến sĩ hơn chính phủ Mỹ và Úc! Nội các Việt Nam có 26 người thì có tới 13 bộ trưởng có bằng tiến sĩ (chiếm 50%), 10 người có bằng cử nhân và 3 người có bằng thạc sĩ... Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hùng, nguyên chuyên viên đối ngoại Học viện Hành Chính Quốc Gia, cho biết là tính từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản. Trong các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam ta có nhiều tiến sĩ nhất. Vậy là ta ăn trùm thiên hạ về học vấn. Đất nước Việt Nam bây giờ ra đường là gặp tiến sĩ. Tiến sĩ lềnh khênh. Đụng tay chỗ nào cũng chạm vào tiến sĩ! Nội các chính phủ đã…tiến sĩ như vậy, tướng tá công an quân đội cũng tiến sĩ, chức quyền địa phương cũng tiến sĩ. (Song Thao. “Dởm.” Thời Báo 05 Apr. 2013). Trần Tế Xương mà sinh sống vào thời buổi (“tiến sĩ lềnh khênh”) như hiện nay thì chắc chết, chết chắc. Cử nhân Nguyễn Đính (tức nhà thơ nổi tiếng Trần Vàng Sao) mà chức vụ, trước khi xin nghỉ hưu, mới chỉ là liên lạc xã thôi thì nói chi đến cái thứ tú tài – cỡ Tú Xương. Nếu vẫn muốn bon chen võng lọng thì nho sĩ họ Trần (e) chỉ còn cách chạy... vô chùa để biến thành tu sĩ: Công đức tu hành sư có lọng! Và cũng phải là chùa ở nước ta à nha, chớ chùa chiền và sư tăng ở Tây Tạng hay Miến Điện thì cũng đừng hòng. Họ hay kiếm chuyện lôi thôi với nhà nước lắm. Cứ biểu tình, chống đối, hay tự thiêu đều đều. Giới tu sĩ ở Việt Nam thì khác hẳn. Rất nhiều vị dễ chịu (và dễ dụ, hay dễ dậy) hơn nhiều nên vẫn được Đảng và Nhà Nước khen thưởng hoặc biểu dương. Có thể vì những nề nếp về báo chí, học đường và tôn giáo (vừa nêu) nên trong một bài viết mới đây (“Việt Nam và Myanmar, Ai Chậm Hơn Ai?”) Nguyễn Giang, trưởng ban Việt Ngữ BBC, đã cho rằng đây là một sự so sánh “khập khiễng” theo nguyên văn cách dùng chữ của ông: Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Doan trao huân chương Hồ Chí Minh cho GHPGVN. Photo courtesy of gdtd.vn So sánh với Việt Nam thì quả là khập khiễng. Việt Nam đã thống nhất đất nước và vấn đề sắc tộc trong nhiều năm qua vẫn nằm trong tầm kiểm soát của chính quyền trung ương, dù đôi khi có nảy sinh điềm nóng ở một số vùng xa. Về kinh tế, Việt Nam cũng đã cải tổ sớm hơn nhiều so với Miến Điện và đang chuẩn bị bước lên ngưỡng thu nhập trung bình trong khi Miến Điện còn thiếu vắng gần như toàn bộ cơ sở hạ tầng và vẫn là một trong số nước ‘nghèo khổ nhất châu Á’, theo đánh giá của BBC Monitoring. Nhưng cũng vì thế, không có lẽ gì mà Việt Nam lại phải chịu tiếng ‘tụt hậu’ so với Miến Điện, nếu đánh giá trên cơ sở các tiêu chí kinh tế, trình độ phát triển, năng lực hội nhập và tính thống nhất. Cũng vẫn theo lời của nhà báo Nguyễn Giang, qua bài báo thượng dẫn: “Giải pháp 'chính trị đi trước' ở Miến Điện cũng chưa chắc đã nhanh chóng tạo đà cho 'kinh tế theo sau'. Nhận định này – xem ra – có vẻ phù hợp với sự quan sát  của một biên tập viên BBC khác, bà Hồng Nga, người đã có mặt tại Xứ Chùa Vàng vào tháng 3 vừa qua:“Con đường cải cách ở Miến Điện mới chỉ bắt đầu, và còn nhiều chông gai phía trước.” Sự “tròng trành” của Miến Điện khi đối diện với những thử thách trước mặt có thể khiến cho thiên hạ liên tưởng đến mệnh lệnh của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, khi ông, cách đây chưa lâu, bỗng (buột) miệng hô to: Cả dân tộc hãy bước ra biển lớn! Dân Việt (đều) ngớ ra một lúc, rồi đồng loạt "ồ" lên tán thưởng: Ờ, ra thì ra chớ! Ở nhà với cái Đảng thì biết ngày nào khôn, và đến kiếp sau (chắc) cũng không khá nổi. Quyết định (tưởng như thật) này người đứng đầu chính phủ Việt Nam đã đáp ứng được sự khát khao bị đè nén từ lâu của cả một dân tộc. Ai cũng đều mong muốn được nhìn xem cuộc sống của nhân loại ra sao, bên ngoài bức màn sắt. Ít khi nào dân Việt có sự háo hức và đồng thuận (lớn) như thế. Tuổi Trẻ Online mở ngay diễn đàn Vươn Ra Biển Lớn, và được hưởng ứng nhiệt liệt của rất nhiều độc giả. Riêng Luật sư Lê Công Định đã hăng hái lên tiếng: “Đối với vận hội lớn lao như thế của đất nước, cần lắng nghe tiếng nói của cộng đồng dân tộc.” Tuy nhiên, chung cuộc thì Lê Công Định phải vào tù vì đã phát biểu linh tinh, và Miến Điện đã bước ra biển lớn chứ không phải Việt Nam. Người Miến đang đương đầu với sóng gió, chịu đựng mọi thử thách, cũng như những bất ổn, vì sự quyết tâm thay đổi của chính họ. Ta thì vẫn ở lại trên bờ, và vẫn tiếp tục ngủ với những giấc mộng rất an bình – như thường lệ: ở nước ngoài thì kiều bào mỗi đêm đều chờ sáng để đọc báo Nhân Dân điện tử, ở trong nước thì cứ bước ra khỏi cửa là gặp ngay tiến sĩ, và tu sĩ thì đều ngoan và “hiền như ma soeur” ráo trọi. Khỏi ai phải băn khoăn (hoặc “lăn tăn”) gì nữa ráo: “không có lẽ gì mà Việt Nam lại phải chịu tiếng ‘tụt hậu’ so với Miến Điện, nếu đánh giá trên cơ sở các tiêu chí kinh tế, trình độ phát triển, năng lực hội nhập và tính thống nhất.” Thỉnh thoảng, nếu muốn thay đổi không khí thì chỉ cần đổi tên nước cho nó đỡ nhàm là đã đủ rồi. Sau Tú Xương, Tản Đà đã có lúc chép miệng thở dài: Nước bốn nghìn năm hồn chửa tỉnh, Người hăm lăm triệu giấc còn say. Từ đó đến nay dân số chúng ta đã tăng gần gấp bốn. “Say” mà càng đông thì càng vui thôi, chớ có sao đâu!    
......

Chiến dịch giải cứu dứa

Bà Tổng Thống  Thái Anh Văn (Hình Newsweek) Nguyễn Thị Bích Hậu Nhà Báo     Chiến dịch giải cứu dứa ( trái thơm) 4 ngày của Đài Loan là một kỳ tích đáng kính phục. Khi Tàu tuyên bố sẽ cấm nhập khẩu tất cả các sản phẩm dứa từ Đài Loan với cáo buộc loại trái cây nhiệt đới này nhiễm bệnh rệp sáp ngày 26/2, trong khi các trái này đã được kiểm dịch. Lập tức chính quyền xứ Đài đứng lên cứu dân. Bà TT Thái Anh Văn đã đứng đầu và chụp hình quảng bá cho trái dứa. Và người xứ Đài nói là làm, cả Chình phủ, doanh nghiệp và dân cùng lăn vào cứu dứa cho nông dân. Chỉ trong 4 ngày, 41.687 tấn dứa đã được các công ty, sàn giao dịch điện tử và dân xứ Đài mua hết, còn cao hơn cả tổng số lượng dứa xuất khẩu của năm ngoái sang Tàu. 180 doanh nghiệp đặt mua 7.187 tấn dứa tươi, 19 công ty đặt mua 15.000 tấn dứa chế biến, 14 hãng nước giải khát đặt mua 4.500 tấn trái cây, và những người bán buôn và bán lẻ đặt mua khoảng trên 10.000 tấn, còn các nhà xuất khẩu và các tập đoàn nước ngoài đặt mua 5.000 tấn. Đài quyết tâm sẽ mở thị trường bán dứa qua các xứ khác chứ nhất định không chịu phụ thuộc, cũng không chịu bị o ép từ một nơi nữa.   Bà Thái Anh Văn vừa cam kết là chính quyền của bà sẽ bỏ ra 1 tỷ Đài tệ để cải thiện tác động của lệnh cấm nhập khẩu, có kế hoạch xuất 30.000 tấn dứa sang Mỹ, Nhật Bản, Singapore và các xứ khác. Vì tới tháng 6 thì nông dân Đài mới thu hoạch xong các cánh đồng dứa.   Đúng là trang anh thư của xứ Đài, xin mượn câu thơ cũ sửa lại như sau:   " Phấn son tô điểm sơn hà Làm cho rõ mặt đàn bà Đài Loan"   Theo CNA,Newsweek, NNVietnam  
......

Cần chấm dứt lãnh đạo đưa con vào vị trí lãnh đạo

  Nguyen Ngoc Chu   1. Ở nhiều nước, vì bầu cử tự do nên bất cứ ai cũng có thể trở thành thị trưởng, tổng thống- miễn là tài năng, được cử tri cả tỉnh, cả nước nước lựa chọn. Họ có muôn ngàn con đường để trở thành chính khách.   Nhưng ở Việt Nam, chỉ có vài con đường để đi đến đỉnh cao quyền lực. Trong số ít ỏi những con đường đó - là con đường tiến thân qua đoàn thanh niên.   Có lẽ trên thế giới hiện nay, con đường tiến thân qua đoàn thanh niên chỉ còn tồn tại ở 2 nước là Việt Nam và Trung Quốc. Thiết nghĩ ở Cuba và Bắc Triều Tiên, con đường tiến thân qua đoàn thanh niên đã đóng cửa.   Thực tiễn cho thấy, những người tiến thân qua đoàn thanh niên ở Việt Nam được phân thành 2 nhóm. Nhóm thứ nhất là con cái, cháu chắt họ hàng của lãnh đaọ. Nhóm thứ 2 là có người nâng đỡ. Không có ai chân đất mà tự mình leo được lên bậc thang quyền lực mà không có người nâng đỡ. Không muốn liệt kê các trường hợp người thực việc thực ra đây, vì chúng quá nhiều và quá nổi tiếng.   Đi qua con đường thanh niên lên lãnh đạo rất ít người có năng lực đạt yêu cầu. Không có người xuất sắc.   2. Mấy hôm nay, truyền thông rộn lên về trường hợp con gái 31 tuổi Trần Huyền Trang của đương kim nữ bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc Hoàng Thuý Lan được thăng tiến vượt bậc(https://thanhnien.vn/.../con-gai-bi-thu-tinh-uy-vinh-phuc...). Bà trần Huyền Trang bắt đầu sự nghiệp chính trị qua con đương thanh niên lúc 23 tuổi. Sau đó là thần tốc thăng tiến. Chỉ trong vòng 8 tháng bà Trần Huyền Trang đã được bổ nhiệm 2 chức. Mới 31 tuổi nhưng đã là phó giám đốc một sở rất quan trọng là Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc. Với đà này, thuận buồm xuôi gió thì chỉ 5-10 năm nữa là uỷ viên trung ương đảng. – đương nhiên giữ chức bộ trưởng hay bí thư tỉnh uỷ hay tương đương.   Bà Trrần Huyền Trang, nếu không phải là con gái của đương kim bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc thì không thể trở thành phó giám đốc Sở KH-ĐT Vĩnh Phúc ở tuổi 31.   Vài chục năm lại đây, xuất hiện ngày càng nhiều các trường hợp lãnh đạo bố trí đưa con vào vị trí lãnh đạo. Đây là một xu hướng có hại cho đất nước.   5. Cần chấm dứt việc dùng con đường đoàn thanh niên để quy hoạch cán bộ. Và hãy chấm dứt tình trạng lãnh đạo đưa con vào vị trí lãnh đạo.       *****   Vì mẹ em đã chọn...   Phạm Minh Vũ Sinh năm 1990, Trần Huyền Trang đã được ông Chú 55 tuổi phải cúi đầu dạ thưa khi phải trình báo cáo.   Mới có 31 tuổi là con gái của Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc Hoàng Thị Thuý Lan, Trang đã “bị” bế lên giữ chức vụ Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và đầu tư.   Trang trước đây sang Trung quốc du học chuyên ngành đảng-đoàn, về nước được Mẹ quy hoạch vào tỉnh đoàn làm việc. Sau đó đưa sang Sin du học để lấy cái mác sau này, giờ đây Trang ngồi vào một ghế phó sở, một sở cực kỳ quan trọng trong sự phát triển kinh tế của tỉnh.   Không có chuyên môn, không bằng cấp, Trang như những “thái tử đảng” khác khi có mác đi du học về như là điều hiển nhiên được ngồi vào ghế lãnh đạo. Xuất thân là một bí thư đoàn, vậy mà bà Lan dám bế con mình lên ghế phó sở quan trọng như vậy quả thật là liều.   Ai cũng biết, công tác ở Đoàn là những bệ phóng để các quan đưa con mình vào đó trước khi qua làm công việc quan trọng hơn như là điểm cộng. Những đứa con bất tài vô dụng Võ Văn Thưởng còn không biết ngày 17-02 là ngày gì? Mặc dù không chuyên môn, không kiến thức về khả năng đưa ra kế hoạch và đầu tư có tầm nhìn kinh tế, nhưng vì Mẹ trang chọn nên Trang phải làm lãnh đạo thôi.   Trang có ông Chú làm ở huyện, giờ gặp Trang phải lúi cúi dạ thưa bà để báo cáo công tác.   Tội cho ông chú đó  
......

Pages