Dân biểu Úc đòi thả 3 Thanh Niên Yêu Nước

......

9 dân biểu HK yêu cầu TT Obama đặt vấn đề nhân quyền với ông Nguyễn Phú Trọng

Ngày 6 tháng 7, 2015 Tổng thống Barack Obama Tòa Bạch Ốc 1600 Pennsylvania Avenue NW Washington, DC 20500 Kính thưa Tổng thống Obama, Vào ngày 7 tháng 7 tới đây, Ông sẽ gặp Tổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng. Ông Trọng không phải là một nguyên thủ quốc gia và cũng không phải là lãnh đạo của một chính quyền dân cử. Ông đã được mời đến Tòa Bạch Ốc chỉ vì ông đứng đầu hệ thống độc đảng tại Việt Nam. Hệ thống độc tài độc đảng này là nguyên nhân của tình trạng nhân quyền tồi tệ tại Việt Nam hiện nay. Năm nay đánh dấu 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao Mỹ - Việt. Là thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ, chúng tôi hoan nghênh mối quan hệ chặt chẽ hơn với người dân Việt Nam và ghi nhận tiềm năng kinh tế và an ninh của đất nước này. Do đó, chúng tôi xem vấn đề nhân quyền là tối quan trọng và đưa lên hàng đầu trong quan hệ song phương bởi vì bất kỳ sự hợp tác toàn diện nào đều phải đặt trên nền tảng giá trị chung và tôn trọng các quy ước được thế giới công nhận. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã ký vào Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị cũng như Công ước chống tra tấn của LHQ. Việt Nam đã chọn cam kết các quyền làm người được thế giới công nhận. Tuy nhiên, Ủy ban Điều tra về bắt giữ tùy tiện của LHQ (UNWGAD) đã phán quyết rằng Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vẫn tiếp tục bắt giữ và giam cầm các nhà hoạt động xã hội và chính trị một cách có hệ thống, vi phạm những ràng buộc của luật pháp quốc tế. Trong khi danh sách các blogger và tù nhân lương tâm Việt Nam bị bắt giữ ngày càng gia tăng, điều quan trọng hơn bao giờ hết là Hoa Kỳ cần gởi một thông điệp rõ rệt tới giới chức trách Hà Nội rằng tôn trọng nhân quyền là yếu tố cần thiết để thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế và an ninh. Chúng tôi xin đề nghị Ông nêu vấn đề ngược đãi tù nhân chính trị và tù nhân tôn giáo tại Việt Nam — đặc biệt những người đang bị những án tù dài hạn chỉ vì họ cổ võ cho chính trị và ngôn luận một cách ôn hòa. Chúng tôi mạnh mẽ kêu gọi Ông đòi hỏi ông Trọng phải thả ngay lập tức những nhà báo công dân/hoạt động nhân quyền nổi bật sau đây: Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Ngô Hào, Trần Thị Thúy, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Ms. Nguyễn Công Chính và Lm. Nguyễn Văn Lý. Chúng tôi cũng xin đề nghị Ông nêu vai trò thiết yếu của các tổ chức chính trị độc lập và các tổ chức xã hội dân sự trong một xã hội tân tiến, cũng như nêu những vi phạm trầm trọng về quyền tự do tôn giáo. Ông Trọng cần được khuyến khích việc lắng nghe người dân Việt Nam và bày tỏ sự tôn trọng xã hội dân sự, các nhóm tôn giáo, và quyền tự do chính trị tại Việt Nam. Chúng tôi mong cùng làm việc với bên Hành Pháp để hỗ trợ truyền thống của quốc gia chúng ta trong việc hỗ trợ nhân quyền và dân chủ. Trân trọng,
......

Grexit - Rồi Sao?

Hy Lạp và Bi Hài Kịch Âu Châu Từ khi Hy Lạp hết khả năng thanh toán món nợ với Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, trị giá khoảng một tỷ 550 triệu Euro (tương đương một tỷ 730 triệu Mỹ kim) và đáo hạn ngày 30 Tháng Sáu, nhiều người hết còn biết là chuyện gì đang xảy ra. Trên nguyên tắc, đến đêm 30 rạng ngày hôm sau, vì Chính quyền Hy Lạp không đạt thỏa thuận về một giải pháp cứu nguy tài chánh với các chủ nợ chính yếu là Liên hiệp Âu châu, Ngân hàng Trung ương Âu châu ECB và Quỹ IMF, Hy Lạp chính thức bước vào giai đoạn vỡ nợ. Việc đàm phán về giải pháp cứu nguy tan vỡ từ hôm Thứ Bảy 27 vì Chính quyền của tập hợp các lực lượng cực tả Syriza dời buổi họp trở về loan báo quyết định sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào Chủ Nhật mùng bốn Tháng Bảy. Trưng cầu dân ý về chuyện gì, được trình bày ra sao cho người dân, với giải pháp nào cho dân chọn lựa? Những câu hỏi căn bản này cũng chẳng rõ ràng. Thế rồi tin tức dồn dập từng giờ trong ngày Thứ Tư mùng một Tháng Bảy, giờ Âu Châu, khiến những người theo dõi cũng hết biết luôn. Ở tại chỗ, các ngân hàng được lệnh đóng cửa và mọi dịch vụ chuyển ngân đều bị kiểm soát, nhưng tình hình chính trị còn nguy kịch và rắc rối hơn vậy. Thí dụ như vào giờ chót ngày Thứ Ba, Thủ tướng Hy Lạp là Alexis Tsipras gửi công điện cho các định chế chủ nợ, rằng Chính phủ của ông có thể đưa ra một đề nghị dàn xếp. Nhưng hy vọng chẳng kéo dài vì các phe trong cuộc tung ra nhiều tuyên bố trái ngược nhằm tác động vào dư luận Âu Châu và Hy Lạp, cho đến khi ông Tsipras lại đổi ý vào chiều Thứ Tư. Ông lên truyền hình xác định rằng vẫn có trưng cầu dân ý và kêu gọi dân chúng trả lời “Không”, tức là bác bỏ giải pháp cấp cứu có điều kiện của Âu Châu. Trong trường hợp đó, Hy Lạp ra khỏi khối Euro, hết sử dụng đồng bạc Âu châu và phải phát hành lại đồng Drachma? Sau đó thì sao? Hồ Sơ Người-Việt xin tổng hợp nhiều dữ kiện khác nhau của vụ khủng hoảng Hy Lạp vì vấn đề không chỉ là tài chánh hay kinh tế…. Hồ Sơ Euro Về đại thể, Hy Lạp mắc nợ khoảng 315,5 tỷ Euro (tương đương với 350 tỷ đô la), chủ yếu là nợ các định chế Âu Châu, nhiều nhất là “tam đầu chế” Liên Âu, Ngân hàng ECB và Quỹ IMF. Với nền kinh tế sa sút liên tục và mất 25% sản lượng trong năm năm qua, và nay chỉ còn 200 tỷ đô la một năm, Hy Lạp không thể trả được các khoản nợ ấy mà muốn cần vay thêm Ngân hàng ECB theo thủ tục khẩn cấp một số nợ ngắn hạn để giải quyết nhu cầu thanh khoản là tiền mặt. Hy Lạp là một thất bại kinh tế vì tệ nạn chính trị. Kinh tế xứ này không thể có tương lai nếu không cải cách, nhưng chẳng ai muốn cải cách vì sợ mất đặc quyền. Thất nghiệp tại Hy Lạp đã lên tới 26% nhưng 50% thành phần trẻ hiện không có việc. Tệ nạn chính trị là sau nhiều thập niên lãnh đạo của đảng Xã Hội (Phong trào “Panhellenic Socialist Movement” gọi tắt là PASOK), Hy Lạp đi theo chính sách bao cấp và bảo vệ quyền lợi của một thiểu số thân tín với gia đình Papandreou có ba đời ông, cha và con (Georgios, Andreas và George) đều từng là Thủ tướng. Hy Lạp còn cải sửa thống kê kinh tế để đủ tiêu chuẩn gia nhập khối Euro và sau đó không thể theo kịp đà tiến hóa của các quốc gia khác. Việc Hy Lạp được gia nhập khối Euro là một sai lầm của Âu Châu, có thể là vì lý do chính trị: xứ này có vị trí địa dư tại một khu vực nóng và là thành viên của Minh ước NATO nên được biệt đãi cho tới ngày phá sản. Sau năm năm thương thuyết, và ráo riết nhất từ đầu năm khi tập hợp cực tả Syriza được cử tri bầu lên vào ngày 25 Tháng Giêng năm nay, Hy Lạp vừa muốn các chủ nợ xóa bớt một phần nợ và lại cho vay thêm tiền. Liên minh cầm quyền của tập hợp Syriza có đa số rất mỏng trong Quốc hội là 11 ghế và sở dĩ đắc cử là vì hứa hẹn 1) không cắt giảm chi tiêu mà còn tăng lương hưu bổng, và 2) thương thuyết việc giảm nợ với Âu Châu, mà 3) vẫn ở trong khối Euro. Điều này rất nan giải. Có tiền là nhờ sự chung góp của dân đóng thuế hay các nước thành viên, các chủ nợ không thể và cũng chẳng muốn thỏa mãn đòi hỏi đó mà còn yêu cầu Hy Lạp phải chấn chỉnh lại việc chi tiêu, cụ thể giảm chi và tăng thu, và cải cách cơ chế kinh tế để gia tăng sản lượng kinh tế trong lâu dài. Mâu thuẫn về yêu cầu đó dẫn tới bế tắc và Chính quyền Syriza quay về hỏi xem người dân có đồng ý với những yêu cầu của chủ nợ hay không. Sau đây là ba kịch bản về những gì có thể xảy ra sau cuộc trưng cầu dân ý vào ngày mùng năm. Ba Kịch Bản Tùy theo lá phiếu của dân chúng, người ta có thể nghĩ ra ba kịch bản là 1) Không; 2) Có; và… Có, Nhưng Mà. Giả Thuyết “Không”: Nếu cử tri không đồng ý với đề nghị của Âu Châu, qua cách trình bày và diễn giải của Syriza, nhiều phần thì Hy Lạp sẽ ra khỏi khối Euro, được gọi là Grexit, từ cách chơi chữ Greece và Exit. Tập hợp Syriza thuộc thành phần cực tả, từ Cộng sản đến Maoist, được ủy quyền lãnh đạo là để giảm nợ mà vẫn ở trong khối Euro. Nếu cử tri không đồng ý với đề nghị của Âu Châu thì Hy Lạp hết nguồn tài trợ và sẽ vỡ nợ, đã không thanh toán được nợ của IMF cũng chẳng thể trả nợ Âu Châu vào ngày 20 này, trong khi đó hệ thống ngân hàng bị mất vốn và phải đóng cửa để khỏi phá sản. Kết cuộc thì Hy Lạp sẽ ra khỏi khối Euro, dùng lại đồng Drachma chắc chắn là bị mất giá. Khi ấy, tập hợp Syriza cũng chẳng còn hy vọng cầm quyền và chính phủ đổ, dân chúng sẽ phải bầu lại cho một đa số khác. Giả Thuyết "Có": Cử tri đồng ý với đề nghị của Âu Châu và tạm đẩy lui kịch bản Grexit. Vì đến lúc cuối, Chính quyền Syriza còn đề nghị dân chúng bỏ phiếu chống, các chủ nợ Âu Châu sẽ nhân kết quả này mà nhấn mạnh rằng Syriza không đáng tin nên họ sẽ chỉ thảo luận việc giảm nợ cho một chính quyền khác. Nghĩa là Syriza cũng có thể bị bỏ phiếu bất tín nhiệm và Hy Lạp câu giờ cho đến khi dân chúng bầu ra một đa số khác. Vấn đề ở đây là chính trường Hy Lạp không có lực lượng nào đủ mạnh khả dĩ thành lập một liên minh cầm quyền thay thế Syriza. Tức là tình hình vẫn chưa êm và còn loạn thêm nếu cử tri dồn phiếu cho cánh cực hữu hay xu hướng chống Âu Châu. Giả Thuyết "Có, Nhưng Mà": Trong cả hai kịch bản Có-Không, Chính quyền Syriza có thể sẽ đổ mà Hy Lạp vẫn khó tìm ra một giải pháp thay thế. Vì vậy, trong giả thuyết cử tri đồng ý với đề nghị của Âu Châu, Thủ tướng Tsipras và các đồng chí có thể nhân đó tìm ra một giải pháp qua ba ngả lách. Ngả lách thứ nhất là trình bày với các thành phần cực đoan trong tập hợp của mình rằng dù ta đã vận động chống lại đề nghị của Âu Châu, dân Hy Lạp vẫn muốn thương thuyết và ở lại trong khối Euro cho nên ta phải dung hòa để vẫn còn cầm quyền. Mục tiêu là bảo toàn được đoàn kết bên trong để khỏi bị bất tín nhiệm. Ngả thứ hai là thuyết phục quốc dân rằng Syriza vẫn là hy vọng khá nhất để đàm phán lại với Âu Châu cho những điều kiện khả quan hơn. Mục tiêu vẫn là cầm quyền. Ngả thứ ba là trình bày với các chủ nợ rằng thà là họ nhân nhượng một chút với Hy Lạp còn hơn là mất hết. Mục tiêu vẫn là mặc cả với các chủ nợ. Kịch bản này có xác suất cao vì đấy là chiến lược ban đầu của Syriza. Cùng lắm thì Tsipras sẽ tìm ra một liên minh mới với các phe nhóm rất ô hợp. Nghĩa là trong cả ba giả thuyết, Âu Châu vẫn xoay về chốn cũ và tái thương thuyết với một khách nợ thiếu tiền mà đầy thủ đoạn. Các chủ nợ đều đã quá chán ngán với trò bội tín ấy nên chưa chắc đã đồng ý với việc thương thuyết lại: Âu Châu chưa ra khỏi khủng hoảng và trước sau gì cũng vẫn trở lại quyết định “Grexit”. Một là Hy Lạp xin ra, hai là Hy Lạp bị đuổi ra. Lý do là quốc gia mạnh nhất và có thẩm quyền nhất trong khối chủ nợ là nước Đức đã hết kiên nhẫn và muốn có kịch bản này để còn cứu vãn được khối Euro với các thành viên còn lại. Tại sao? Liên Âu Sau Grexit Kinh tế rất nhỏ và mục nát của Hy Lạp chẳng có sức nặng gì với khối Euro hay cả tổ chức Liên Âu. Các ngân hàng chủ nợ của Âu Châu đều đã bán lại nợ và rút khỏi Hy Lạp nên các chủ nợ mới là ba định chế nói trên. Việc Hy Lạp ra khỏi Euro không thể gây khủng hoảng kinh tế hay tài chánh cho Âu Châu (hay Hoa Kỳ). Sở dĩ Cộng hòa Liên bang Đức phải giải quyết hồ sơ Hy Lạp chính là để làm gương cho các quốc gia mắc nợ tại miền Nam, như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha hay Ý Đại Lợi. Và sau khi thanh toán xong món nợ Hy Lạp, nước Đức hy vọng sẽ có một nền tảng thuần nhất hơn về chánh sách và vững mạnh hơn về chính trị. Nhưng, các vấn đề căn bản của Liên Âu thì vẫn còn nguyên vẹn. Hệ thống quan thuế này không có quyền lực chính trị và phải dung hòa nhiều đòi hỏi trái ngược của từng quốc gia. Sau khi giải quyết xong món nợ Hy Lạp, các vấn đề tiềm ẩn vẫn nổi lên. Và vụ Hy Lạp ra đi sẽ dẫn tới nhiều rạn nứt hơn trong nội bộ Liên Âu ------ Kết luận ở đây là gì? Hy Lạp đang mở màn cho nhiều biến động trầm trọng hơn tại Âu Châu trong những năm tới./. Nguồn: http://dainamaxtribune.blogspot.de/ Hài Kịch Hy Lạp: Cho Cộng Sản Một Đạp Nguyễn-Xuân Nghĩa - Sống 150630 "Vùng Oanh Kích Tự Do" SYRIZA Ra Ma Và Hy Lạp Bay Ra Cửa Euro Như Thế Nào? Đây là vết bẩn Hy Lạp! - Thế có tẩy nó đi được không? - Hý họa của Ramirez trên tờ IBD Đầu năm nay, dân Hy Lạp đã tưởng mình khôn. Họ bầu cho một tập hợp 22 nhóm thiên tả, từ cộng sản đệ tam qua đệ tứ, đệ tứ rưỡi và các đệ tử lên đồng không đo đếm lẫn cô hồn các đảng “Mao-ít, Mao-nhiều”. Khi một chính đảng mà tự xưng là “tập hợp” thì nên đọc ra chữ “ô hợp”, là trường hợp của nhóm SYRIZA, viết tắt từ chữ Hy Lạp “Synaspismós Rizospastikís Aristerás”, liên hiệp của các đảng cực đoan cánh tả, “radical lefts”. Phát tin cho ngắn thì đa số cử tri ủy quyền cho tập hợp SYRIZA việc đi quịt nợ và tin rằng nhờ SYRIZA thì lương hưu còn tăng, đến 90% của mức lương cuối cùng nhận được. Hãy nói về lương lậu và chi phí đã. Xứ này vốn là Thiên đường Hạ giới nên tuổi trung bình để được nghỉ hưu thuộc mức thấp nhất Âu Châu (57,8 tuổi). Họ còn có 600 ngành nghề được coi là rủi ro và hại sức khỏe nên được về hưu ở tuổi 50, trong đó có giới viết lách và mỹ thuật làm tóc. Đấy là đỉnh cao “xã hội chủ nghĩa” khi mà đi cầy ba năm là có thể xác định mức lương căn bản và dưỡng già ở tuổi 50 mà vẫn có lương hưu tính từ căn bản đó. Và điện nước gì cũng được trả với giá trợ cấp, mà khỏi trả cũng không sao vì nhà nước không có quyền cúp! Thế thì ai sản xuất cho mọi người cùng hưởng điều kiện lý tưởng này? Rất ít! Doanh nghiệp mới thì khó thành lập vì đe dọa đặc quyền của các công ty lão làng được bộ máy hành chánh bảo vệ qua bán chác và tham nhũng. Chế độ bao cấp đó còn khiến tuổi trẻ ù té bỏ đi làm di dân xứ khác. Còn lại là lớp trung niên và tuổi vàng, ca hát tưng bừng chờ ngày nghỉ ngơi…. Đây cũng là nơi thăm thú lãnh thổ bằng xe taxi còn rẻ hơn xe lửa nên hỏa xa cũng là cái lỗ. Chuyện tưởng như chỉ có trong truyện thần tiên. Những người lên đồng không biết đếm chẳng cần biết xứ sở đang mắc nợ đến 315,5 tỷ Euro, tương đương với 350 tỷ Mỹ kim. Một năm sản lượng của cả nước chỉ có khoảng 200 tỷ mà nợ 350 tỷ thì đấy là bài toán kế toán mà một bà nội trợ cũng biết, trừ những người trong thế giới ảo. Đa số các chủ nợ của Hy Lạp là tổ chức Liên hiệp Âu châu của 28 quốc gia, là Ngân hàng Trung ương Âu châu ECB, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và một số quốc gia Âu châu. Khi dân Hy Lạp bầu lên tập hợp SYRIZA do một đảng viên cộng sản lãnh đạo là Thủ tướng Alexis Tsipras, thì các chủ nợ nói trên đều ngao ngán và trải qua sáu tháng cút bắt với một đám hủi. Mỗi tuần mỗi tháng là một đề nghị lập tức được SYRIZA coi như dép rách. Họ lẩn như trạch để khỏi cam kết việc cải cách và chấn chỉnh chi thu. Khi bị chủ nợ đẩy vào thực tế thì hô khẩu hiệu chống tư bản và chủ nghĩa Đức quốc xã! Bị dồn vào chân tường thì SYRIZA dọa lại là sẽ trốn dưới nách của Vladimir Putin, ở bên Nga. Họ chẳng lý gì đến số phận của xứ Ukraine. Khách có kẻ ngồi bên đọc mấy dòng trên mà tả hỏa. Nhà bác nói chuyện giỡn sao? Thế kỷ 21 lại có trò lạ như vậy? Kinh tế chính trị học có trường phái nào dạy về nghệ thuật lươn lẹo như thế không? Thưa rằng kinh tế chính trị học kiểu Mác-Lê-Mao có thể có! Nhưng cao nhân tất hữu cao nhân trị. Cao nhân ở đây là nữ nhân đã kinh qua xã hội chủ nghĩa của xứ Đông Đức cộng sản, Thủ tướng Angela Merkel của Cộng hòa Liên bang Đức. Tốp cộng sản ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo gặp vị Sư thái đã luyện võ trong lò cộng sản Xin hãy nghiêm túc nhìn qua bờ vai của vị nữ lưu này vào thực tế Âu Châu. *** Trong đà hồ hởi của Âu Châu sau khi Liên bang Xô viết tan rã năm 1991, các nước Âu Châu cùng lập ra Liên hiệp Âu châu (Liên Âu) vào năm 1992 qua Thỏa ước Maastrict, tên một thành phố của Hòa Lan. Sau đó, một số quốc gia Liên Âu còn tiến tới chế độ thống nhất tiền tệ, là Khối Euro, cùng sử dụng một đồng bạc chung là đồng Euro, mang ký hiệu €. Mười năm sau, hơi trễ, vào quãng 2009, người ta mới thấy đó là sự hồ hởi sảng, lạc quan tếu. Liên Âu chỉ là một liên hiệp quan thuế, trong đó các nước giao dịch theo tinh thần tự do với tối thiểu hạn chế. Nhưng Liên Âu không là một tổ chức chính trị thống nhất, có quyền hạn về chi thu ngân sách để bắt các thành viên cùng tuân thủ. Thỏa ước Maastrict không có khả năng cưỡng hành nên mọi thành viên vẫn có thể áp dụng nguyên tắc “đèn nhà nào nhà ấy rạng mạng người nào người ấy giữ”. Họ gọi đó là chủ quyền quốc gia, đối lập với thẩm quyền của tập thể Liên Âu. Tất nhiên nhiều kẻ khôn ngoan bèn nghĩ tới mối lợi trong trò góp gạo thổi cơm chung này. Khôn nhất là góp tấm trộn cám lại đòi ăn xôi gấc. Đấy là nếp khôn xã hội chủ nghĩa, là chủ nghĩa cóc biết đếm mà chỉ biết vồ ếch. Trong khu vực rộng lớn của 28 nước Liên Âu và 19 nước của khối Euro, Cộng hòa Liên bang Đức là cái trụ, có nền kinh tế mạnh nhất, lại thấu hiểu trò chơi chính trị của Liên Âu lẫn những giới hạn của Thỏa ước Maastrict. Kinh tế Đức mạnh là nhờ xuất cảng, chiếm phân nửa Tổng sản lượng, và trong số khách hàng nhập cảng của Đức cũng có nhiều quốc gia ở vòng ngoài của Liên Âu. Không kể xứ Ireland tại miền Bắc thì vòng ngoài đó có các nước miền Nam, rung đùi sưởi nắng rửa chân bên Địa Trung Hải. Đó là Hy Lạp, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, các quốc gia “lâm nạn” từ năm 2009. Dân trong nghề gọi nhóm lâm nạn này là PIIGS (Portugal, Ireland, Italy, Greece và Spain). Tại sao lâm nạn? Khách chẳng thể ngồi yên nên nóng ruột hỏi thay cho độc giả, trong khi màn ảnh chan hòa màu đỏ, từ Á về Âu qua Mỹ…. Khi xuất cảng, Đức có lợi thế nhờ đồng Euro có giá rẻ hơn là nếu xứ này vẫn giữ đồng Đức Mã Đê Mê Deutschmark vững chãi của mình như trước. Vì vậy, việc duy trì khối Euro có lợi cho kinh tế Đức, nhưng với cái giá phải trả - chuyện sẽ nói sau vì dân Đức biết đếm. Trong môi trường đó, các nước ở vòng ngoài thoải mái mua hàng của Đức, trả bằng tiền mặt là đồng Euro cho nước Đức. Họ lâm nạn vì không biết đếm là xứ sở hết tiền mặt. Họ hết tiền mặt vì hai lẽ, mua nhiều hơn bán và chi nhiều hơn thu. Sở dĩ chi nhiều hơn thu vì ở trên bờ dốc bao cấp. Càng gần xã hội chủ nghĩa là càng chi bạo mà khỏi cần đếm. Đấy là nạn bội chi ngân sách còn nguy ngập hơn nạn nhập siêu. Vả lại, theo lý luận rất xã hội chủ nghĩa thì bề nào cũng có nhà nước lo. Nhà nước ở đây là nhà nước Đức và nhà nước Liên Âu cùng các định chế tài chánh như ngân hàng ECB và Quỹ IMF. Đấy là các chủ nợ đã tài trợ cho nhóm PIIGS này có tiền mua hàng (chủ yếu của Đức) và duy trì khả năng chi tiêu. Đồng tiền này không miễn phí và vô điều kiện. Phí tổn là phân lời trái phiếu khá cao trên thị trường Đức, và điều kiện là cải tiến chế độ kinh tế tài chánh và cải thiện chi thu ngân sách để ra khỏi tình trạng hào phóng theo kiểu cha chung không ai khóc. Khi ấy, càng gần bờ dốc xã hội chủ nghĩa, các chính quyền bên cánh tả của nhóm PIIGS càng thấy mình khôn. Khỏi chấn chỉnh gì thì cũng được thiên hạ nuôi báo cô nhân danh chủ quyền độc lập với cơ chế Maastrict. Khôn nhất là Hy Lạp! Nước Đức thì cần duy trì hệ thống Euro nhưng chẳng thể tốn tiền tiếp tục trò báo cô đó. Đã vậy thì bà cho cái đứa khôn nhất một đạp ra khỏi cõi càn khôn! Hy Lạp cạp đất là như vậy. Dõi theo đòn chính trị rất quái bên trời Âu, khách ngồi bên bèn gõ máy tìm hình Sư thái Angela Merkel để chiêm bái! Khi thấy dân Hy Lạp vẫn du dương với giấc mơ xã hội chủ nghĩa, lại bầu lên một tập hợp cộng sản có tôn chỉ quịt nợ bọn có tiền, Angela bèn nghĩ đến các khách nợ còn lại. Phải dùng phép sát kê hách hầu, diễn nôm là giết gà dọa khỉ. Trong sáu tháng liền, bà cứ để con gà SYRIZA gáy loạn. Chiêu pháp SYRIZA là hãy can em đi, kẻo em sẽ tự cắt tiết, hoặc bay qua cái lầu son gác tía của Nga. Sư thái Angela ra chiều đắn đo ái ngại, mà thầm nhủ: “xin cứ tự nhiên”. Chuyện quái ở đây là cả khối Euro, cõi Liên Âu và toàn thế giới đều chứng kiến đòn bài bây ăn quịt ấy nên rốt cuộc đành chấp nhận hậu quả là khối Euro phải cho Hy Lạp ra ngoài, kịch bản “Grexit”. Bay qua cửa sổ. Suốt sáu tháng đó, các nhóm xã hội chủ nghĩa của mấy xứ kia khéo nín thinh để khỏi lãnh cơn thịnh nộ của Sư thái Angela và các chủ nợ. Khi thấy Thủ tướng Alexis Tsipras ôm hôn thắm thiết Vladimir Putin thì họ hú vía và tự bảo nhau là cho chúng chết luôn. Đấy là pháp thuật của Angela Merkel. Vì Maastrict không có luật nên bà chọn đứa ngỗ nghịch nhất mà quăng ra cửa. May ra thì các nước còn lại sẽ biết thế nào là sổ sách chi tiêu và sống với nhau thì phải có thủy có chung. Vì thế, khi Hy Lạp cận ngày thanh toán nợ đáo hạn, là trả một tỷ rưỡi cho IMF vào ngày 30 Tháng Sáu, Thủ tướng Tsipras của SYRIZA rơi ngay vào cái hố Angela chờ đợi: cho em về hỏi ý dân đã, qua một cuộc trưng cầu dân ý sẽ tổ chức vào mùng năm Tháng Bảy. Có gì thì cũng tại dân cả. Dân thì đã hiểu. Họ ùn ùn rút tiền ký thác làm các ngân hàng cần ngân khoản cấp cứu của Âu Châu để khỏi lủng. Việc cấp cứu đó vừa chấm dứt và từ nay đến ngày dân bỏ phiếu, các ngân hàng tạm đóng cửa. Chúng ta có một vụ khủng hoảng điển hình như trong các nước nghèo mà ham. Âu Châu văn minh hiện đại cũng có loại nghèo mà ham đó. Đấy là những người cộng sản đã làm cho nước nghèo mà vẫn có tật ham. Bai em nhé.
......

Nếu Hy Lạp ly dị khối Euro

Mười hai giờ đêm 30 Tháng Sáu (2 giờ chiều ở California), Hy Lạp bước vào tình trạng vỡ nợ. Hết trợ cấp, chính phủ Hy Lạp không thể trả cho IMF €1.55 tỷ (đồng Euro), gần $1.73 tỷ (Mỹ kim). Khi bà Christine Lagarde, chủ tịch IMF chính thức công bố tin này, trên nguyên tắc các định chế tài chánh khác ở Châu Âu có quyền đòi Hy Lạp phải trả hết €180 tỷ đã cho vay. Làm như vậy không khác gì “rút ống dưỡng khí” của kinh tế Hy Lạp. Cho nên chưa ai làm dữ cả, mà còn hứa hẹn sẽ nói chuyện tiếp về các biện pháp cứu giúp khác. Chính phủ Alexis Tsipras sẽ thở được ít nhất đến ngày Thứ Hai tuần tới. Thủ Tướng Alexis Tsipras, 40 tuổi, đã “đánh cuộc,” còn gọi là “đánh cá.” Cuối năm 2014, đảng Syriza của ông thắng cử nhờ hứa với cử tri rằng ông sẽ xóa bỏ các chính sách “thắt lưng buộc bụng” do nước khác ở Châu Âu ép buộc. Các chính phủ trước đều phải chấp nhận các chính sách này, khi Châu Âu đưa tay cứu Hy Lạp thoát khỏi bị vỡ nợ, năm 2012, là tăng thuế, cắt giảm chi tiêu, khiến người già bị giảm bớt lương hưu, người thất nghiệp sớm mất trợ cấp, công chức bị cắt lương, vân vân. Các người lãnh lương hưu đã bị cắt 45% rồi, nạn thất nghiệp đã lên tới 25%, và tổng sản lượng nội địa Hy Lạp đã giảm một phần tư kể từ năm 2010. Dân Hy Lạp, với 2 triệu rưỡi người nghỉ hưu và 600 ngàn công chức, chịu khổ cực quá, cho nên thấy đảng Syriza hứa hẹn thì hoan nghênh; chấp nhận đối đầu với các nước chủ nợ! Ông Alexis Tsipras chắc nghĩ rằng nếu Hy Lạp cứ làm găng đến cùng, các nước khác sẽ phải nhượng bộ chứ không dám bỏ rơi nước ông. Nếu Hy Lạp vỡ nợ thật, sẽ phải rút ra khỏi nhóm 24 nước Châu Âu đang dùng đồng Euro, trong đó có Vatican và Monaco. Nếu chuyện đó xảy ra, hậu quả sẽ rất lôi thôi, cho tất cả mọi người. Năm 2012 Liên Hiệp Âu Châu và IMF, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dưới ảnh hưởng của Châu Âu, đã hùn tiền giúp Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha và Hy Lạp thoát cảnh vỡ nợ. Lý do cũng vì nếu không cứu ba nước này thì thì giới đầu tư khắp nơi sẽ mất niềm tin, kinh tế cả Châu Âu, và cả thế giới, sẽ suy yếu. Cho nên ông Tsipras đánh cá rằng năm nay cũng vậy; sau cùng các chủ nợ sẽ phải cứu; không dám đá Hy Lạp ra khỏi Nhóm Euro; rồi ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu (EU) luôn. Dân Hy Lạp có vẻ tin ông Tsipras. Một cuộc nghiên cứu dư luận cho biết 74% dân Hy Lạp muốn nước họ nằm trong khối EU, nhưng 50% vẫn hoan nghênh đường lối cứng rắn của ông Tsipras. Tức là họ tin các nước Châu Âu sẽ không dám làm dữ. Cho nên trong sáu tháng qua, chính phủ Tsipras nhất định không nhượng bộ các định chế cho vay nợ, là IMF, Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu (ECB) và Hội Ðồng Liên Hiệp Châu Âu (European Commission, EC). Các chủ nợ tỏ ra rất cương quyết, nhưng ông Tsipras vẫn làm như họ chỉ dọa, “tháu cáy,” chứ không dám đẩy Hy Lạp vào cảnh vỡ nợ. Nhưng đêm hôm qua, ông Tsipras đã chịu thua một keo. Các nước Châu Âu không “tháu cáy.” IMF không cho trì hoãn món tiền 1.55 tỷ Euro. Hy Lạp đã vỡ nợ thật dù bà Lagarde không dùng từ ngữ đó. Nhưng tai họa không chỉ có thế. Ðến ngày 20 Tháng Bảy tới, nếu không có tiền trả 3.5 tỷ nợ đáo hạn cho Ngân Hàng Châu Âu thì chắc chắn Hy Lạp coi như sẽ tự động rút ra ngoài Khối 24 nước dùng đồng Euro. Vì lúc đó các ngân hàng Hy Lạp sẽ không được trợ cấp để có tiền trả cho các trương chủ muốn rút ra. Nói “tự động” bởi vì nội quy Nhóm Euro không có điều khoản nào về “rút ra” hoặc “bị đuổi ra.” Trước đây chưa có nước nào đã ra cả. Nhưng việc Hy Lạp rút ra, gọi là “Grexit,” nếu xẩy ra sẽ là một chuỗi các biến cố, chứ không phải một biến cố gọn gàng. Khi nào chính phủ Hy Lạp tuyên bố sẽ phát hành một đồng tiền mới, gọi tên cũ là “drachma” thì hành động đó có thể đánh dấu biến cố “Hy Lạp Ra, Grexit.” Thứ Bảy vừa qua, ông Tsipras đánh cá một cú chót. Ông tuyên bố sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý, đặt một câu hỏi cho dân Hy Lạp là họ có chấp thuận các điều kiện mới của Châu Âu hay không? Trong tuần lễ chờ đợi, ông ra lệnh các ngân hàng đóng cửa và hạn chế số tiền dân có thể rút ra từ các máy tự động (€60 mỗi ngày, sau tăng lên €120 cho các cụ về hưu). Ông có thể đoán rằng phe bên kia sẽ nhượng bộ, nhưng họ vẫn lờ đi. Biện pháp cho các ngân hàng tạm nghỉ có thể cứu cả hệ thống tài chánh, vì dân đã bớt tin tưởng. Từ khi chính phủ Tsipras nắm quyền, số tiền dân gửi trong các ngân hàng từ €164 tỷ đã giảm một phần năm, chỉ còn €130 tỷ. Trong mấy tuần qua, số tiền rút ra khỏi các ngân hàng lên gần €10 tỷ. Người ta đoán dân Hy Lạp đang cất trong nhà khoảng €45 tỷ. Việc tổ chức trưng cầu dân ý là một hành động “trốn trách nhiệm” của Thủ Tướng Alexis Tsipras và đảng Syriza. Nếu dân chúng chấp thuận các điều kiện của Châu Âu, ông Tsipras có thể rút lại các lời hứa khi tranh cử. Chắc dân Hy lạp sẽ chấp thuận, nhưng họ sẽ “trừng phạt” đảng Syriza trong cuộc bỏ phiếu sắp tới. Các đảng đang liên hiệp với Syriza sẽ làm áp lực buộc ông Tsipras phải từ chức để bàu cử lại. Hai đảng được lợi nhất trong cơ khủng hoảng này là đảng Cộng Sản và đảng Cực Hữu Bình Minh Vàng (Golden Dawn), khuynh hướng phát xít. Nước Hy Lạp đã từng trải qua nhiều cuộc đảo chính trong quá khứ; dân chúng sẽ lo sợ tái diễn sau cuộc khủng hoảng này! Ðây không phải là lần đầu tiên, chính phủ Hy Lạp đã vỡ nợ bẩy lần trong 200 năm qua. Năm 1830 nước này không trả được nợ cho Anh Quốc khiến Hải Quân Hoàng Gia phải đưa tầu đến chiếm các tài sản gán nợ! Thực ra trên thế giới hầu hết các quốc gia đã vỡ nợ, trừ năm nước là Australia, New Zealand, Thái Lan, Ðan Mạch, Canada và Mỹ. Người ta đã tính toán xem nếu Hy Lạp phải rút ra khỏi khối Euco thì hai bên sẽ thiệt và lợi những gì. Khi tính sổ xong, thì đối với cả hai bên, lợi bất cập hại. Nếu các nhà lãnh đạo đều suy nghĩ một cách thuần lý thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để việc “ly dị” không xẩy ra. Nhưng chúng ta biết, ngay trong hôn nhân, nhiều khi hai người quyết định ly dị nhau mà không cần suy nghĩ cho chín chắn. Trước hết, đối với nước Hy Lạp, nếu chấp nhận “vỡ nợ” thì ích lợi đầu tiên là sẽ không phải lo trả ngay những món nợ ngập đầu €320 tỷ, trong đó có €240 tỷ mới được cấp từ năm 2012, €56 tỷ nợ nước Ðức. Nhưng thực ra, việc trả các món nợ này đều rất nhẹ. Lãi suất rất thấp, số tiền trả nợ mỗi năm chỉ chiếm 3% GDP, nước Hy Lạp có thể lo được. Rút ra khỏi khối Euro, Hy Lạp sẽ khó vay được nợ với lãi suất thấp như vậy. Việc thay đổi đồng tiền từ Euro sang Drachma, đồng tiền dân Hy Lạp dùng từ năm 1830 đến năm 2001, sẽ nhiều rắc rối. Cần đến 430 triệu Mỹ kim để in tiền mới. Năm 1993, nước Slovak tách ra khỏi Tiệp Khắc, phải mất sáu tháng việc đổi tiền mới làm xong. Ðồng tiền mới khiến cho mọi bản hợp đồng thương mại, trong nước và với nước ngoài, sẽ phải được viết lại, dùng đồng tiền drachma thay euro. Nhưng các món nợ sẽ được tính theo tỷ lệ hối suất nào? Rất nhiều cuộc giao thương sẽ đình trệ khi hai bên không đồng ý với nhau về tỷ giá. Ðồng drachma của Hy Lạp chắc chắn sẽ mất giá đến 50% ngay khi ra đời. Một hậu quả khi đồng tiền xuống là hàng nhập cảng sẽ lên giá. Người ta có thể không chịu bán ra trong khi chưa biết họ sẽ mua hàng mới với giá nào, vì hối suất bấp bênh thay đổi. Ngược lại, hàng Hy Lạp bán ra nước ngoài sẽ được lợi vì giá hạ hơn, dễ cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, trong nền kinh tế Hy Lạp phần ngoại thương chiếm phần nhỏ cho nên mối lợi về xuất cảng nếu có cũng không đáng kể. Trong ba năm qua chính phủ Hy Lạp đã hạ giá hàng xuất cảng rồi, khi buộc các công nhân giảm lương 16%; nhưng sau đó số hàng xuất cảng cũng không thấy tăng lên. Ảnh hưởng kinh tế sẽ kéo dài nếu Hy Lạp rút ra. Ngay lập tức, nhiều ngân hàng sẽ phá sản vì hiện nay họ sống nhờ Ngân Hàng Châu Âu bơm tiền cấp cứu. Khi đồng tiền mất giá, mọi người dân tiết kiệm đều mất tiền, có thể mất một nửa. Người dân mất niềm tin thì số tiết kiệm và đầu tư sẽ giảm, mọi việc giao thương bị trì trệ. Nhiều thanh niên Hy Lạp sẽ đi ngoại quốc, người có tiền cũng đem ra ngoài làm ăn. Giới đầu tư quốc tế sẽ ngần ngại hơn khi muốn đưa tiền vào Hy Lạp. Một quốc gia vỡ nợ sẽ bị gạt ra ngoài thị trường vốn thế giới trong một thời gian dài, hàng chục năm trở lên. Nói tóm lại, Hy Lạp sẽ gặp nhiều khó khăn hơn là được lợi nếu ra khỏi khối Euro. Ðối với Liên Hiệp Châu Âu cũng vậy, lợi bất cập hại. Nếu các nước Châu Âu xóa nợ cho Hy Lạp thì số thiệt hại cũng không lớn. Nhưng nếu Hy Lạp rút ra thì khối Euro sẽ không vững chắc như trước nữa. Các nước Ðông Âu đã tỏ thái độ cứng rắn nhất đối với Hy Lạp trong thời gian qua, vì họ thấy không có lý do gì dân chúng nước họ chịu một mức sống thấp hơn dân Hy Lạp, mà tiền họ đóng góp cho Liên Hiệp Châu Âu lại được đem giúp cho Hy Lạp. Nhưng nếu Grexit xẩy ra, vùng bị ảnh hưởng nặng nhất nằm ở Ðông Âu. Ðồng zloty của Ba Lan, đồng florint của Hungary có thể sẽ mất giá 15 đến 20% so với đô la Mỹ. Số tiền đầu tư tại các nước Ðông Âu có thể xuống vì, vì người ta bớt tin tưởng. Tuy nhiên, những mối lo trên có thể rất nhẹ và sẽ thoáng qua rất nhanh; khác với tình trạng năm 2012. Nếu năm đó Hy Lạp rút ra thì Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha cũng ra đi. Nhưng năm nay, hai nước trên đã hồi phục được niềm tin của thị trường. Chính phủ hai nước này hiện đang vay nợ chỉ phải trả lãi suất hàng năm khoảng trên dưới 2%, cho các trái khoán 10 năm; trong khi chính phủ Hy Lạp phải trả tới 10 hay 12%. Cho nên, nhiều người nghĩ rằng nếu Châu Âu dứt bỏ được một “của nợ” là nước Hy Lạp thì sau đó sẽ bớt được một vấn đề khó khăn! Ðối với nước Mỹ, ảnh hưởng sẽ không đáng kể, trừ một số công ty làm ăn nhiều với Châu Âu. Thực ra kinh tế Hy Lạp còn nhỏ hơn kinh tế các thành phố lớn ở Mỹ! Tuy nhiên, khối các nước dùng đồng Euro sẽ phải đối phó với một vấn đề mới: Việc tham gia vào khối từ nay sẽ mong manh, không vững chắc như trước. Nếu Hy Lạp “bị đuổi ra” thì nhiều nước kinh tế yếu khác sẽ có thể sẽ phải ra đi, như Cyprus, Bồ Ðào Nha; trong một cuộc khủng hoảng sau này. Có lẽ ông Tsipras đã đánh cá rằng khối Euro muốn tránh tình trạng đó bất cứ với giá nào. Cho nên ông mới “đánh cá” rằng Châu Âu không bao giờ dám “đuổi Hy Lạp” ra ngoài. Có điều, ông không biết nghĩ rằng một khối Châu Âu muốn tồn tại mà lại bỏ qua không tôn trọng các quy tắc chính họ đặt ra, thì chính họ sẽ mất uy tín, thiệt hại lớn hơn là chịu mất một thành viên trong khi thi hành các quy tắc tài chánh chung. Nhưng dân Hy Lạp sẽ phải nhận ra rằng ông Tsipras thích đánh cá, và ông ta đã đem nền kinh tế cả nước và tương lai đất nước đặt lên bàn đánh cá! Năm 2014, kinh tế Hy Lạp thực ra đã ngưng suy thoái, bắt đầu tăng trưởng. Nhưng chính phủ Tsipras thiếu khả năng, bao cấp cho bè đảng nhiều hơn các chính phủ trước, khiến kinh tế khựng lại và nay lại đang xuống. Chủ Tịch Liên Hiệp Châu Âu Jean-Claude Juncker đã mỉa mai rằng ông Tsipras tự nhận là theo chủ nghĩa xã hội; nhưng khi được yêu cầu tăng thuế các nhà giầu thì ông lại cưỡng đến phút chót mới làm. Ngày Chủ Nhật tới, dân Hy Lạp sẽ cho biết phán quyết của họ. Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/
......

Chủ nghĩa hoàn hảo và sự thần kỳ kinh tế của người Đức

Ít ai biết, từ năm 1992, tức chỉ 2 năm sau khi thống nhất 2 miền Đông Tây, nước Đức là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới, dù dân số chỉ khoảng 80 triệu so với khoảng 300 triệu của Mỹ và 1.3 tỷ của Trung Quốc. Trị vì ngôi vô địch thế giới về xuất khẩu trong suốt 17 năm, đến năm 2009, Trung Quốc mới qua mặt nước Đức vì rất nhiều sản phẩm là tài nguyên thiên nhiên, nhiều sản phẩm thâm dụng lao động, trong khi nước Đức phần lớn xuất khẩu là xe hơi, máy móc công nghệ và chất xám. Vào nhà một người Đức, khó có thể phát hiện một sản phẩm nào mà không phải Made in Germany. Thậm chí bông ráy tai nước Đức cũng sản xuất, dù giá thành sản xuất là 10 USD so với 1 USD của người Trung Quốc. Khi Trung Quốc mở cửa và thành công xưởng của thế giới, các nước khác thấy không hiệu quả nếu tự họ sản xuất, nên qua Trung Quốc đặt hàng hết. Nhưng nước Đức thì không. Họ vẫn tự sản xuất cái cục gôm, cây bút chì, chiếc xe đạp…dù giá thành rất cao, và vì họ có một phân khúc thị trường riêng. Đó là dành cho những người quen dùng đồ Đức trên khắp thế giới. Vì sao? Vì dân tộc Đức là dân tộc theo chủ nghĩa hoàn hảo trong sản xuất. Giữa sự chao đảo của suy thoái kinh tế, nước Đức vẫn không hề hấn gì, và là chỗ dựa cho bao nhiêu quốc gia khác trong cộng đồng chung châu Âu. Nền giáo dục Đức là nền giáo dục mà Tony thích nhất, vì nó đào tạo ra những người học để "cho việc" thay vì tốt nghiệp ra trường để đi xin việc cho tốt. Một nền giáo dục dựa trên sự kỷ luật Vô cùng vô cùng nghiêm khắc. Sự tập trung cao độ của người Đức còn thể hiện qua bóng đá, năm 2014, tại World Cup được tổ chức tại Brazil, dưới áp lực của hàng vạn khán giả nước chủ nhà trên sân, các chàng trai đến từ nước Đức không hề bị run chân run tay gì, thắng vẫn vui nhẹ nhàng, thua vẫn bình thản thi đấu, ai vị trí người đó, tổ chức tấn công phòng thủ bình thường, và họ đã đăng quang ở ngôi cao nhất. Ít ai biết trước đó người Đức đã sang Brazil 4 năm trước, xây dựng một khu resort riêng cho đội tuyển Đức sang ăn ở tập luyện cho quen khí hậu, với đầu bếp bác sĩ đến lao công đều là người Đức. Khu resort này sau WC được tặng lại cho nước chủ nhà như là một món quà kỷ niệm của sự well-prepared. Người Nhật cũng từng hâm mộ và học theo người Đức, và gần đây là người Hàn Quốc, và trở thành 2 bản sao hoàn hảo. Ở trường, giáo viên Đức tỉ mỉ sửa cho học sinh từng lỗi dấu chấm, dấu phẩy...để tạo thành thói quen "hoản hảo" trong mọi thứ, tuyệt đối không bao giờ xuề xoà cho qua, vì như vậy là hại cá nhân từng học sinh, hại đến xã hội sau này vì thói quen làm sai, bất cẩn. Nên khi ra đời, họ khắt khe từng mm trong công việc, tạo thành hiệu quả cao, không tốn thời gian sửa sai vô ích. Người Đức quan niệm, trong cuộc đời con người, trong cuộc sống, có thể méo mó một chút để thú vị hơn. Tuy nhiên, trong học tập, sản xuất và kinh doanh, chúng ta phải áp dụng chủ nghĩa hoàn hảo. Nếu bạn biết lái xe hơi, cầm vô lăng xe Đức sản xuất sẽ thấy cảm giác yên tâm hơn nhiều so với xe đến từ các nước khác. Và tỷ lệ thu hồi xe lỗi của các dòng xe do nước Đức sản cũng thấp hơn nhiều so với các nước khác. Anh bạn của Tony, một kỹ sư làm việc cho một hãng xe Đức ở Sài Gòn, hay kể Tony nghe về câu chuyện ông sếp người Đức đã dạy anh như thế nào. Anh nói, ở Việt Nam, mình hay nói đại khái sản phẩm này là tất cả tâm huyết của tao. Tâm-huyết là tim và máu, tức cũng ghê gớm lắm rồi, nhưng với người Đức, tâm-huyết có ý nghĩa gì đâu, họ còn đem cả tính mạng ra bảo lãnh. Kỹ sư trưởng thiết kế một mẫu xe hơi mới, sẽ phải chịu trách nhiệm bằng tính mạng của mình cho độ an toàn của xe. Anh ấy sẽ phải sẵn sàng chết đi để cả triệu người lái mẫu xe đó được an toàn trên đường thiên lý. Ở nhà Tony có một cái thau giặt đồ bằng nhựa, người thân mang về từ Đông Đức từ năm 1988, để ngoài nắng mưa gió sương nhưng bây giờ vẫn còn xài tốt, màu đỏ vẫn rực rỡ. Chỉ là một cái thau nhựa thôi, nhưng vì Made in Germany nên đó là một đẳng cấp khác, một sản phẩm do người Đức tạo ra. Còn nếu bạn học kiến trúc, một bộ bút vẽ Made In Germany là cái phải có của mọi kiến trúc sư chuyên nghiệp trên thế giới. Ở Đức, giáo dục công lập được miễn phí kể cả đại học, kể cả sinh viên nước ngoài nhưng với điều kiện là phải biết tiếng Đức và có bằng Abitur tức tú tài. Những tưởng với sự tiên tiến của nền giáo dục ấy, sinh viên quốc tế sẽ đổ xô sang học? Nhưng không, số lượng sinh viên vẫn không nhiều so với các nước như Mỹ, Anh, Pháp, Úc…một phần tiếng Đức khá khó, nhiều người ngại. Vì sợ học xong rồi ra trường, nếu không làm cho công ty Đức thì cũng không có lợi thế, dù tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ phổ biến ở nước Đức. Thứ 2 là họ nghiêm khắc, học khó vì chất lượng thật sự chứ không chạy theo thành tích. Giáo dục Đức phân cấp học sinh theo trí tuệ của các bạn từ lúc tốt nghiệp tiểu học, tức ai giỏi thì bắt đầu lớp 5 sẽ đi theo hướng đào tạo hàn lâm, còn lại thì các trường khác theo hướng thực hành. Cả 2 hệ đều được xã hội tôn trọng như nhau, vì khả năng 1 đứa trẻ khác nhau nên cho nó học cái gì phát huy tối đa khả năng của nó. Ví dụ bạn Anne không tưởng tượng ra được cái hình cầu nội tiếp trong hình nón, mở 2 vòi nước và không tính được sau bao nhiêu phút thì đầy cái bồn, thì thôi định hướng cho nó học văn sử địa âm nhạc nghệ thuật cho rồi, chứ bắt nó sin cos làm gì cho nó nóng não. Cái cuối cùng quan trọng hơn chính là kỷ luật của người Đức, nhiều bạn trẻ ngại và sợ nếu phải học hay làm với họ. Họ chấp hành tuyệt đối các luật Lệ, các quy tắc của tổ chức một khi là thành viên. Nói 8hAM bắt đầu học là đúng khi kim giây vừa chỉ số 12 của 8 AM là cửa trường đóng lại, vô xin năn nỉ cỡ nào bảo vệ cũng không cho vô. Trong lớp đúng 8AM là thầy trò bắt đầu mở sách vở ra và học. Khi gửi con vô trường công lập ở Đức, hay hệ thống trường quốc tế Đức trên thế giới, phụ huynh học sinh sẽ ký vào một nội quy dài ngoằng, trong đó có nhiều cam kết, đại loại là con của họ sẽ không được ăn cắp (tức quay bài, đạo văn), nói dối (tức cha mẹ làm giùm bài cho con, nói dối thầy cô)…Nếu học sinh vi phạm, thì sẽ bị làm tư tưởng, học sinh sẽ phải ngồi suy nghĩ về hành vi của mình 1 ngày. Nếu tái phạm, học sinh đó sẽ bị đuổi học ngay và ghi vào sổ bìa đen (black list) trên khắp nơi và các trường công lập khác sẽ không muốn nhận, nếu muốn học tiếp thì vô trường tư sẽ rất đắt đỏ và cũng không tốt bằng. Tony hỏi hiệu trưởng một trường quốc tế Đức ở Thượng Hải vì sao có quy định đó, ông nói nếu bạn chọn cho con cái của bạn giáo dục Đức từ đầu, sản phẩm của bạn sẽ hoàn hảo. Vì giáo dục nước Đức không tạo ra sản phẩm con người của ăn cắp và nói dối. Đứa ăn cắp và nói dối thì không kiêu hãnh được, không ngẩng đầu được. Để sang và chảnh, người ta phải tự mình giỏi giang, tự mình đạo đức, tự mình tử tế, tự mình văn minh. Nước Đức nằm ở Trung Âu, và mỗi nước châu Âu xung quanh, hầu như người Đức nhờ gia công làm dịch vụ giùm cho họ. Đức là một dân tộc cho việc, tức giao việc cho các nước lân bang. Người Đan Mạch thì làm giao nhận vận tải mã hiệu mã vạch kiểm soát chất lượng cho họ, người Hà Lan thì như là một công viên giải trí với cảnh sắc tươi đẹp hoa nở khắp nơi để họ sang dạo chơi, giải trí; các nước phía Đông như Ba Lan, Séc,…thì cung cấp nhân công lao động sản xuất; Thụy Sĩ thì giữ tiền giùm; Áo thì là nơi họ đến nghe nhạc và xem triển lãm tranh; Ý là nơi cung cấp họ các dịch vụ liên quan ăn uống vì ẩm thực với Pizza, Spaghetti, Cappuccino.. Người Pháp, Anh, Nga...thì suốt ngày ganh tụy với người Đức, bên Đức có cái gì thì họ sản xuất cái đó, nhưng chất lượng thì còn lâu mới bằng, vì họ không có tinh thần Perfectionism (chủ nghĩa hoàn hảo) trong sản xuất. Bạn trẻ nào theo chủ nghĩa hoàn hảo trong công việc thì không bao giờ sợ bị thất nghiệp. Và may mắn thay, hồng phúc thay cho doanh nghiệp nào có được nhân viên theo chủ nghĩa hoàn hảo này, làm ăn với họ sẽ vô cùng yên tâm vì không lo sai sót. Bắt đầu chủ nghĩa hoàn hảo đầu tiên với bản thân mình, sạch sẽ thơm tho trí tuệ thể lực đều không thể ngon hơn, rồi xung quanh 1m bán kính quanh mình, sạch sẽ gọn gàng không thể sạch đẹp hơn. Rồi bắt đầu lên bán kính 2m, 5m, 100m, cả ngôi nhà, cả khu phố,...tất cả đều phải hoàn hảo, hoàn hảo... Theo TONY BUỔI SÁNG https://anle20.wordpress.com/2015/06/13/chu-nghia-hoan-hao-va-su-than-ky...
......

Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng: Điều trần trước Tiểu ban Nhân Quyền, Uỷ Ban Đối Ngoại Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ – ngày 17/6/2015

GNsP (19.06.2015) – Washington DC, USA Kính thưa quý vị, Tôi có mặt cùng quý vị trong một chiến dịch vận động cho tù nhân lương tâm Việt Nam, cùng với hai người bạn đồng hành, ông Trương Minh Tam, cựu tù nhân lương tâm và ông Nguyễn Văn Lợi, thân phụ của TNLT Nguyễn Đặng Minh Mẫn. Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng: Điều trần trước Tiểu ban Nhân Quyền, Uỷ Ban Đối Ngoại Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ – ngày 17.06.2015 Foto Thưa quý vị, tôi là một mục sư của Hội Thánh Mennonite và đại diện Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam đến đây vì những người bạn, đồng đạo và tín đồ của chúng tôi bị đàn áp chỉ vì bày tỏ đức tin. Trước khi đi, tôi được biết, khi Chùa Liên Trì của Thầy Thích Không Tánh đứng trước nguy cơ bị san bằng, công an đã hăm dọa rằng “Sau khi vào TPP rồi, họ sẽ sang bằng Chùa Liên Trì”. Và nay tôi đến Hoa Kỳ trong một thời điểm hết sức quan trọng của tiến trình đàm phán TPP và tôi muốn mang kinh nghiệm và kiến thức của mình để cập nhập Quốc Hội Hoa Kỳ về hiện trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam: Hội Thánh Chuồng Bò là một điển hình của sự đàn áp đối với các tôn giáo không chấp nhận nhà cầm quyền CSVN can thiệp vào nội bộ. Hội thánh của chúng tôi có 100 tín đồ và 5 lớp học tình thương cho trẻ con nghèo. Vì không muốn chúng tôi làm việc từ thiện, nhà cầm quyền CSVN đã cưỡng chiếm buộc chúng tôi phải đi mượn một cái chuồng bò tồi tàn bỏ hoang để làm nơi thờ phượng Chúa. Trong suốt 8 năm nay, từ ngày về chuồng bò, nhà nước Việt Nam vẫn luôn tìm cách tiêu diệt chúng tôi. Có một lần khi Hội Thánh đang làm lễ thì tôi được báo công an đến kiểm tra và khi tôi từ trên lầu đi xuống thì bị côn đồ nhảy vào bóp cổ và đè tôi xuống đất để công an bước qua người tôi lên phòng làm lễ để giải tán buổi lễ. Một lần khác họ dùng côn đồ đến Hội Thánh đập phá tan nát các đồ dùng sinh hoạt trong nhà tôi và hâm giết vợ chồng và đứa con trai tôi. Thậm chí họ dùng côn đồ hoặc đánh đập dã man đồng đào của tôi như mục sư Nguyễn Hồng Quang. Ngoài ra họ dùng biện pháp cầm tù các bạn tôi như linh mục Nguyễn Văn Lý, Mục sư Dương Kim Khải và Mục sư Nguyễn Công Chính. Dù họ dùng mọi hình thức khủng bố thể xác, tinh thần cũng như kinh tế, nhưng chúng tôi không lùi bước. Đối với các tôn giáo bạn của tôi, các vấn đề cấp bách nhất gần đây, xin quý vị quan tâm như: • Cao Đài Chơn Truyền và Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Tuý bị tịch thu nhiều thánh thất, như thánh thất Tuy an tại Phú Yên, cấm cản tín đồ tham gia vào lễ lớn. • Công Giáo bị cấm cản không cho giám mục Hoàng Đức Oanh phong phẩm các tu sinh và sắp tới đây họ chuẩn bị cưỡng chiếm 22 nhà thờ của các tín đồ dân tộc thiểu số ở Gia Lai, Kontum. Một vấn đề Hội Đồng Liên Tôn quan ngại và phản đối, đó là Dự Luật Tín Ngưỡng Tôn Giáo sắp được nhà nước Việt Nam ban hành nhằm gia tăng kiểm soát tôn giáo và xiết chặt tự do tín ngưỡng. Để đối phó với các thủ đoạn trên, 5 tôn giáo lớn đã liên kết thành lập Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam. Với tiếng nói chung, chúng tôi thường xuyên lên tiếng bênh vực các tôn giáo, các tù nhân lương tâm và thực hiện các công tác từ thiện. Đứng trước những sự kiện như kỷ niệm 20 năm bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, cuộc đàm phán TPP cũng như chuyến viếng thăm Hòa Kỳ của Tổng Bí Thư CSVN, ông Nguyễn Phú Trọng, tôi mong chính phủ Hoa Kỳ: • Kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do cho các tù nhân lương tâm, đặc biệt là các lãnh đạo tôn giáo như LM Nguyễn Văn Lý, MS Dương Kim Khải và MS Nguyễn Công Chính. • Yêu cầu Sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội thường xuyên viếng thăm các tù nhân chính trị. Tôi kêu gọi sự quan tâm cấp bách đến trường hợp của blogger Đặng Xuân Diệu, TNLT Nguyễn Đặng Minh Mẫn, hiện đang bị cầm tụ tại Trại 5, Thanh Hoá, và nhà hoạt động Hồ Đức Hoà tại trại giam Nam Hà, tỉnh Hà Nam. Họ đang phải chịu đối xử tồi tệ, bị biệt giam và trong trường hợp của Hồ Đức Hoà, anh đã bị từ chối quyền được bày tỏ tín ngưỡng trong tù. • Khuyến nghị nhà cầm quyền Việt Nam không ban hành Dự Luật Tôn Giáo Tín Ngưỡng. Trân trọng cám ơn. Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng Tin lành Mennonite
......

10 kiến thức căn bản về hiệp định TPP

Mỹ, Nhật Bản, Việt Nam và 9 quốc gia khác đang hy vọng sẽ hoàn thành ký kết TPP trong năm 2015. Theo Ezlaw, TPP sẽ là một sự kiện lớn nhất xảy ra với Việt Nam trong 20 năm nay (kể từ thời điểm Việt Nam và Mỹ bình thường quan hệ hóa vào năm 1995). Bạn có biết TPP là gì ? TPP là một hiệp định mang tính bước ngoặt, sẽ làm thay đổi cuộc chơi trong nền thương mại Việt Nam và Quốc tế. Bạn vẫn muốn biết rõ hơn về TPP ? Sau đây là những điều căn bản nhất mà bạn cần biết về hiệp định này TPP, viết tắt của từ Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương), là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 12 thành viên của TPP bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản *Hàn Quốc, Colombia, Costa Rica, Indonesia, Đài Loan, Thái Lan, và nhiều nước khác đang có ý định tham gia vào TPP *TPP bắt đầu từ một thỏa thuận giữa Singapore, Chile, New Zealand và Brunei vào năm 2009, trước khi Hòa Kỳ quyết định tham gia và dẫn đầu Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này, như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an toàn lao động… Các quốc gia thành viên hiện tại của TPP chiếm 40% GDP của cả thế giới và 26% lượng giao dịch hàng hóa toàn cầu. Mỹ muốn TPP sẽ là điểm chốt mới của họ tại Châu Á sau nhiều năm Mỹ đã lún quá sâu vào khu vực Trung Đông. Ngoài ra, nhiều học giả còn cho rằng Mỹ muốn sử dụng TPP để tạo ra một nền kinh tế hợp nhất trong khu vực có thể đối trọng lại với sự phát triển quá nhanh của Trung Quốc. Trung Quốc đã có lúc thể hiện ý định muốn tham gia TPP, nhưng nhiều điều khoản hiện tại của TPP dường như được thiết kế để cố tình không cho Trung Quốc có cơ hội tham gia vào thỏa thuận này. WTO hiện có tới 161 thành viên, vì vậy một trong những nhược điểm của mô hình này là sự khó khăn và dài lâu để tiến đến một thỏa thuận chung liên quan đến bất kỳ vấn đề gì. Hơn thế nữa, TPP sẽ đặt ra được các luật lệ quốc tế mà vượt qua phạm vi WTO như: chính sách đầu tư, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kiểm soát các công ty nhà nước, chất lượng sản phẩm và lao động…. Hầu hết các thỏa thuận quốc tế là về xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, ví dụ như: Ta có thể nhập khẩu số lượng X hàng hóa với giá Y khi các mặt hàng này đã đủ tiêu chuẩn về chất lượng hoặc lao động. TPP khác vậy. Chính bản thân TPP sẽ tạo ra các điều luật quốc tế có khả năng điểu chỉnh chính sách và hướng đi của luật pháp trong từng quốc gia thành viên.  Nói một cách khác, các điều luật của các quốc gia thành viên sẽ phải tuân theo định hướng của TPP. Nhiều điều luật trong TPP còn có ảnh hưởng thay đổi chế độ pháp lý của các quốc gia. Ví dụ như điều luật khuyến khích các thành viên của TPP mở một cơ quan chính phủ, có cơ chế và cách thức hoạt động giống tại Mỹ, thực hiện phân tích ưu-nhược điểm trước khi ban hành các điều luật mới trong nước.     Thỏa thuận TPP bao gồm 29 chương, trong đó chỉ có 5 chương là trực tiếp liên quan đến vấn đề trao đổi hàng hóa, dịch vụ, các chương còn lại đề cập nhiều vấn đề liên quan đến các chuẩn mực, tiêu chuẩn khác nhau về môi trường, chất lượng lao động, luật lệ tài chính, thực phẩm và thuốc men…   *Chú ý rằng TPP sẽ bắt loại bỏ nhiều lợi ích của các công ty nhà nước (là một phần lớn của nền kinh tế Việt Nam), để tạo cơ hội cạnh tranh cho các công ty tư nhân.     Với hiệp định TPP, các công ty, tập đoàn nước ngoài và quốc tế sẽ có khả năng mang chính phủ của các quốc gia thành viên ra tòa án đặc biệt của TPP khi các quốc gia này đặt ra các luật lệ, chính sách đi ngược lại với chỉ tiêu của TPP. Tòa án đặc biệt này có toàn quyền bắt chính phủ đền bù không những cho các thiệt hại đã xảy ra, mà còn những mất mát về cơ hội trong tương lai của các tập đoàn, công ty quốc tế.     Các thành viên tham gia TPP đều đã phải ký một thỏa thuận giữ bí mật về tiến trình thương lượng chi tiết các điều luật của TPP. Các nước này chỉ được tiết lộ những thông tin trên đến các cơ quan chính phủ, tổ chức, và cá nhân có liên quan trực tiếp đến tư vấn chính sách giao dịch.   *Hiện tại, một số chương của TPP có thể tìm thấy tại wikileaks - kênh chuyên đăng các thông tin tuyệt mật.   Theo Ezlaw, mọi người dân Việt Nam, đặc biệt nhất là các nhà trí thức, luật sư, doanh nghiệp, khởi nghiệp... cần phải biết rõ và nhiều hơn về TPP - sự kiện lớn sắp xảy ra với Việt Nam và thế giới. Hãy đón xem các bài phân tích sâu hơn về TPP tại Ezlaw Blog.
......

Trung Quốc Lo Ngại Liên Minh Quân Sự Mỹ - Nhật

Trung Quốc Lo Ngại Liên Minh Quân Sự Mỹ - Nhật Radio CTM (Thanh Thảo): Trong tuần vừa qua có hai sự kiện xảy ra liên quan đến tình hình an ninh biển Đông. Sự kiện thứ nhất là Tân Hoa Xã đưa tin vào lúc 10 giờ 18 phút sáng ngày 30/4/2015, đúng vào lúc CSVN tổ chức lễ mừng 40 năm cưỡng chiếm Miền Nam, Bắc Kinh đã đưa giàn khoan Hưng Vượng từ thành phố cảng Yên Đài, tỉnh Sơn Đông đến biển Đông hoạt động. Theo tin tức thì Hưng Vượng tối tân hơn giàn khoan HD 981, hoạt động ở độ sâu 1.500 mết, độ sâu tối đa của giếng khoan là 7.600 mét, trọng tải là 5.000 tấn. Sự kiện thứ hai là Thủ tướng Abe của Nhật Bản đã được Hoa Kỳ tiếp đón hơn cả thượng khách trong chuyến công du vào đầu tháng 5 vừa qua. Ông Abe là người lãnh đạo Nhật Bản đầu tiên có bài phát biểu trước lưỡng viện quốc hội với những tràng pháo tay ủng hộ của các dân biểu và nghị sĩ Hoa Kỳ về tình hình an ninh khu vực Á Châu Thái Bình Dương. Sự đón tiếp đặc biệt của Tổng thống Obama đối với Thủ tướng Abe đã khiến cho Trung Quốc quan tâm và theo dõi vì qua chuyến đi này, rõ ràng là Nhật đang trở thành đồng minh quân sự của Hoa Kỳ tại Á Châu. Dưới đây là nhận định của ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân, về các sự kiện nói trên: Thanh Thảo: Trước hết việc Tân Hoa Xã thông báo Giàn khoan Hưng Vượng đang được Bắc Kinh cho tiến vào biển Đông vào lúc này mang ý nghĩa gì thưa ông? Lý Thái Hùng: Việc Bắc Kinh đưa giàn khoan Hưng Vượng vào biển Đông ở thời điểm mà cách nay 1 năm đã tạo ra không biết bao nhiêu sóng gió về vụ giàn khoan HD 981, đã nói lên hai điều: Thứ nhất, Bắc Kinh đã và đang chạy đua việc kiểm soát Biển Đông để đặt Hoa Kỳ và các quốc gia liên hệ vào chuyện đã rồi. Việc lập căn cứ quân sự ở Hoàng sa và Trường sa hiện nay cũng như đưa các giàn khoan vào tìm dầu ở biển Đông là động thái có chủ mưu. Thứ hai, Bắc Kinh phải gia tăng các hoạt động trên biển Đông để chứng minh với Tòa Trọng Tài Tối Cao Liên Hiệp Quốc rằng biển Đông thực sự là của họ và gián tiếp phủ nhận việc kiện tụng của Phi Luật Tân về chủ quyền đường lưỡi bò chín đoạn mà Bắc Kinh chủ trương, trong lúc tòa án đang nghe giải thích các bên và sẽ ra phán xét vào tháng 6/2016 sắp đến. Nói tóm lại, vụ đưa giàn khoan Hưng Vượng vào biển Đông trong lúc tình hình còn có quá nhiều căng thẳng chứng tỏ là Bắc Kinh bằng mọi giá muốn kiểm soát biển Đông. Thanh Thảo: Dư luận quốc tế đang lên tiếng chống đối việc Trung Quốc cho lấp nhiều bãi đá chìm để lập khu quân sự trên quần đảo Trường Sa, nay Bắc Kinh lại cho giàn khoan Hưng Vượng tiến vào biển Đông cho thấy là Trung Cộng không quan tâm gì đến những phản đối của các nước như Hoa Kỳ, Phi Luật Tân, Nhật Bản. Phải chăng Trung Quốc đang chuẩn bị thế đối đầu không thưa ông? Lý Thái Hùng: Trung Quốc ngày một có thái độ hung hăng như chị đề cập là vì Bắc Kinh biết là Phi Luật Tân, CSVN và cả Hoa Kỳ đều không muốn xảy ra tình trạng đối đầu trên Biển Đông. Thứ nhất là Hoa Kỳ tuy tuyên bố xoay trục về Á Châu Thái Bình Dương để ngăn chận sự bành trướng của Bắc Kinh, nhưng trong mấy năm qua Hoa Kỳ chỉ muốn liên kết một số quốc gia đồng minh để gây áp lực lên Trung Cộng rồi thôi. Lý do là ngoài những bận tâm phải giải quyết về tình hình khủng hoảng ở Ukraine và Trung Đông, bản thân Tổng thống Obama là người rất lo ngại để xảy ra những xung đột vũ trang với Trung Cộng vào lúc này. Chính ông Obama rất ngại đối đầu với Bắc Kinh thì làm sao xảy ra chuyện đối đầu trên biển Đông với Trung Cộng. Thứ hai là Phi Luật Tân và CSVN tuy có ảnh hưởng trực tiếp đến những leo thang bành trướng của Bắc Kinh trên biển Đông nhưng cả hai cũng rất ngại trực tiếp đối đầu vì chỗ dựa của họ là khối ASEAN đang bị lủng phòng tuyến bởi sự khuynh loát của Bắc Kinh. Nói cách khác là khối ASEAN không những không đồng lòng với Phi Luật Tân và CSVN để đối đầu với Trung Cộng mà lại còn đang bị Bắc Kinh mua chuộc nên Phi Luật Tân và CSVN chỉ có thể loay hoay trên mặt truyền thông và ngoại giao mà thôi. Thứ ba là bản thân Tập Cận Bình vào lúc này muốn có cuộc xung đột trên biển Đông xảy ra để giúp cho họ Tập hướng những rối rắm và khó khăn trong nội bộ Trung Quốc hiện nay - nảy sinh từ chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” đang đe dọa sự tồn vong của phe nhóm họ Tập - ra bên ngoài, để làm lý cớ mở cuộc thanh trừng mới hầu xiết lại hàng ngũ. Tuy tình hình hiện nay là như vậy; nhưng nếu Bắc Kinh không biết dừng lại ở mức giới hạn mà lại tiếp tục tung ra hàng loạt các kế hoạch lấn chiếm biển Đông thì chắc chắn là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phi Luật tân sẽ không thể ngồi im. Thanh Thảo: Sang một vấn đề khác là Tổng thống Obama đã dành một nghi lễ đặc biệt để đón tiếp Thủ tướng Abe của Nhật Bản vừa qua. Điều này phải chăng Hoa Kỳ thấy rõ thế đối đầu của Bắc Kinh nên đã nâng cấp Nhật Bản từ một đồng minh kinh tế thành đồng minh quân sự để chia xẻ gánh nặng an ninh trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương với Hoa Kỳ không thưa ông? Lý Thái Hùng: Nhật Bản là một đồng minh chiến lược quan trọng của Hoa Kỳ từ sau Thế Chiến Thứ Hai, nhưng trong suốt nhiều thập niên qua, Nhật Bản chỉ nằm dưới dù an ninh của Hoa Thịnh Đốn và là đồng minh về mặt kinh tế hơn là quân sự. Từ lúc Trung Quốc trổi lên thành một cường quốc Á Châu và nhất là bắt đầu muốn cạnh tranh với Nhật Bản để vươn lên kiểm soát Á Châu, chính quyền Tokyo không thể im lặng mà buộc phải cải thiện  mặt quân sự để có thể đối đầu với Bắc Kinh. Vụ xung đột quần đảo Senkaku với Bắc Kinh đã khiến Nhật phải thay đổi hàng loạt những chính sách về quốc phòng như tân trang vũ khí, cải sửa đạo luật về lực lượng tự vệ, cho phép lực lượng này hoạt động cùng với Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh khác vượt ra ngoài lãnh thổ Nhật. Không chỉ đối phó với sự tăng cường lực lượng hải quân của Trung Quốc mà ngay cả những tấn công bằng vũ khí hạt nhân từ Bắc Hàn, chính phủ Nhật Bản cũng đã có những chính sách hiện đại hóa quân sự đáng chú ý trong vòng 3 năm qua. Thứ nhất là khai triển một hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo mục tiêu trực tiếp là nhắm chống lại các đe dọa từ kho vũ khí hỏa tiễn của Bắc Hàn. Thứ hai là đã xây dựng một chiến hạm lớn nhất của mình từ sau thế chiến thứ hai là chiếm hạm Izumo được coi như là tàu khu trục có chở trực thăng, nhưng cũng là hàng không mẫu hạm cỡ nhỏ. Chiến hạm này có mục tiêu chống tàu ngầm và điều khiển, kiểm soát các hoạt động quân sự khi lâm chiến. Những tân trang quân sự để đối phó với Trung Cộng và Bắc Hàn nói trên đã nghiễm nhiên đẩy Nhật Bản từ một đồng minh kinh tế bước sang đồng minh quân sự với Hoa Kỳ. Điều này cũng dễ hiểu vì sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ không còn ở vào thế ưu việt như quá khứ vì ngân sách cắt giảm và trải rộng trên quá nhiều mặt trận. Nhật Bản cũng không thể mãi mãi núp dưới bàn tay bảo vệ của Hoa Kỳ mà phải có trách nhiệm bảo vệ chính họ và xa hơn nữa là Á Châu Thái Bình Dương. Do đó việc Tổng thống Obama đã đón tiếp Thủ tướng Abe hơn cả thượng khách vào đầu tuần qua cũng nói lên một điều quan trọng là Hoa Kỳ chính thức coi Nhật Bản là một đồng minh quân sự, để chia xẻ gánh nặng quân sự và an ninh với Mỹ tại vùng Á Châu Thái Bình Dương. Thanh Thảo: Theo ông sự liên minh chặt chẽ giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ như vậy thì Bắc Kinh hiện nay quan ngại Nhật Bản điều gì thưa ông? Lý Thái Hùng: Khi Nhật Bản được tân trang để trở thành một cường quốc quân sự thì với hai khả năng vượt trội hiện nay về kỹ thuật và kinh tế, Nhật Bản sẽ không chịu ngồi im để nhìn Trung Quốc bành trướng sức mạnh ở Á Châu và nhất là đe dọa an ninh biển Đông nơi đang chi phối đến 75% lượng hàng hóa và dầu thô của Nhật di chuyển qua biển Đông. Từ sau Thế chiến thứ II cho đến nay, Nhật Bản từ bỏ mộng quân phiệt và tập trung phát triển kinh tế. Nhưng bản chất của dân tộc Nhật là bành trướng và mở rộng lãnh thổ ở bên ngoài, do đó giấc mơ quân phiệt của Nhật có thể trở lại bất cứ lúc nào khi cơ hội đến. Điều này càng khiến cho Trung Quốc và một số quốc gia Á Châu lo ngại hơn khi hàng năm từ Thủ tướng cho đến nhiều Bộ trưởng đang tại chức, viếng thăm đền Yasukuni, nơi tôn thờ những anh hùng tử sĩ Nhật Bản, trong đó có một số vị Tướng bị tòa án đồng minh kết án là tội phạm chiến tranh trong thế chiến thứ hai. Ngoài ra, Nhật Bản hiện nay không chỉ đầu tư tại Trung Quốc mà còn là quốc gia bán rất nhiều cho những công ty Trung Quốc về linh kiện có kỹ thuật tối tân để lắp ráp máy móc xuất cảng. Nếu xảy ra xung đột với Nhật, kinh tế Trung Quốc sẽ bị thiệt hại rất nhiều. Ngược lại, vì lo ngại sự xung đột leo thang với Bắc Kinh, các công ty Nhật bản đã từ từ rút đi những đầu tư quan trọng sang các quốc gia Đông Nam Á và Phi Châu. Do đó khi Hoa Kỳ và Nhật Bản liên minh chặt chẽ hơn về mặt quân sự, Bắc Kinh rất sợ Nhật Bản ở hai điều. Thứ nhất là lực lượng Nhật Bản sẵn sàng tấn công và đè bẹp lực lượng Trung Quốc nếu xảy ra cuộc xung đột chớp nhoáng. Thứ hai là cả Nhật Bản và Trung Quốc đều có tham vọng bành trướng nên sẽ khó tránh khỏi những xung đột ngầm. Nói tóm lại sự liên kết mạnh mẽ hơn để trở thành đồng minh quân sự giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ, là một bước tiến quan trọng và vì thế nó trở thành mối đe dọa cho Bắc Kinh là chuyện đương nhiên. Thanh Thảo: Nếu như giàn khoan Hưng Vượng tiến vào biển Đông như HD 981 đã từng làm, theo ông thì tình hình VN lần này sẽ như thế nào? Lý Thái Hùng: Nếu như giàn khoan Hưng Vượng tiến vào biển Đông và lập lại những gì mà giàn khoan HD 981 đã gây ra trong thềm lục địa Việt Nam như năm rồi, chắc chắn là tình hình sẽ rất căng thẳng và có thể tạo ra sự xung đột lớn. Thứ nhất là lãnh đạo CSVN sẽ không im lặng, nhất là Nguyễn Tấn Dũng muốn “lấy lòng” dư luận để đăng quang lên làm Tổng bí thư đảng nên sẽ ra lệnh cho cảnh sát biển nổ súng và từ đó Dũng sẽ đăng đàng kêu gọi “chống” Bắc Kinh. Thứ hai là Hoa Kỳ, Phi Luật Tân sẽ lên tiếng và có thể sẽ hậu thuẫn cho Nguyễn Tấn Dũng; nhưng sau đó yêu cầu hai bên kiềm chế; đồng thời sẽ làm phép thử khối ASEAN khi kêu gọi khối này lên tiếng chính thức để chống hành động hung hăng của Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng phải tính toán lợi hại cho chính họ khi lập lại sự kiện này nếu tiếp tục đưa giàn khoan Hưng Vượng vào biển Đông. Tuy Trung Quốc coi thường các chống đối nhưng chính Bắc Kinh cũng rất e ngại khi mà dư luận chống đối quá mạnh và làm ảnh hưởng đến tình hình kinh tế là điều Bắc Kinh phải cân nhắc. Kết luận của tôi là Bắc Kinh tuy sẽ đưa giàn khoan Hưng Vượng vào biển Đông nhưng họ sẽ cho hoạt động trong phạm vi biển Quốc tế mà thôi. Thanh Thảo: Xin cảm ơn ông Lý Thái Hùng./. Nguồn: http://radiochantroimoi.com/thoi-su-vn/van-de-an-ninh-bien-dong-trong-tu...
......

Điều trần về tình hình nhân quyền Việt Nam tại Quốc Hội Canada

Trong nhiều năm qua, tình hình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam ngày một gia tăng, nhà cầm quyền Hà Nội đã ra sức đàn áp các nhà bất đồng chính kiến, khiến cho dư luận quốc tế nhiều lần lên tiếng và quan ngại. Để tìm hiểu thêm về tình hình hiện nay, Tiểu Ban Quốc Tế Nhân Quyền thuộc Ủy Ban Thường Trực về Đối Ngoại và Phát Triển Quốc Tế Canada đã mời ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch Đảng Việt Tân tham dự buổi điều trần diễn ra vào lúc 1 giờ trưa Thứ Ba ngày 21 tháng 4 năm 2015 tại Toà nhà Quốc Hội số 1 Wellington Street, Ottawa. Buổi điều trần đặt dưới sự chủ tọa của Dân biểu Scott Reid, chủ tịch Tiểu Ban và các thành viên gồm Dân biểu Wayne Marston, bà dân biểu Nina Grewal, Dân biểu Irwin Scotler, Dân biểu Jim Hyllier, Dân biểu David Sweet, Dân biểu Tyrone Benskin và hai Dân biểu dự thính là bà Judy Sgro và bà Kirsty Duncan. Ngoài ra còn có sự hiện diện của Tiến sỹ Lê Duy Cấn và Luật sư Vũ Đức Khanh cùng một số đồng bào Việt Nam đến từ Toronto và Ottawa.     Trong phần mở đầu, ông Đỗ Hoàng Điềm đã ngỏ lời cám ơn Tiểu Ban đã cho ông cơ hội để trình bày về tình hình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Đồng thời, ông cũng đã bày tỏ lòng tri ân đến chính phủ Canada đã hỗ trợ cho nhân quyền tại Việt Nam, và ông tin tưởng rằng với một nước Việt Nam tự do và dân chủ sẽ mang đến sự ổn định và thịnh vượng trong vùng Đông Nam Á. Trong bài tham luận ông đã nhấn mạnh đến 5 điểm chính yếu là: 1- Quyền tự do phát biểu và thông tin với việc nhà cầm quyền CSVN đã ra những điều luật ngăn cấm sử dụng thông tin trên mạng và các trang mạng xã hội, điển hình là Điều 72. 2- Quyền tự do hội họp và lập hội với việc bắt giam những nhà đấu tranh dân chủ khi họ tập trung phản đối việc Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam. 3- Quyền tự do tín ngưỡng đã bị xâm phạm khi nhà cầm quyền đàn áp và bắt giam các vị lãnh đạo tinh thần như Cao Đài, Hòa Hảo, Công Gíao, Tin Lành và Phật Gíao. 4- Quyền tự do tham gia chính trị, trong đó Điều 4 Hiến Pháp cho phép đảng cộng sản Việt Nam độc quyền cai trị toàn dân, từ đó ra sức đàn áp và bắt bớ những tổ chức chính trị đối lập. 5- Về mặt pháp quyền, nhà cầm quyền đã ra những bộ luật mơ hồ như "tuyên truyền chống phá nhà nước" (Điều 88), "lật đổ chính quyền nhân dân" (Điều 79) và "lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm quyền lợi nhà nước" (Điều 258) nhằm đàn áp và bắt bớ những ai muốn lên tiếng đòi tự do và dân chủ. Sau đó, ông đã đưa ra những đề nghị cụ thể để bảo vệ nhân quyền và hỗ trợ tiến trình dân chủ tại Việt Nam: - Nhà cầm quyền phải thả những tù nhân chính trị điển hình như Ls. Lê Quốc Quân, các bloggers Tạ Phong Tần, Nguyễn Đinh Ngọc, Nguyễn Hữu Vinh, nhà đấu tranh cho quyền lợi đất đai của người dân Trần Thị Thúy, nhạc sỹ Việt Khang, nhà hoạt động Bùi Minh Hằng, Ms. Dương Kim Khải và Ms. Nguyễn Công Chính và các thanh niên công giáo như Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu và Nguyễn Đặng Minh Mẫn. - Nhân viên Tòa Đại Sứ Canada tại Việt Nam nên gặp gỡ những tù nhân lương tâm để bảo đảm họ không bị đối xử tàn nhẫn trong tù. - Chú trọng đến việc cải cách luật pháp; đòi hủy bỏ các Điều 88, 79, 258; tham dự các phiên xử các nhà dân chủ; và nhấn mạnh nhà cầm quyền CSVN cần tôn trọng các quyền hội họp, quyền tự do ngôn luận, và quyền thành lập những tổ chức dân sự. - Kèm theo các điều kiện về nhân quyền trong những quan hệ song phương với nhà cầm quyền Việt Nam. Sau đó các dân biểu thành viên của Tiểu Ban Nhân Quyền đã lần lượt đặt những câu hỏi liên quan đến nhiều lĩnh vực: Bà Nina Grewal đề cập đến tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em và những trù dập đối với các tôn giáo ở Việt Nam. Ông Đỗ Hoàng Điềm cho biết tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em vẫn luôn là một nan đề nếu nhà cầm quyền CSVN không tích cực giải quyết. Nhà cầm quyền CSVN vẫn luôn trù dập các tôn giáo vì họ muốn độc quyền kiểm soát những hoạt động của các tôn giáo vốn nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Ông Wayne Marston quan tâm đến hệ thống tư pháp ở Việt Nam như việc xét xử công bằng, đặc biệt đối với các tù nhân chính trị cũng như các hình thức đối xử với tù nhân. Ông Đỗ Hoàng Điềm chia sẻ rằng các phiên xử đặc biệt với tù nhân chính trị không bao giờ công bằng và đúng theo quy trình xét xử vì các thẩm phán thường đã có những bản án định sẵn, thậm chí các thẩm phán đã không quan tâm đến những chi tiết vụ việc đưa ra trong phiên xử và các tù nhân thường bị đối xử bất công và tàn nhẫn. Ông Irwin Cotler đã nêu rất nhiều quan tâm liên quan đến tình trạng ngăn cản và đàn áp một số luật sư khi họ nhận biện hộ cho các tù nhân chính trị, và ông mong muốn làm thế nào để hỗ trợ các luật sư này. Trong phần trả lời, ông Đỗ Hoàng Điềm giải thích việc bắt bớ các luật sư nhằm ngăn cấm và đe doạ những nhà bất đồng chính kiến khi họ lên tiếng cho lẽ phải. Việc này sẽ làm các luật sư không dám nhận biện bộ bênh vực khi ra tòa. Sau đó ông đề nghị chính phủ Canada nên có những sự lên tiếng bênh vực các luật sư này, đồng thời trợ giúp để cải tổ hệ thống pháp luật Việt Nam hầu bảo đảm việc thực thi quyền biện hộ trước pháp luật. Ông David Sweet xác nhận một số tin tức đưa ra là chính xác tuy nhiên ông cũng thắc mắc trước tình trạng tham nhũng như Việt Nam thì làm sao nhà cầm quyền còn có thể đứng vững; ngoài ra ông cũng muốn xác định lại con số 200 tù nhân lương tâm vẫn còn đang bị giam giữ. Ông Đỗ hoàng Điềm cho biết con số 200 là khá chính xác và có thể còn cao hơn nữa trên thực tế. Ông Tyrone Benskin nêu câu hỏi về các hoạt động của các tổ chức NGO tại Việt Nam, có thể là do nhà nước dựng lên làm bình phong để che mắt thế giới? Ông Đỗ hoàng Điềm xác nhận đã có những tổ chức NGO được thành lập từ trong nước cũng như nhiều NGO từ ngoài vào, nhưng đa số các hoạt động của họ không có tính cách đe dọa chế độ dưới hình thức dân sự như môi trường, giáo dục, y tế; tuy nhiên nếu có liên quan đến các quyền tự do tôn giáo hoặc những việc nhạy cảm thì những hoạt động này sẽ gặp trở ngại từ phía nhà cầm quyền. Buổi điều trần kéo dài trong vòng 1 tiếng với sự tham dự và quan tâm đến nhiều vấn đề liên quan đến tình trạng nhân quyền Việt Nam từ chính phủ Canada. Nhiều dân biểu trong tiểu Ban Nhân Quyền đã chia sẻ là họ rất hài lòng buổi điều trần vì giúp nhiều thông tin cũng như những chia sẻ thật cặn kẽ của ông Đỗ Hoàng Điềm. Sau đây là phần phát biểu của ông Đỗ Hoàng Điềm trước Tiểu Ban Quốc Tế Nhân Quyền thuộc Ủy Ban Thường trực về Đối Ngoại và Phát Triển Quốc Tế. HẠ NGHỊ VIỆN Tiểu Ban Quốc Tế Nhân Quyền Thuộc Ủy Ban Thường Trực về Đối Ngoại và Phát Triển Quốc Tế Tình Hình Nhân Quyền tại Việt Nam Ngày 21 tháng 4 năm 2015 Phát biểu của Ông Đỗ Hoàng Điềm Chủ Tịch Đảng Việt Tân Kính thưa, Ông Scott Reid, Chủ tịch Tiểu Ban Quốc Tế Nhân Quyền Quí vị Thành viên Quốc Hội, Toàn thể Quí vị. Trước hết, tôi xin cám ơn Tiểu Ban Quốc Tế Nhân Quyền đã tổ chức buổi điều trần này và cho tôi cơ hội trình bày về Tình Hình Nhân Quyền tại Việt Nam. Vào cuối cuộc Chiến Tranh Việt Nam năm 1975, Canada đã rộng lòng tiếp nhận nhiều người tị nạn Việt Nam và tạo cho họ một ngôi nhà mới. Đáp lại lòng tốt và sự hào phóng này, chúng tôi xin chân thành cám ơn quí vị. Ngày 30 Tháng Tư năm nay đánh dấu ngày kỷ niệm lần thứ 40 chiến tranh Việt Nam kết thúc. Chúng ta phải xem xét 40 năm dưới chế độ cộng sản đã ảnh hưởng thế nào lên người dân Việt Nam. Từ năm 1975, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đã thiết lập một thể chế áp bức và tham nhũng nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngay sau khi kiểm soát được Miền Nam Việt Nam, Đảng Cộng Sản đã đưa hàng trăm nghìn người vào những trại tù mà hàng ngàn người đã chết vì bị tra tấn, bỏ đói, bệnh tật, hoặc kiệt sức vì lao động quá mức. Từ năm 1975 kéo dài đến thập niên 1990, thời gian cai trị đầy khủng bố của họ đã đẩy nhiều người vào một cuộc di tản hàng loạt khỏi Việt Nam. Trong số những người trốn chạy bằng thuyền, nhiều người đã bỏ mình trên biển hoặc trở thành nạn nhân của bọn cướp biển. Hàng trăm phụ nữ và thiếu nữ đã bị hãm hiếp hoặc bị bắt cóc. Có lẽ khía cạnh rõ ràng nhất của 40 năm thống trị của ĐCSVN là hồ sơ tồi tệ về nhân quyền. Trong buổi điều trần ngày hôm nay, tôi muốn tập trung trình bày về năm lãnh vực chính. Tự Do Ngôn Luận và Thông Tin Tại Việt Nam, nhà nước kiểm soát tất cả các phương tiện truyền thông in ấn và phát sóng. Tin tức và truyền hình nước ngoài bị kiểm duyệt trước khi được trình chiếu cho khán giả Việt Nam. Nhà cầm quyền ra sức bịt miệng những người chỉ trích bằng cách sử dụng công an để đe dọa, sách nhiễu, bắt bớ tùy tiện, và kết án tù nặng. Theo Bảng Chỉ Số Tự Do Báo Chí Năm 2015 của Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới, Việt Nam xếp hạng thứ 175 trong số 180 quốc gia được khảo sát. Tháng 9 năm 2013, nhà cầm quyền thông qua Nghị Định 72, cho nhà nước quyền hạn rộng rãi để hạn chế ngôn luận trên các blogs internet và truyền thông xã hội. Tháng Giêng năm 2014, Nghị Định 174 được thông qua thiết lập hình phạt nặng nề đối với những người sử dụng truyền thông xã hội và internet để lên tiếng "tuyên truyền chống nhà nước" hoặc có "tư tưởng phản động". Nhà cầm quyền cũng sử dụng phương pháp từ chối dịch vụ (DDoS) để tấn công triệt hạ các trang mạng chống đối, sử dụng phần mềm gián điệp và phần mềm độc hại (spyware and malware) để xâm nhập vào máy vi tính của các nhà hoạt động. Theo tổ chức Freedom House, họ cũng sử dụng hàng ngàn "dư luận viên nhà nước" để quảng bá những tuyên truyền thuận lợi cho nhà nước tên mạng internet. Hai khuyến cáo hàng đầu cho Việt Nam từ cuộc Kiểm Tra Phổ Quát Định Kỳ Liên Hiệp Quốc vào Tháng 2 năm 2014 là:     Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, và tự do lập hội;     Bảo đảm quyền tự do ngôn luận được bảo vệ trên mạng cũng như ngoài đời và quyền tiếp cận và sử dụng internet không giới hạn và cho phép các bloggers, các nhà báo, những người sử dụng internet và các tổ chức phi chính phủ được quyền cổ động cho nhân quyền. Tự Do Hội Họp và Lập Hội Nhà cầm quyền Việt Nam nghiêm cấm tất cả các đảng phái chính trị, các hiệp hội công nhân, và các tổ chức nhân quyền độc lập với chính phủ và đảng cộng sản. Nhà cầm quyền đòi hỏi các buổi tụ họp công cộng phải có giấy phép chính thức và từ chối cấp phép cho những cuộc hội họp, tuần hành, hay biểu tình mà họ cho là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều sự chống đối bộc phát vì vấn đề tịch thu ruộng đất bởi các viên chức tham nhũng, vì điều kiện lao động tồi tàn và luật lệ lao động thiếu sót, và vì vấn đề tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Để phản ứng, lực lượng công an thường xuyên đàn áp những người tham dự các cuộc biểu tình, và nhiều nhà hoạt động hoặc đã bị bắt hoặc bị kết án tù lên tới 7 năm. Tự Do Tôn Giáo hay Tín Ngưỡng Mặc dù tự do tôn giáo được bảo vệ bởi Hiến Pháp Việt Nam; tuy nhiên, có nhiều nghị định hành chính liên quan giới hạn đáng kể tự do tôn giáo tại Việt Nam. Gần đây nhất, Nghị Định 92 được thông qua vào tháng Giêng năm 2013, càng mở rộng thêm sự kiểm soát của nhà cầm quyền đối với các nhóm tôn giáo. Tất cả các nhóm tôn giáo được yêu cầu tham gia một cơ quan giám sát do đảng kiểm soát bên dưới một tổ chức lớn có tên gọi là Mặt Trận Tổ Quốc. Những ai không chấp hành thường bị bắt hoặc bị sách nhiễu. Các nhóm tôn giáo là mục tiêu thường xuyên nhất của nhà cầm quyền bao gồm Hội thánh Cao Đài, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, các Hội thánh và nhà thờ tại gia Tin lành độc lập, Dòng Chúa Cứu Thế, và Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Một thí dụ điển hình là chính quyền địa phương đang nỗ lực buộc Chùa Liên Trì, thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ở địa điểm hiện tại đã gần 60 năm nay, phải di chuyển tới một địa điểm khác. Lý do chính là vì ngôi chùa này được sử dụng như là một trung tâm sinh hoạt cho một số tổ chức xã hội dân sự không được thừa nhận, trong đó có Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam. Tình hình hiện nay tại Việt Nam có thể được mô tả đúng nhất trong bản phúc trình của Báo Cáo Viên Đặc Biệt Liên Hiệp Quốc về Tự Do Tôn Giáo hay Tín Ngưỡng sau chuyến viếng thăm Việt Nam vào Tháng 7 năm 2014. Ông Heiner Bielefeldt đã viết trong phần tóm lược "Trong khi đời sống tôn giáo và sự đa dạng tôn giáo là một thực tế ở Việt Nam hiện nay, quyền tự chủ và hoạt động của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng độc lập, tức là, những cộng đồng không được công nhận, vẫn còn bị hạn chế và không an toàn, khi mà các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng này bị vi phạm rõ ràng với sự giám sát, đe dọa, sách nhiễu và đàn áp liên tục." Các quyền chính trị Việt Nam là một nhà nước độc đảng trong đó Đảng Cộng Sản Việt Nam có độc quyền vững chắc về chính trị. Sự độc quyền này được bảo đảm trong Điều 4 của Hiến Pháp, mới được sửa đổi năm 2013, trong đó xác định rằng Đảng Cộng Sản là lực lượng duy nhất "lãnh đạo nhà nước và xã hội". Như đã nêu ở trên, tất cả các đảng phái chính trị đối lập bị nghiêm cấm và bị đàn áp nặng nề. Thành viên của cơ quan lập pháp Việt Nam được bầu lên trong một cuộc tổng tuyển cử; tuy nhiên, tất cả các ứng cử viên phải được thông qua bởi Mặt Trận Tổ Quốc do ĐCSVN kiểm soát. Điều này khiến tổ chức Freedom House chấm Việt Nam điểm 7 về Quyền Chính Trị, với điểm 1 là cao nhất và điểm 7 là thấp nhất. Kết quả là ĐCSVN kiểm soát tất cả các ban ngành của chính phủ, và theo Freedom House "tư cách đảng viên thường được xem như là những phương tiện kinh doanh và quan hệ xã hội, vấn đề tham nhũng và gia đình trị trong đảng là một vấn đề liên tục." Trong Bảng Chỉ Số Tham Nhũng Năm 2014 của tổ chức Minh Bạch Quốc Tế, Việt Nam xếp hạng thứ 119 trong số 175 quốc gia trên thế giới. Mặc dù còn nhiều thách thức, các nhà bảo vệ nhân quyền, các nhà hoạt động dân chủ, các nhà trí thức, và ngày một đông cựu đảng viên cao cấp của ĐCSVN đã công khai kêu gọi cải cách chính trị và tôn trọng nhân quyền. Tuy nhiên nhà cầm quyền đã phản ứng bằng cách bắt bớ, sách nhiễu và đe dọa nhiều hơn; một sự đàn áp mà nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế cho là tồi tệ nhất trong vòng 20 năm qua. Pháp Quyền Thay vì pháp quyền, nhà cầm quyền Việt Nam đã dựa trên "pháp trị", áp dụng các quy định chung chung về an ninh quốc gia để đàn áp các quyền cơ bản. Để hạn chế tự do ngôn luận, các nhà hoạt động đã bị buộc tội với những điều khoản mơ hồ trong bộ luật hình sự như "tuyên truyền chống nhà nước" (Điều 88), "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân" (Điều 79), "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân." (Điều 258). Ngoài ra, hệ thống tư pháp Việt Nam nằm dưới sự kiểm soát của ĐCSVN. Trong những trường hợp có động cơ chính trị, các vụ xử án thường được tiến hành một cách vội vàng, thiếu tính khách quan theo đòi hỏi của luật pháp quốc tế. Pháp luật Việt Nam cũng cho phép nhà cầm quyền "quản chế hành chánh" không qua xét xử, xem những người bất đồng chính kiến ôn hòa như là mối đe dọa tới an ninh quốc gia để quản thúc họ tại gia. Để tránh sự chỉ trích quốc tế, nhà cầm quyên đôi khi áp dụng những cáo buộc phi chính trị như "trốn thuế" để giam giữ những nhà hoạt động nổi tiếng. Một thí dụ là trong Báo Cáo Về Nhân Quyền Và Dân Chủ Năm 2014, Văn Phòng Bộ Ngoại Giao và Khối Thịnh Vượng Chung Vương Quốc Anh phân loại Việt Nam như là một "quốc gia cần quan tâm" với nhận xét như sau: "Có sự thiếu minh bạch và thiếu trách nhiệm giải trình trong toàn bộ hệ thống tư pháp. Chúng tôi quan ngại rằng nhà nước sử dụng tòa án để trừng phạt những người bất đồng chính kiến bằng cách truy tố họ về những vấn đề không liên quan. Thí dụ như trường hợp ông Lê Quốc Quân, bị kết án 30 tháng tù vì tội trốn thuế và bị xử y án tháng 2 năm 2014. Vưong Quốc Anh nhận định rằng ông ta bị tù chỉ vì đã lên tiếng bày tỏ quan điểm về các vấn đề tôn giáo, tham nhũng, và cải cách ruộng đất, và phiên xử ông không được công bằng." Những Khuyến Nghị Trong phần kết, để bảo vệ nhân quyền và tối hậu là để hỗ trợ dân chủ tại Việt Nam, tôi xin đưa ra các khuyến nghị sau đay: 1. Kêu gọi phóng thích các tù nhân chính trị: Tôi kêu gọi chính phủ Canada cùng tham gia vào Kiểm Tra Phổ Quát Định Kỳ Liên Hiệp Quốc 2014, kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam "phóng thích ngay những tù nhân chính trị và những người bị bắt giữ vì bày tỏ một cách ôn hòa hay vì tín ngưỡng tôn giáo." Ước lượng hiện nay có hàng trăm tù nhân chính trị tại Việt Nam. Danh sách những tù nhân được nhiều người biết đến gồm có: Luật sư Lê Quốc Quân, các bloggers Ta Phơng Tần, Nguyễn Đình Ngọc, Nguyễn Hữu Vinh; nhà đấu tranh cho quyền lợi đất đai của người dân Trần Thị Thúy; Nhạc sĩ Việt Khang; nhà hoạt động Bùi Thị Minh Hằng, Mục sư Dương Kim Khải và Nguyễn Công Chính; các nhà bảo vệ nhân quyền công giáo gồm Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu và Nguyễn Đặng Minh Mẫn. 2. Tiếp cận với xã hội dân sự. Tòa Đại sứ Canada tại Việt Nam nên tiếp cận và hỗ trợ những tổ chức quần chúng độc lập, đặc biệt là những nhóm chủ trương cải cách xã hội, cải cách luật pháp, và nhân quyền. Ngoài ra, việc tiếp xúc với những nhà bảo vệ nhân quyền và thân nhân của những người đang bị tù cũng là điều hữu ích. 3. Tập trung vào cải cách luật pháp: Chính phủ Canada có thể đòi hỏi việc hủy bỏ các Điều 79, 88, và 258 của bộ luật hính sự; và các Nghị Định 72, 92, và 174. Viên chức tòa Đại Sứ Canada nên yêu cầu được tham dự các phiên tòa chính trị và nhấn mạnh rằng chính phủ Việt Nam cần tôn trọng các quyền hội họp, quyền tự do ngôn luận, và quyền thành lập những tổ chức dân sự. 4. Kết hợp quyền con người vào mối quan hệ song phương nói chung: Chính phủ Canada có thể kết hợp cải cách luật pháp và tự do internet vào chương trình nghị sự về phát triển giáo dục đại học và thương mại với Việt Nam, xây dựng lộ trình liên kết cải thiện nhân quyền với việc thắt chặt quan hệ kinh tế và an ninh; và tiếp tục nêu vấn đề nhân quyền trong tất cả những lần thăm viếng Việt Nam của cơ quan lập pháp và hành pháp. ##### Trong nhiều năm qua, cộng đồng quốc tế, đặc biệt là chính phủ và nhân dân Canada, đã hỗ trợ cho nhân quyền tại Việt Nam. Chúng tôi xin cám ơn quí vị về tất cả những gì quí vị đã làm. Chúng tôi tin tưởng rằng một nước Việt Nam tự do và dân chủ, nhân quyền được tôn trọng, là điều lợi ích nhất cho khu vực Đông Nam Á và xa hơn nữa. Chúng tôi kêu gọi sự hỗ trợ của quí vị trong việc mang lại nhân quyền và dân chủ cho đất nước chúng tôi, để Việt Nam có thể trở thành một đối tác mạnh và đáng tin cậy cho một Đông Nam Á thịnh vượng và an toàn. Xin một lần nữa cám ơn quí vị cho phép tôi được có mặt ngày hôm nay và mong được cùng làm việc với quí vị trong tương lai. Theo http://www.viettan.org/%C4%90ieu-Tran-Ve-Tinh-Hinh-Nhan-Quyen.html
......

Hội nghị RightsCon về tự do ngôn luận và tự do internet

VRNs (27.03.2014) -Sài Gòn- Gần 500 tham dự viên của các tổ chức xã hội dân sự, các kỹ sư, các nhà hoạt động nhân quyền, các công ty phần mềm nổi tiếng trên thế giới và đại diện chính phủ của hơn 40 quốc gia đã nhóm họp tại  Manila, Philippines từ ngày 24-25/3 trong Hội Nghị RightsCon năm nay, nhằm cổ võ cho tự do Internet và tự do ngôn luận trong khu vực Đông Nam Á. Mục đích của Hội nghị nhằm đưa ra những phương cách bảo vệ tự do ngôn luận và quyền sử dụng cho người dùng internet. Hội nghị lần này do công ty Access đứng ra tổ chức chính và đồng tổ chức có công ty EngageMedia và Foundation Media Alternatives. Trong bối cảnh thời đại kỹ thuật số và xã hội dân sự đang phát triển, Hội Nghị RightsCon hướng đến các mục tiêu sau: . Hướng dẫn và trợ giúp quyền cho những người sử dụng internet đặc biệt trong bối cảnh Đông Nam Á là vùng xã hội dân sự chưa phát triển cao, cách riêng tại Việt Nam. . Hội nghị RightsCon tạo cơ hội cho các tổ chức dân sự bày tỏ ý kiến và chia sẻ câu chuyện của mình với các tham dự viên khác, nhờ đó thế giới biết rõ hơn tình hình về tự do ngôn luận trong đất nước của mình. . Về phía các công ty phần mềm thế giới sẽ biết rõ hơn về những thách đố mà họ phải đối mặt, nhờ đó họ sẽ cải tiến những sản phẩm của mình để đáp ứng những nhu cầu cho người sử dụng. . Các tổ chức nhân quyền và trợ giúp luật pháp hướng dẫn và hỗ trợ cho những nhà hoạt động dân sự trong khu vực của mình. . Cuối cùng Hội Nghị đề ra các chiến lược hợp tác giữa các nhóm với nhau trong khu vực để hướng đến một xã hội dân chủ và bảo đảm quyền cho người sử dụng internet hơn . Trong số tham dự viên đến từ Việt Nam có đại diện của tổ chức dân sự “Bầu Bí Tương Thân”; Hội Anh Em Dân Chủ và Truyền Thông Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam. Ngoài ra trong nhóm người Việt lưu tâm đến tình hình tự do ngôn luận tại Việt Nam còn có đại diện của Việt Tân, đài RFA, Chân Trời Mới…. Trong gần 100 đề tài khác nhau liên quan đến tực do ngôn luận và tự do internet có phần trình bày của nhóm Việt Nam về đề tài “Dân Báo Việt Nam”. Trong phần này bà Libby Liu, Tổng Giám Đốc Đài Á Châu Tự Do, là người điều phối chính. Đại diện truyền thông Chúa Cứu Thế Việt Nam, Lm Giuse Trương Hoàng Vũ trình bày tổng quát về sứ mạng truyền thông của website: chuacuuthe.com. Sứ mạng loan báo Tin Mừng là sứ mạng ưu tiên của trang web này. Trong khi thi hành sứ mạng ấy, trang web liên đới với những hoạt động của xã hội dân sự và là tiếng nói vừa trung thực vừa đa chiều nhằm phát triển một xã hội lành mạnh, giúp phát  triển nhân quyền và tôn trọng phẩm giá con người. Tuy nhiên khó khăn mà trang web này đối mặt là người sử dụng rất khó truy cập để tiếp cận thông tin. Ngoài ra tổ chức dân sự “Bầu Bí Tương Thân”, nhóm Anh em Dân Chủ cũng đã chia sẻ câu chuyện của mình về những khó khăn trong khi hoạt động. Ông David Kaye, Đặc Phái Viên Liên Hiệp Quốc về Tự Do Nhân Quyền có trụ sở chính tại Thụy sĩ đã lắng nghe và thấu hiểu về tình hình tự do nhân quyền tại VN, cũng như những khó khăn mà các anh em này đã gặp phải. Với tư cách là đặc phái viên LHQ về tự do nhân quyền, ông rất muốn đến VN để đàm phán với Chính Phủ VN về tự do nhân quyền nhưng phía VN chưa có lời mời chính thức. Các tổ chức tham dự Hội Nghị RightsCon hứa sẽ giải đáp và khắc phục cho chúng ta về những vấn đề sau: Làm sao để giữ bí mật thông tin khi trao đổi với nhau trên internet? Đây là một khó khăn cho giới hoạt động nhân quyền chưa có cơ hội được tiếp nhận những khóa học về kỹ thuật bảo mật internet. Ông Gary Garriott, Giám đốc của tổ chức Internews, một tổ chức chuyên bảo mật thông tin, có trụ sở đặt tại Washington, DC hứa sẽ hỗ trợ những khóa học cho những người hoạt động nhân quyền tại Việt Nam nhằm bảo đảm khá tuyệt đối những thông tin trao đổi với nhau trong giới hoạt động thông qua phần mền bảo mật Martus. Đây là một phần mềm ưu việt nhất hiện nay nhằm bảo vệ những thông tin cách tuyệt đối khi được chia sẻ cho nhau dựa trên nguyên lý “hai chìa khóa”. Đây là một cơ hội cho những  người đang hoạt động nhân quyền muốn trao đổi thông tin cho nhau trong một đất nước mà những thông tin dễ dàng bị kiểm soát. Chúng ta có thể liên lạc với ông để được hướng dẫn và trợ giúp qua địa chỉ email: ggarriott@internews.org hoặc skype: ggarriott Làm sao biết được thông tin của mình đã bị kiểm soát và cách nào để khắc phục? Ông Damar Juniarto, giám đốc công ty Safenet (bảo mật Internet) có trụ sở đặt tại Jakata, Indonesia sẽ hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho những ai muốn học hỏi thêm vấn đề này. Chúng ta có thể truy cập vào website của công ty (web: id.safenetvoice.org) để tìm hiểu, hoặc liên lạc trực tiếp với anh kỹ sư Duren Tiga Ray qua địa chỉ email info@safenetvoice.org để được hướng dẫn. Về mặt pháp lý trong việc thông tin của chúng ta bị đánh cắp trên internet thì sao? Chúng ta có thể nhờ đến những tổ chức trên thế giới bảo vệ cho chúng ta về mặt luật pháp. Ông Peter Noorlander hiện là Giám đốc điều hành tổ chức Media Legal Defence Initiative, một tổ chức chuyên hỗ trợ pháp lý cho hoạt động truyền thông có trụ sở chính đặt tại London. Nếu thông tin của chúng ta bị đánh cắp, chúng ta có thể nhờ đến luật pháp quốc tế lên tiếng bảo vệ cho chúng ta. Chúng ta có thể liên lạc trực tiếp với ông qua địa chỉ email: peter.noorlander@mediadefence.org hoặc nói chuyện trực tuyến qua địa chỉ skype: peter.noorlander.mldi Pv. VRNs Theo chuacuuthe.com
......

Hoa Kỳ Đang Bỏ Trung Đông ? Bỏ Do Thái ?

Ngoài các căn cứ hải quân Mỹ đang đóng ở hai bờ tây và đông Hoa Kỳ, chúng ta thấy rằng đa số các căn cứ hải quân  Mỹ tập trung nhiều quanh vùng vịnh Persian . Đây là điều hợp lý vì nhu cầu gia tăng dầu khí thế giới sau Thế Chiến Hai tăng cao vùn vụt và Mỹ cũng hòa nhịp với thế giới thi nhau hút nguồn dầu thô coi như 'vô tận' tại Trung Đông .   Hoa kỳ cũng như các cường quốc kinh tế đều biết rằng 2/3 trữ lượng dầu và 1/3 trữ lượng khí đốt đều trong tay vài nước quanh vùng Vịnh (Persian Gulf) . Chúng ta không lạ gì các tổ chức bảo vệ quyền lợi các quốc gia có dầu tại Trung Đông ra đời mà OPEC là tổ chức cuối cùng . Và điều dễ hiểu các căn cứ hải quân đa số đều đóng quanh vùng vịnh cùng sự bố trí của Đệ Ngũ Hạm Đội Mỹ tại đây . logo 5th Fleet & bản đồ trách nhiệm của Hạm Đội 5 Hoa Kỳ Sự phát triển kinh tế thế giới sau thời kỳ Chiến tranh Vn (Vietnam War) và sau Chiến Tranh Lạnh (Cold War) cho chúng ta thấy sự xuất hiện một cường quốc kinh tế hàng chế xuất (Manufacturing Economy ) là Trung Hoa và sự tiêu thụ dầu thô ào ạt từ quốc gia này cũng không lạ gì cho tuyến dầu thô đậm nét từ Vùng Vịnh tới Đông Nam Á , xuyên qua Biển Đông là có giá trị hàng hóa lớn nhất trong giá trị hơn 5 ngàn tỷ mỹ kim qua vùng biển này .       Giá dầu từ 1987 đến nay MỌI SỰ THAY ĐỔI VÌ DẦU Từ cuối năm 2014 cho đến hôm nay tháng giêng 2015 giá dầu thô tiếp tục trụt giá trầm trọng . Theo CƠ Quan Dự Đoán Năng Lượng Quốc Tế IEA (International Energy Agency’s World Energy Outlook)thì Mỹ sẽ vượt Ả Rập về nguồn cung dầu vào năm 2020 và tự túc hoàn toàn về năng lượng vào năm 2030 dựa vào các yếu tố: -canh tân kỹ thuật khoan dầu trong nước -tăng mức xử dụng nguồn lợi khổng lồ về phiến dầu (shale oil) -ứng dụng các nguồn năng lượng thay thế như biogas , ethanol , solar eneggy 1 mỏ lộ thiên khai thác phiến dầu Shale oil tại Colorado MỹDầu phiến của Hoa kỳ ước lượng dự trữ tới 1500 tỷ barrels dầu-- nhiều gấp 5 lần dầu phiến của Arab Saudi Những điều này, theo IEA có thể hạ giảm tới 90% mức nhập dầu từ Trung Đông sang Mỹ  ngoài trừ các đầu mối cung cấp gần như Canada, Venezuela và các nước gần nơi có giá dầu thô hạ nhất do khoảng vận chuyển quá gần làm giá dầu nhập không thể nào cao được . Bao lâu nay giá dầu cao do tuyến vận chuyển dầu đường dài nay giá dầu hạ không làm thiệt hại kinh tế Mỹ nhưng lại là sự thiệt hại cho các nước khối OPEC , Trung Đông hiện nay không nước nào chịu giảm sản lượng để nâng giá dầu . Theo IEA , họ tiên đoán rằng các nước Á Châu trong tương lai gần sẽ theo bước Hoa Kỳ giảm tới 90% dầu nhập từ Trung Đông , rất dễ hiểu họ sẽ mua dầu từ Nam Mỹ ngay cả từ Hoa Kỳ vì cước phí vận chuyển gần hơn . ÂU CHÂU không huởng lợi gì từ giá dầu hạ khi mức thất nghiệp tăng cao cùng nguồn thu hạ của Trung Đông sẻ giảm mức nhập hàng từ các nước này trong lúc kinh tế EU chưa vực lại . CHUYỆN KHÔNG ĐƠN GIẢN LÀ GIÁ DẦU HẠ Khi cái túi dầu Trung Đông không còn quan trọng đối với Mỹ thì các lực lượng quân sự Mỹ tại Trung Đông sẽ giảm vai trò CẢNH SÁT đối với các mỏ dầu và tuyến dầu quan trọng tại đây sẽ làm lung lay sự cân bằng,  lấy thí dụ Eo Biển Hormuz ( Strait of Hormuz ) không còn bóng dáng hải quân Mỹ .  Gần hai nhiệm kỳ của tt Barack Obama nếu để ý chúng ta thấy mối liên hệ Mỹ -DO thái , Mỹ -A Rập Saudit mờ nhạt dần.  Ví dụ đối với Do Thái, chính quyền Obama đã mô tả Netanyahu  như sau " ngoan cố, cận thị, phản động, chậm hiểu, hăm dọa, rình rang, ... "( Jefrey Godlberg, The Crisis in U.S.-Israel Relations Is Officially Here ) chẳng qua là khối dầu Trung Đông dần dà không là vấn đề "chết sống" đối với nền kinh tế Hoa Kỳ! Netanyahu - Obama   Nước Mỹ hàng năm tốn nhiều tỷ đô la cho an ninh Do Thái " cho người xung kích năng hoạt nhất "  mỗi khi khoảng trống quân sự của Mỹ xảy đến cho Vùng Vịnh thì Do Thái là người thiệt hại thứ Nhất . VÀ NHỮNG THÁCH THỨC CHO TRUNG CỘNG KHI MỸ RÚT KHỎI TRUNG ĐÔNG ? Mỹ đang có khối dầu an toàn sẵn sàng cho Nhật và Nam Hàn nhưng các nước Đông Á sẽ là những kẻ thiệt hại thứ hai khi Mỹ rút khỏi Trung Đông .  Tương tự Kênh Đào Suez bắt đầu mở cửa vào tháng 11 năm 1869; chúng ta tưởng cũng nên nhắc lại một ít về quá khứ của Kênh Đào Suez, trước tiên thuộc quyền kiểm soát của Pháp sau Anh quốc nắm quyền do sự cần vốn của Ismail người muốn canh tân Ai Cập nên Anh quốc đã thắng quyền làm chủ  . Nhiều cuộc chiến đã xảy ra suốt hai trận thế chiến và sau thế chiến Hai có liên quan đến kênh đào này mãi cho đến năm 1962 Ai Cập mới có toàn quyền cai quản nó . Kể từ thế kỷ 17 sau gần 2 thế kỷ Hoa kỳ lập nên chế độ cộng hòa, nước Mỹ không liên quan gì đến vùng này cho đến Thế chiến Hai. Khi nước Mỹ trổi dậy với nhu cầu to lớn về dầu hỏa  thì không ai hất nỗi chân Mỹ ra khỏi vùng dầu Trung Đông cho đến hiện nay là thời điểm nước Mỹ "tự động rút lui " . Ai sẽ thay thế Mỹ làm người 'Cảnh Sát' tại vùng Vịnh hay canh giữ eo biển Hormuz , cùng ngay cả kênh đào Suez thay thế Mỹ ngoài Trung Cộng ?   Tại sao chúng ta nghĩ Trung Cộng ? Đường màu xanh chỉ tuyến dầu qua Trung Cộng đến từ vùng Vịnh   Trung Cộng là nước mua dầu nhiều từ Trung Đông hiện tại thì phải gánh lấy vai trò này nếu không muốn nền kinh tế chế xuất chết cứng vì không có dầu . Nhìn vào lực lượng hải quân của Trung Hoa hiện tại chưa đủ sức bảo vệ bờ biển của họ thì điều này là bất khả thi trừ Mỹ . Tương lai Mỹ sẽ trở thành người bán dầu, nhưng hiện tại các nước Đông Á đang lệ thuộc dầu từ Vịnh Persian là chuyện thực tế trước mắt .   Tiếp đến khi nước Mỹ độc lập về năng lượng , hay nói cách khác khi cái "ô quân sự " tại Vùng Vịnh của Mỹ rút lui sẽ có người MẤT RẤT LỚN đó là các vương quyền tại Trung Đông đang sở hữu trong tay nguồn DẦU -ĐÔ LA và lệ thuộc vào quân sự Hoa kỳ nhất là hải quân  .Chúng ta chứng dẫn cụ thể là vương quyền Saudi Arabia, Morocco, Jordan, Kuwait, Bahrain, the UAE, Qatar and the Sultanate of Oman trong đó giàu mạnh nhất là Arab Saudi.Bản đồ có gạch chéo là các vương quyền A Rập Chúng ta sẽ chứng kiến người dược lợi nhất là IRAN vì không còn sự đe dọa của lực lượng hải quân Mỹ tại đây. Iran hơn bao giờ hết ước mơ là một cường quốc Hồi Giáo hạt nhân tại vùng Vịnh . Mong muốn này bao lâu nay bị Tây phương nhất là Mỹ ngăn chận . Tuy thuộc Hồi giáo nhưng Iran đa số theo hệ Shiite khác với Arab Saudi theo hệ pháo Sunni . Sự trổi dậy của Quốc Gia Hồi giáo Cực Đoan ISIS là một vấn đề thách thức lớn cho vùng Trung Đông khi Mỹ để lại khoảng trống lớn tại đây. Giáo chủ tối cao Iran : Ali Khamenei. Chấp giáo  4 June 1989, quyền hành cao hơn cả tổng thống Iran. NGƯỜI DÂN MỸ SẼ LÀ QUYẾT ĐỊNH Theo Bloomberg News 25-1-2015, có tới 45 trong 53 kinh tế gia Hoa kỳ cho rằng kinh tế Hoa kỳ đang trên đà hồi phục với những tín hiệu giảm lạm phát cùng tín hiệu Quỹ Dự Trữ Liên Bang FED Mỹ sẽ tăng phần trăm tiền lời trở lại vì cho la `nước Mỹ đã qua khủng hoảng kinh tế . MỖI KHI người dân Mỹ thấy được lợi ích từ giảm thiểu tốn phí thuế để nuôi đội quân hải ngoại tại Trung Đông, khi giá dầu rẻ đang thúc đẩy công ăn việc làm thêm và sự tiêu dùng tại quốc nội thì sự quyết định của cử tri sẽ là ' DẤU CHẤM HẾT ' cho vai trò của Mỹ tại Trung Đông . Từ điểm này, ai hay nghĩ đến thời cuộc sẽ hình dung vai trò ai là kẻ bắt buộc nhảy vào cuộc chơi thế chân Mỹ tại Trung Đông ? Liệu bao nhiêu chiếc 'Liêu Ninh' này mới ngang hàng với Hạm Đội 5 của Mỹ ? Hãy để cho Trung Cộng đem QUÂN GIẢI PHÓNG TRUNG HOA CÙNG CHIẾC HÀNG KHÔNG MẪU HẠM LIÊU NINH ' hàng phế thải' qua trấn giữ eo biển Iran và Vịnh Persian vì Tàu là kẻ dùng dầu nhiều nhất hiện nay ? Qua mấy mươi năm 'đổi mới ' từ thời hậu Mao tức là Đặng tiểu Bình , Tàu là kẻ thừa huởng mối lợi do lực lượng quân sự Mỹ trấn giữ Trung Đông để tha hồ mua dầu  nhưng không ' trả xu nào ' cho Mỹ ?  TIẾN THỐI VẠN NAN CHO VIỆC 'DĨ LỠ ' thế "leo lưng cọp " TẠI BIỂN ĐÔNG    Nếu Trung cộng gia tăng sự có mặt hải quân tại Trung Đông thì 'lực lượng răn đe' tại Biển Đông và Đông Bắc Á sẽ thưa đi. Nhưng muốn có dầu thì phải ít nhiều gì phải có lực lượng thế Mỹ tại vùng Vịnh, một thực tế mà Trung Cộng hoàn toàn chưa có đủ ngoài trừ lực lượng dọa nạt CSVN tại Biển Đông hay hù dọa các nước Đông nam Á thôi. Không có cái gì VĨNH CỮU kể cả chuyện SỐNG NHỜ TRÊN XƯƠNG MÁU KẺ KHÁC . DÒNG KẾT NGẮN GỌN Sự Hạ giá dầu , và VAI TRÒ RÚT LUI CỦA LỰC LƯỢNG MỸ tại Trung Đông là những  gì phải đến khi Mỹ trở về một chuyện tính trước từ thế kỷ 20 là    * KHAI THÁC DẦU KHÍ NỘI ĐỊA HOA KỲ     *định hình lại một nền kinh tế không lệ thuộc vào dầu nhưng lệ thuộc vào cuộc CHẠY ĐUA KỸ THUẬT CHO THẾ KỶ 21   Đây chưa hẳn hoàn toàn là một 'GAME CHƠI ' của Mỹ đối với Nga, Trung đông, EU, kể cả Tàu mà đây là một giai đoạn trong  chuỗi CHIẾN LƯỢC KINH TẾ CHÍNH TRỊ LIÊN THẾ KỶ mà các đầu não chính trị Hoa kỳ ( think tank ) tính trước . Chỉ tiếc cho các chế độ THIẾU VIỄN KIẾN, hay nhìn cái lợi trước mắt (theo lối "trực quan"), đến nay đang và sắp bước vào rối loạn. DHL -BA SOCIAL SCIENCE SJSU
......

Thế Giới Trong 10 Năm Tới (2015-2025)

Viện nghiên cứu Stratfor sắp cho ra bản dự báo về thế giới trong 10 năm tới, từ 2015 đến 2025. Viện chỉ làm việc này mỗi 5 năm một lần và có một video ngắn 6.5 phút để giới thiệu tóm lược. Dưới đây là phần hỏi đáp giữa ông David Judson, chủ bút Strafor và ông George Friedman, chủ tịch Stratfor. David Judson: Hi, tôi là David Judson, chủ bút tờ Stratfor. Hôm nay với tôi là George Friedman, người sáng lập và là chủ tịch của chúng tôi, và những gì chúng tôi muốn nói đến là điều chúng tôi không làm thường xuyên. Đây là dự báo 10 năm mà chúng tôi làm mỗi 5 năm. Từ nay đến năm 2025 sẽ có một số nguời ở đây xoay đầu ngạc nhiên, George. Các lực lượng ly tâm ở Nga có vẻ như đảo ngược, trong ý nghĩa so với những gì chúng ta đã thấy cách đây 5 năm, cuối cùng sẽ dẫn đến sự đối đầu về vũ khí hạt nhân, không nhất thiết là một sự đối đầu về vũ khí này, mà là một cuộc khủng hoảng về việc quản lý nó. Sự suy yếu biên cương quốc gia ở Trung Đông liệu có chấm dứt - có phải Sykes-Picot đang chết (thoả hiệp bí mật Anh-Pháp chia Trung Đông trong Thế Chiến I) - trong khi ngược lại biên cuơng quốc gia ở châu Âu lại mạnh lên. Những gì chúng ta gọi là PC-16 (16 nước hậu Trung Quốc), sự khuếch tán công nghiệp sản xuất cấp thấp của TQ vào các nước khác. Và cuối cùng tôi nghĩ ngạc nhiên lớn ở đây là Đức và Ba Lan. Ông dự báo rằng đây là khởi đầu của một sự suy yếu lâu dài của Đức và sự trừng lên của Ba Lan. Ông có thể nói về điều này một chút? George Friedman: Vâng, Đức hiện đang xuất khẩu 50% của GDP. Năm 1990 Đức xuất khẩu dưới 24%. Cho nên, khi Đức phát triển, xuất khẩu đã tăng mạnh. Nhưng nó không bền vững. Nó không bền vững vì khả năng xuất khẩu phụ thuộc vào sức khỏe kinh tế của các khách hàng. Và châu Âu không khỏe. Nhưng ngay cả khi châu Âu khỏe mạnh, thì khả năng cho một nền kinh tế lớn thứ tư trên thế giới để giữ địa vị này bằng cách dựa vào xuất khẩu đến 50% GDP của nó thì không bền vững. Điều đó, cùng với thực tế là dân số của Đức bắt đầu co cụm lại, dù không phải là điều quan trọng, nhưng nó thực sự có nghĩa là Đức đang lên tới đỉnh cao quyền lực của mình. Đức không thể duy trì điều này lâu dài được. Trong khi đó, nuớc bạn bên cạnh là Ba Lan, đã có một quá trình kinh tế khá đáng kể, đặc biệt là từ năm 2008 đến nay khá tốt. Dân số Ba Lan duy trì sự ổn định và trên đồng bằng Bắc Âu, với Nga suy yếu nghiêm trọng và Đức đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng, Ba Lan nằm ở giữa không những là một quốc gia trong hình dạng tốt, nhưng còn phát triển mối quan hệ đặc biệt với Hoa Kỳ. David: Đi nhanh qua một vấn đề khác, các nước mà chúng ta tạm gọi là PC-16, nó nhận sự khuếch tán các nền tảng công nghiệp của Trung Quốc mà ông cho rằng sẽ tiến nhanh trong thập kỷ tới. George: Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hầu như luôn luôn là dựa vào mức lương thấp và nền kinh tế tăng trưởng cao. Trong những năm 1880s và 1890s là Hoa Kỳ. Sau chiến tranh là Nhật Bản, Trung Quốc thay thế Nhật Bản. Bây giờ Trung Quốc không còn là một nền kinh tế tăng trưởng cao. Nó giảm tăng trưởng. Nó đạt đến trạng thái bình thuờng mới. Cho nên câu hỏi là nơi nào nó sẽ đi. Chúng tôi nhận diện được 16 nuớc mà sự tăng trưởng này đã bắt đầu diễn ra. Thật thú vị. Nó chung quanh vùng trũng Ấn Độ Dương, nhưng cũng bao gồm các nước mà bạn không nghĩ đến như Đông Phi - Ethiopia, Uganda, Kenya, và Tanzania. Đây là những quốc gia đang trải qua một số thay đổi khá đáng ngạc nhiên, nhưng cũng bao gồm Đông Nam Á và một số nước ở châu Mỹ Latin. David: Khái niệm về cái chết của Sykes-Picot, của quốc gia đang được thay thế bởi chủ nghĩa phe phái. Và chúng ta thấy gần như hàng ngày, nhưng ông dự đoán rằng điều này như một loại bình thường mới. George: Chúng ta đã nhìn thấy sự tan rã của quyền lực Syria, của đất nước Syria. Đã có các loại nhà nước xuất hiện trên một phần của nó. Iraq hiện nay đã tan rã. Thống đốc Baghdad có rất ít quyền lực. Các phe phái đang nắm quyền lực. Chúng ta cũng đang nhìn thấy điều này ở Libya. Chúng ta không biết liệu nó sẽ lây lan sang phần còn lại của bán đảo Ả Rập, Ai Cập, Algeria. Nó có thể tự giới hạn lại, nhưng chúng ta chắc chắn đã nhìn thấy rằng các quốc gia được xây dựng lên bởi các đế quốc châu Âu sau Thế chiến I đã không chỉ không còn chức năng, nhưng đại loại không còn tồn tại. Và những gì thay thế nó là các phe phái nhỏ, không thể bị tiêu diệt, và không thể tiêu diệt các nhóm khác. David: Tôi sắp kết thúc, bởi vì chúng ta không nói về Hoa Kỳ nhiều trong Stratfor. Nhưng dự báo này thì có. Và nó kết luận là sự khủng hoảng sắp tới của tầng lớp trung lưu. George: Vâng, nó không phải là một cuộc khủng hoảng của sự bất bình đẳng, như nhiều người muốn gọi nó. Nó chỉ đơn giản là một cuộc khủng hoảng thu nhập. Thu nhập trung bình của hộ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu bây giờ là $50.000 một năm. Sau khi trừ các loại thuế, sống ở bên ngoài các khu đô thị lớn, nó sẽ còn khoảng $40.000 một năm. Với $40.000 một năm, bạn có thể mua một ngôi nhà rẽ tiền, có lẽ là một chung cư. Bạn có thể có một chiếc xe hơi. Bạn có thể có một cuộc sống tối thiểu. Giới trung lưu nằm duới không còn có thể có được điều đó. Cho nên, chúng ta đã đi đến cái điểm trong xã hội Mỹ, nơi mà những điều người Mỹ hy vọng sẽ có được nếu họ làm việc, đang bị gạt ra ngoài. Tầng lớp trung lưu với thu nhập trung bình hiện nay chưa đi đến độ đó. Nhưng cách mà mọi thứ đang chuyển dịch, nó sẽ đến. Vì vậy, chúng ta đang đi về phía mà tôi gọi là chu kỳ mỗi 50 năm của cuộc khủng hoảng ở Mỹ, lần cuối cùng là vào những năm 1970s và lên tới đỉnh điểm trong cuộc bầu cử tổng thống Ronald Reagan. Và trong những năm 2020s chúng ta sẽ chứng kiến cuộc khủng hoảng tăng tốc cho tầng lớp trung lưu, liệu họ thể sống giấc mơ Mỹ của mình. David: Rất nhiều thách thức hướng tới năm 2025. Chúng tôi sẽ xuất bản dự báo này, cứ 5 năm một lần nếu có thể gọi nó như vậy, vào thứ Hai 23/2. Hãy tham gia cùng chúng tôi vào thứ Hai và chúng tôi sẽ chia sẻ những thông tin chi tiết. Cảm ơn rất nhiều cho thời gian của ông, George. George: Cảm ơn (Lê Minh Nguyên dịch - 20/2/2015) www.goo.gl/7V4hl8
......

Người Trung Quốc thống trị thủ đô thời trang của Ý

FLORENCE, Ý (NV) - Ngành kỹ nghệ dệt may nổi tiếng của Ý đang đổi thay thấy rõ khi hàng ngàn người Trung Quốc lũ lượt kéo đến định cư tại thị trấn Prato, nằm gần thành phố Florence. Theo MarketPlace.org, họ mua lại các doanh nghiệp của người địa phương để bắt đầu sản xuất hàng đóng nhãn “Made in Italy.” Người Trung Quốc làm việc trong ngành thời trang ở Prato, Ý. (Hình: Fabio Muzzi/AFP/Getty Images) Khoảng 4,000 xưởng may của người Trung Quốc tại Prato đang sản xuất chừng 1 triệu áo quần mỗi ngày. Nhu cầu sản xuất hàng loạt với gia công giá rẻ gọi là “thời trang nhanh,” khiến các công nhân làm việc chen chúc trong các xưởng may phải cố chạy theo cho kịp. Ông Xu Lin, chủ xí nghiệp may người Trung Quốc đóng trụ lâu năm ở Prato, nói không có người Trung Quốc vào đây tình hình sẽ tệ hại hơn nhiều. Ông Lin tiếp: “Người Trung Quốc mua len của Ý từ các công ty tại đây. Người Trung Quốc cũng tạo việc làm cho người Ý một khi ngành thời trang nhanh tăng trưởng mạnh.” Sự kiện này có thể gây tổn thương đến niềm kiêu hãnh của người dân địa phương khi người Trung Quốc sản xuất đồ thời trang nhanh hơn người Ý. Hậu quả, giá thành bị kéo xuống thấp hơn chỉ mới là một phần của vấn đề, áo quần do người Trung Quốc sản xuất tại đây đóng nhãn “Made in Italy” dễ đánh lận con đen với hàng thời trang truyền thống của Ý. Cô Lu Chen, người mẫu sống lâu năm ở Milan, nói rằng về phương diện thiết kế thời trang thì hiện thời người Trung Quốc thiếu óc sáng tạo, mà chỉ sở trường về bắt chước. Cô Chen nói cô không nghĩ họ có khả năng như người Ý để thăng tiến hơn về thời trang. (TP) Theo nguoi-viet.com
......

Nước Đức, 25 năm sau ngày bức tường Berlin sụp đổ

Bức tường Bá Linh được dựng lại bằng hàng ngàn những chiếc đèn lồng trắng , là một phần của dự án "Lichtgrenze 2014" để kỷ niệm 25 năm sự sụp đổ của Bức tường Bá Linh ngày 09 Tháng 11 năm 2014 - AFP Bức tường Bá Linh Đêm 13 tháng 8 năm 1961, tại Bá Linh, một bức tường dài 156 km được dựng lên chia đôi 2 miền ý thức hệ. Bức tường đã giam cầm sự tự do của hơn 3 triệu người dân ròng rã 28 năm. Mảng tối của hàng triệu cư dân Đông Đức chỉ thực sự được phơi bày sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ ngày 9 tháng 11 năm 1989. 25 năm trôi qua, sau ¼ thế kỷ thống nhất, nước Đức còn, mất những gì, người dân của xứ sở Karl Marx và Einstein này thua thắng ra sao ở buổi chung cuộc? Mặc dầu trong một sớm một chiều, 40 triệu người dân Tây Đức đã phải cưu mang thêm 18 triệu người dân Đông Đức, thế nhưng, tinh thần dân tộc đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn ban đầu để vực dậy nền kinh tế và đưa nước Đức thành một quốc gia cường thịnh như hôm nay. Ông Lê Nam Sơn, ngụ tại thành phố Hannover nói :“Trước đó, cuộc sống bên Tây Đức rất là dễ dàng, thoải mái. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, toàn nước Đức thống nhất thì nói chung cuộc sống không khá như trước. Nhưng để bù lại, cả một nước Tây Đức họ đã vực dậy phần còn lại bên Đông Đức và sánh ngang hàng với các nước Châu Âu. Nhưng người lãnh đạo của nước Đức có cái viễn kiến và họ đã đưa nước Đức lên ngang hàng với các nước Tây Âu, chuyện đó không phải là dễ.” Theo chị Thục Quyên ở Munchen, đa số người dân Đức hài lòng với cuộc thống nhất đất nước. Họ đặt tinh thần dân tộc lên trên mọi khác biệt để xây dựng đất nước. Chị Thục Quyên nói :“Có khoảng 70% dân chúng đánh giá là cuộc thống nhất của đất nước họ từ tốt đến rất tốt. Phần lớn dân chúng rất là bằng lòng với tình hình chính trị và xã hội của đất nước họ. Điểm son của dân tộc Đức là tuy họ đã sống dưới 2 thể chế chính trị đối ngược với nhau trong hơn 40 năm trời nhưng người dân Đức vẫn có lòng tin tưởng ở tình anh em, tình dân tộc của họ. Và cái rất là hay là họ rất là sáng suốt, họ đã tách cái đảng Cộng sản của Đông Đức ra, là cái chính quyền phải chịu trách nhiệm. Người dân Tây Đức Tự do và người dân Đông Đức đã dẹp bỏ được những nghi kỵ với nhau, và vì vậy họ mới bắt được tay với nhau và làm việc.” Thực vậy, dưới sự điều hành của Thủ tướng Merkel và Tổng thống Gauck, cả 2 đều xuất thân từ Đông Đức, nước Đức đã trở thành một nền kinh tế đứng thứ tư trên thế giới và là đầu tàu của nền kinh tế Âu châu. Từ Hannover, ông Lâm Đăng Châu nói :“Đa số người dân 2 miền Đông Tây sống hoà thuận. Chính trị Đức ổn định, kinh tế Đức cho đến bây giờ rất ổn định, coi như là vững mạnh nhất ở Âu châu bây giờ.” Bức tường đổ và sự hãnh diện của người Đức Nhìn vào sự cư xử của người dân Đức, theo ông Nguyễn Đình Tâm ở Bá Linh thì người ta có cảm tưởng hình như chưa hề có một bức tường nào ngăn cách giữa người dân Đông và Tây Bá Linh trước và sau năm 1961. Ông nói :“Hồi đó, bức tường chưa sập nhưng vẫn có những người bên Đông Đức sang bên này để gặp bà con. Chính quyền Tây Đức còn tặng cho những người dân Đông Đức 100 Đức Mã. Rồi đến khi bức tường sập, thì người dân Tây Đức mở rộng vòng tay họ đón tiếp (người dân Đông Đức) như người thân thiết của họ.” Cho tới nay, người dân Đức đã phải đóng góp hàng ngàn tỷ Đức Mã để cưu mang thêm một nền kinh tế trì trệ sau gần 30 năm dưới chế độ Cộng sản. Từ Bá Linh, ông Hoàng Kim Thiên nói :“Kinh tế của Đông Đức trước 1989 thì không phát triển gì nhiều. Nhưng sau khi bức tường đổ, Tây Đức đã phải bỏ ra rất nhiều tiền. Ở Tây Đức, mỗi người dân đi làm phải đóng 7% thuế để xây dựng Đông Đức. Sau 25 năm thống nhất, kinh tế nước Đức vẫn giữ rất là vững. Thì đó là sự hãnh diện của người Đức.” Sự khác biệt về mặt vật chất đã được san bằng, còn về con người thì sao ? Theo chị Anh Đào ở Bá Linh, thì đâu đó vẫn còn sự khác biệt về tư tưởng giữa những con người của thế giới tự do và những người đã sống một thời gian dài dưới chế độ cộng sản. Chị Anh Đào nói :“Nói chung sau 25 năm, sự thống nhất của nước Đức rất là hoàn hảo. Mặc dù còn một số ít những người dân Đông Đức vẫn còn những tư tưởng của chế độ cũ, nhưng từ từ họ vẫn hoà mình với phía bên Tây Đức này.” Sự khác biệt này, theo ông Hoàng Kim Thiên dần dần cũng đã được san bằng:“Trước đây khoảng 10 năm. Thí dụ như trong hãng, xưởng, thí dụ như người Tây Đức có vẻ phóng khoáng hơn, tức là họ nghĩ gì thì họ nói đó. Còn người Đông Đức họ hơi dè dặt một chút xíu. Nhưng bây giờ, sau 25 năm qua, tôi thấy cái tinh thần đó không còn nữa.” Một điều ngoạn mục là sau một thời gian đầu tư để lấp đầy khoảng trống giữa Tây và Đông Đức. Giờ phía bên Đông Đức lại hình như vượt trội cả Tây Đức về mặt hạ tầng cơ sở cũng như chất xám. Ông Lâm Đăng Châu nói :“Trước đây người dân Đông Đức qua Tây Đức để tìm công ăn việc lắm để sinh sống. Nhưng từ năm 2013 thì ngược lại : Những người dân Tây Đức đã bắt đầu qua Đông Đức để bắt đầu xây dựng sinh sống làm ăn. Đấy là những sự phát triển rất là ngoạn mục. Nước Đức họ vui mừng thấy đó là một trong những tiến bộ.” Từ Bá Linh, chị Mỹ Lâm cũng ghi nhận những thành quả thực tế mà Tây Đức đã đóng góp cho Đông Đức:“Phải nhìn nhận rằng sự giúp đỡ của Tây Đức cho Đông Đức rất là lớn và những thành quả đó cũng thấy được, bằng chứng là ở Berlin có nhiều những bệnh viện được xây ở Đông Đức còn tối tân gấp mấy lần những bệnh viện đã có sẵn ở Tây Berlin. Hạ tầng cơ sở, đường xá, bệnh viện, trường học, nhà cửa được xây dựng lại rất là mới.” Với hàng chục ngàn người Việt đang lao động tại Đông Đức trước 1989, sự hội nhập tuy quả là không dễ dàng sau khi cánh cửa tự do mở ra, nhưng sau 25 năm , ông Nguyễn Thành Lương ở Frankfurt cũng đã ghi nhận những thành công đáng kể của họ:“Người Việt sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ chạy qua bên này (Tây Đức) thì không được hưởng những ưu đãi (như người Tây Đức lúc đó) nhưng dần dần người mình cũng chịu khó làm ăn và hội nhập. Mấy năm trở lại đây thấy họ cũng bắt đầu làm ăn đàng hoàng, không còn lối làm ăn chụp giựt trước đây nữa. Đó cũng là một thành công! Và nhất là một trong những thành công mà báo chí Đức mấy năm gần đây nói rất nhiều về sự học hành của con em người Việt mình ở bên Đông.” Được sống trong một không khí hoàn toàn tự do, từ Berlin, ông Nguyễn Duy Tân, một cựu đảng viên Cộng sản phát biểu :“Cảm nghĩ của tôi thực sự là bình an. Mọi người đều có sự công bằng trước pháp luật và trước cơ quan công quyền nhà nước. Ai cũng được quyền tự do tham gia vào việc của nhà nước. Đó là giá trị mà tôi cảm thấy may mắn, hạnh phúc được sống trong một nền Tự do.” Đó cũng là sự may mắn của ông Nguyễn Thành Lương, một thuyền nhận tị nạn ở Tây Đức khi gặp được người phối ngẫu là chị Mai, một công nhân xuất khẩu lao động ở Đông Đức. 25 năm bức tường sụp đổ là gần 25 năm mà ông Nguyễn Thanh Lương sống chung dưới một mái nhà:“Từ sự may mắn của tôi, tôi cũng chia sự may mắn đó cho nhà tôi sớm được hội nhập.” Từ sự thống nhất của một quốc gia, đến sự thống nhất của hai tâm hồm. Đây có phải là một thí dụ tuyệt vời về sự hoà giải ? Chị Mai vui cười nói :“Đấy mới là thống nhất nhỉ ???” Bên cạnh những hào quang của một nước Đức thống nhất. Đâu đó vẫn còn chập chờn những mảng xám. Sau những niềm vui hội ngộ là những sự thật trần trụi mà người dân hai miền Đông Tây của nước Đức phải đối diện và giải quyết. Xin mời quý vị xem tiếp trong phần hai. * Chiếc huy chương nào cũng có những mặt phải và mặt trái của nó. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ ngày 9 tháng 11 năm 1989, niềm vui thống nhất của người dân hai miền Đông Tây chưa trọn vẹn thì họ đã phải đối diện với những khó khăn về vật chất khi mà 40 triệu người dân Tây Đức đã phải gánh thêm trên vai cuộc sống của hơn 18 triệu dân Đông Đức với tất cả những hệ luỵ còn sót lại của 28 năm dưới chế độ Cộng sản và cả những di sản trước đó do chiến tranh để lại. Người Việt từ Đông Đức Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, gần 60 ngàn người Việt đang học tập và lao động ở Đông Đức đứng trước sự chọn lựa: tiếp tục tương lai trên nước Đức tự do nhưng mới mẻ và đầy thách thức hay trở về với chủ nghĩa Cộng sản quen thuộc tại Việt Nam với số tiền trợ giúp của chính quyền mới ? Khoảng 40.000 người Việt đã chọn con đường hồi hương với 3000 Đức Mã. Anh Nguyễn văn Mài, là một công nhân hợp tác lao động ở Đông Đức vào thập niên 80, nay cư ngụ tại Hannover kể lại:“Khi bức tường Bá Linh đổ, ai có điều kiện thì chạy sang Tây Bá Linh, tôi còn nhớ lúc đó ai qua Tây Bá Linh thì chính quyền mới cho 100 Đức Mã. Một trăm đô Mác lúc đó đối với anh em mình là to lắm. Thế là lúc đó nước Đức đổi tiền theo tiêu chuẩn 1 ăn 1, người Việt mình nói chung lúc đó là vui vẻ. Sau đó nước Đức người ta thấy hoàn cảnh công ăn việc làm khó khăn quá cho nên người ta động viên người Việt nhà mình, nếu ai muốn hồi hương thì người ta sẽ bồi thường 3000 đô Mác cho mỗi người và thế là đại đa số người Việt mình hồi hương.” Đông Đức tan rã kéo theo nhiều nhà máy phải đóng cửa, người dân Đông Đức thất nghiệp. Người dân Tây Đức đi làm phải đóng thuế vào “Quỹ Quốc Gia” để xây dựng lại một Đông Đức đầy bất trắc. Người Việt từ Đông Bá Linh chạy sang Tây Bá Linh, đa số sống chủ yếu bằng những nghề buôn bán nhỏ, bán thuốc lá lậu, cuộc sống bấp bênh, tỷ lệ tội phạm cao trong thời kỳ giao thoa này. Chị Mai, cũng hợp tác lao động ở Đông Đức, nay sống tại Frankfurt cho biết:“ Ở lại thì lúc đầu thì cũng khó khăn lắm, người ta đi kiếm việc làm, lúc đầu thì bán quần áo, sau này có phong trào bán thuốc lá lậu. Sau đó thì từ từ họ được định cư lại thì họ làm ăn cũng ổn định” Chưa đầy 3 năm sau ngày nước Đức thống nhất, người ta đã thấy manh nha những tư tưởng bài người ngoại quốc mà nạn nhân đầu tiên bị nhắm đến là những người lao động nhập cư. Điển hình là sự kiện ném bom xăng vào khu nhà ở của người ngoại quốc ở thành phố Lichtenhagen, Rostock đã gây chấn động chính trường Đức và thu hút sự quan tâm của thế giới. Anh Mài tiếp:“Khi mà bức tường Bá Linh đổ, khi mà chế độ bắt đầu thay đổi thì trong một số người Đức bắt đầu xuất hiện những tư tưởng bài xích người ngoại quốc. Những người mang tư tưởng kỳ thị họ ở bên Đông Đức, đại đa số là thanh niên. Bởi vì khi bức tường Bá Linh đổ thì không những người Việt nhà mình thất nghiệp mà ngay cả người Đức cũng bị thất nghiệp, vì vậy họ cho rằng là do những người lao động ở Đông Đức là nguyên nhân khiến cho họ không có việc làm.” Những khác biệt về tư tưởng Đông và Tây Sau 25 năm xây dựng và phát triển, sự cách biệt giàu nghèo giữa Đông và Tây Đức hầu như đã không còn. Thế nhưng, đâu đó vẫn còn một khoảng trống chưa thể lấp đầy, đó là sự khác biệt về tư duy, về cách hành xử của người dân Tây Đức, quen sống thoải mái tự do và người dân Đông Đức, hình như vẫn chưa thoát ra được cái bóng của chế độ Cộng sản vẫn còn đeo đuổi. Chị Anh Đào ở Bá Linh nhận xét:“Hai tư tưởng khác nhau, mặc dù ở xứ tự do này, nhưng những người bên Đông Đức vẫn còn lập trường bị gò bó. Còn bên Tây Đức mỗi người đều có 1 tư tưởng, thành ra mình rất là thoải mái khi mình nói chuyện, nhưng khi mình nói chuyện với anh chị em bên Đông Đức; ngay cả tới bây giờ cũng vậy, họ nói cái gì cũng rất là dè dặt.” Hàng chục năm sống dưới chế độ bao cấp, anh Mài cho biết không khỏi bỡ ngỡ khi phải hội nhập vào xã hội tư bản, nơi mà ai cũng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Anh chia sẻ:“Làm việc ở các nhà máy bên Đông Đức, tuy nó có định mức nhưng làm việc cũng nhẹ nhàng thôi. Thế nhưng khi mà làm việc bên Tây Đức thì cường độ nó cao hơn, nhưng tất nhiên là thu nhập cũng cao hơn. Và cái tâm lý lo lắng mất việc làm thì nó thường trực trong đầu của người Việt mình hơn. Bên Đông Đức thì không có như thế, công ăn việc làm không phải lo gì cả.” Khi nước Đức thống nhất, chị Anh Đào có dịp làm quen với một cộng đồng người Việt mới đến từ bên kia bức tường Bá Linh. Chị nhận xét:“Giữa người Việt Đông Đức và Tây Đức thì riêng em, em có nhận xét là từ sinh viên du học cho đến những người tị nạn hầu như ai cũng có một kết quả rất tốt. Họ không có nhiều criminel (tội phạm) nhiều như sau khi mở bức tường. Sau khi mở bức tường, bên Đông Đức thì có những gia đình sống mực thước, nhưng cũng có những người bên Đông Đức hợp tác lao động muốn tiến thật xa cho nên họ làm tất cả những cái gì mà họ có thể làm. Những hành động của họ, những việc làm của họ, họ không sợ hậu quả xấu cho cộng đồng hoặc là đối với người Đức.” Sau thời gian cần thiết để ổn định cuộc sống mới, vẫn như câu tục ngữ ngàn đời của Việt Nam “phi thương bất phú”: người Việt, đa số từ Đông Đức đã lập nên khu thương mại nổi tiếng Đồng Xuân với hơn 250 gian hàng, khu buôn bán sầm uất của hơn 4000 người Việt sống hợp pháp và bất hợp pháp. Anh Mài nói:“Khi mà bức tường đổ thì chúng tôi đại đa số đều thất nghiệp hết. Mạnh ai thì người ấy lo cho bản thân. người Việt mình chủ yếu là lo buôn bán để kiếm tiền, bởi vì buôn bán đối với người Việt mình dễ dàng hơn. Và người Việt mình chịu khó đi len lỏi khắp nơi để mà kiếm tiền.” Với hơn 120.000 người Việt đang sống tại Đức, trong đó có khoảng 88.000 người có giấy tờ hợp pháp và phần còn lại sống bất hợp pháp. Cộng đồng Việt Nam tại Đức có thể được chia ra thành 4 nhóm: 1 nhóm rất ít là sinh viên du học trước 1975, nhóm thứ hai gồm khoảng 40.000 người là thuyền nhân tị nạn Cộng sản. Nhóm thứ ba gồm khoảng 20.000 người ở lại sau khi bức tường bá Linh sụp đổ và nhóm thứ tư cũng khoảng 40.000 người đến Đức bằng đủ mọi ngõ ngách khác nhau, đa số là sống bất hợp pháp. Nhóm thứ nhất và thứ nhì đã hoàn toàn ổn định ở xã hội Đức, đa số thành công và là mẫu mực của sự hội nhập. Nhóm thứ ba và thứ tư sống co cụm như là một xã hội Việt Nam thu nhỏ ở phần phía Đông của nước Đức. Nói chung, người Việt Tây Đức sống rải rác và hoà nhập vào xã hội Đức, trong khi đó người Việt ở Đông Đức sống gần như tập trung trong một xã hội riêng của họ. Sinh hoạt của họ cũng mang ít nhiều mô hình của chế độ Cộng sản. Chị Mai nói:“ Vẫn như hồi xưa…!!! Trong nước ra như thế nào thì trong nước vẫn như thế. Nói chung là cái mô hình họ mang từ Việt Nam sang. Tức là họ vẫn có công đoàn, vẫn có hội phụ nữ, vẫn có chi bộ, rồi vẫn có đoàn thanh niên, phụ nữ…. Tất cả đều phải áp dụng trong đội quản lý người lao động. Trước đấy, đi lao động thì hộ chiếu của bọn mình thì do sứ quán giữ, mình không được giữ. Sau này người ta vẫn hội họp, vẫn sinh hoạt kiểu như thế!” Dù nước Đức đã ăn mừng 20 năm, rồi 25 năm thống nhất và phát triển, cộng đồng người Việt tại Đông Đức này vẫn hầu như đi bên lề sự hội nhập ấy, dù họ cũng có những phát triển theo cách riêng của họ. Theo chị Anh Đào, một sự hoà hợp là khó có thể. “Không thể hoà hợp được, là vì theo em thấy, những anh chị em sống bên Đông Đức hình như họ vẫn còn dưới một sự control (kiểm soát) của toà đại sứ Việt Nam. Có thể họ có những cái không đồng ý nhưng vì gia đình họ vẫn còn ở Việt Nam hoặc là một cái lợi riêng gì của họ cho nên họ không thể hoà đồng hoặc là nói lên những gì họ muốn nói.” Bức tường Bá Linh đã được san bằng, nhưng những khác biệt về tư tưởng sau 30 năm chia lìa vẫn còn đó. 25 năm tuy dài nhưng vẫn chưa đủ cho một cuộc thống nhất trong tư duy nếu không có sự nỗ lực từ hai phía. Bức tường Bá Linh đã đổ, nhưng đâu đó vẫn còn một bức tường Bá Linh trong lòng mọi người.
......

44 Tướng Sĩ quân đội Đài Loan Làm Gián Điệp cho Trung Quốc

8 Thượng tướng 3 sao, 18 Trung tướng, 16 Thiếu tướng, 25 Thượng tá, 14 Trung tá, 4 Thiếu tá tham gia đường dây gián điệp của Bắc Kinh. Thời báo Hoàn Cầu ngày 1/1 dẫn nguồn tin tức tờ Apple Đài Loan cho hay, vụ Thiếu tướng La Hiền Triết, cựu Cục trưởng Thông tin bộ tư lệnh lục quân Đài Loan bị xử tù chung thân hồi năm ngoái do làm gián điệp cho Trung Quốc tưởng đã êm xuôi, nhưng gần đây lại lộ ra một bản danh sách 87 sĩ quan quân đội Đài Loan được cho là tham gia đường dây làm gián điệp cho Trung Quốc. La Hiền Triết, lon Thiếu tướng bị xử tù chung thân vì tội làm gián điệp cho Trung Quốc Đặc biệt trong số sĩ quan bị phát hiện làm gián điệp cho Trung Quốc bị phanh phui lần này có cả 2 viên quan chức cấp cao gồm Hoắc Thủ Nghiệp, Thượng tướng cấp 1 (4 sao, tương đương cấp Đại tướng) cựu Tổng tham mưu trưởng và Lâm Trấn Di, Tổng tham mưu trưởng sắp mãn nhiệm, lon Thượng tướng 4 sao. Hoắc Thủ Nghiệp,cựu Tổng tham mưu trưởng Đài Loan đã nghỉ hưu, lon Thượng tướng 4 sao Trước đó, giới chức Đài Loan ra thông báo, bắt đầu từ ngày 1/1/2013 sẽ bắt đầu điều chỉnh cơ cấu nhân sự Bộ Quốc phòng Đài Loan theo hướng tinh giản, trong đó hạ cấp quân hàm của ghế Tổng tham mưu trưởng từ Thượng tướng 4 sao xuống Thượng tướng 3 sao, vì vậy Lâm Trấn Di được cho là sắp nghỉ hưu và quân đội Đài Loan đang chuẩn bị nhân sự thay thế. Lâm Chấn Di, lon Thượng tướng 4 sao, Tổng tham mưu trưởng quân đội Đài Loan từ 2/2/2009 và chuẩn bị nghỉ Theo danh sách của tờ Apple Đài Loan tiết lộ, trong số 87 sĩ quan làm gián điệp cho Trung Quốc, ngoài 2 viên quan chức cấp cao nói trên còn có 8 Thượng tướng 3 sao, 18 Trung tướng, 16 Thiếu tướng, 25 Thượng tá, 14 Trung tá, 4 Thiếu tá tham gia đường dây gián điệp của Bắc Kinh. Trình Nhân Hoằng, một quan chức thuộc Ủy ban Giám sát Đài Loan nhận định, đây là vụ trọng án gián điệp lớn nhất, số lượng nhiều nhất, chức vụ cao nhất trong lịch sử. Trong số quan chức, tướng tá Đài Loan bị phát hiện lần này có 4 người bị coi phạm tội nghiêm trọng nhất, gồm Kim Nãi Kiệt, lon Trung tướng, cựu Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu, Hác Bảo Tài, Phó cục trưởng Cục Tình báo, Triệu Thế Chương và Dương Thiên Tiếu, lon Thượng tướng, cựu Tư lệnh Lục quân Đài Loan. Trình Nhân Hoằng và Triệu Xương Bình, 2 quan chức thuộc Ủy ban Giám sát Đài Loan phụ trách vụ trọng án này cho biết, do tính chất vụ án gián điệp đặc biệt nghiêm trọng, liên quan tới “bí mật quốc gia” nên không thể cung cấp các thông tin chi tiết cho báo chí.
......

Vietnam macht Bloggern kurzen Prozess

Seit Jahren erhöht Vietnam den Druck auf Internetaktivisten. Im Eilverfahren wurden jetzt drei regierungskritische Blogger wegen "Propaganda gegen den Staat" zu langjährigen Haftstrafen verurteilt. Mehrfach war der Prozess verschoben worden, doch am Ende dauerte die Verhandlung nur einen halben Tag. Wegen Kritik an der kommunistischen Regierung sind drei Blogger zu langjährigen Haftstrafen verurteilt worden. Die zwei Männer und eine Frau müssen für vier bis zwölf Jahre ins Gefängnis. Ein Gericht in Ho-Chi-Minh-Stadt habe sie für schuldig befunden, im Internet Artikel veröffentlicht zu haben, in denen sie sich gegen die Regierung wandten, sagte Anwalt Ha Huy Son.  Unterdrückter "Bürgerjournalismus"   Bei einem der Angeklagten handelt es sich um Nguyen Van Hai, besser bekannt als Dieu Cay. Er hatte bereits seit 2008 eine zweieinhalbjährige Haftstrafe wegen Steuerhinterziehung abgesessen. Doch anstatt ihn nach beendeter Haftzeit freizulassen, klagten ihn die Behörden erneut an. Dieu Cay war von US-Präsident Obama namentlich erwähnt worden, als dieser sich im Mai 2012 gegen die Unterdrückung des "Bürgerjournalismus" in Vietnam ausgesprochen hatte. Dieu Cay sowie die beiden Blogger Phan Thanh Hai und Ta Phong Tan hatten 2007 gemeinsam den "Free Journalists' Club" gegründet und auf dessen Webseite mehrfach regierungskritische Artikel veröffentlicht. Die Mutter der früheren Polizistin Ta Phong Tan hatte sich im September 2011 aus Protest gegen die Verhaftung ihrer Tochter vor dem Regierungsgebäude in der südlichen Provinz Bac Lieu selbst verbrannt. Menschenrechtsorganisationen hatten die Inhaftierung und den Prozess scharf verurteilt und mehrfach die unverzügliche Freilassung der Angeklagten gefordert. Rupert Abbott, Vietnam-Experte bei Amnesty International, bezeichnete die Blogger als "politische Gefangene", deren einziges "Verbrechen" es gewesen sei, "friedlich von ihrem Recht auf freie Meinungsäußerung Gebrauch gemacht" zu haben. Brad Adams von Human Rights Watch sagte, sie hätten sich nichts zuschulde kommen lassen, außer "Geschichten zu veröffentlichen, von denen die Regierung nicht will, dass das Volk sie liest."  Angst vor den digitalen Stimmen   Seit 2011 setzt die vietnamesische Regierung die Bloggerszene massiv unter Druck. Die Szene im Lande ist eine der aktivsten in ganz Südostasien. Schätzungsweise jeder dritte Vietnamese ist täglich im Internet unterwegs. Die jüngere Generation geht dafür vor allem in Internetcafés, die es nicht nur in den Städten, sondern auch auf dem Land überall gibt. "Die Blogger haben eine ganz wichtige Funktion übernommen", sagt der Vietnamexperte Jörg Wischermann im Gespräch mit der DW, "da sie das staatlich verordnete Schweigen in den Medien außer Kraft gesetzt haben." Die staatlichen Medien schweigen vor allem über die heftigen Konflikte, die im ganzen Land schwelen und regelmäßig ausbrechen. Bauern werden von Immobilienspekulanten enteignet oder mit minimalen Kompensationszahlungen abgespeist. Beamte sind oft beteiligt oder profitieren indirekt. Wenn sich die Bauern zur Wehr setzen, kommt es zu teilweise brutalen Einsätzen der Polizei. In den letzten Monaten sind die Berichte darüber aus den offiziellen Medien verschwunden. Die Regierung fürchtet die Proteste der Bauern, die "eine tragende Säule des Landes" seien, sagt Wischermann. Nur Blogger haben über das Schicksal der Bauern berichtet, Fotos und Videos veröffentlicht.  Maßnahmen gegen unabhängige Berichte Polizisten sichern das Gerichtsgebäude, in dem der Prozess gegen die Blogger stattfand. Um der Berichterstattung im Internet zu begegnen, hat die regierende Kommunistische Partei Vietnams (KPV) schon auf ihrem elften Parteitag im Jahre 2011 eine härtere Gangart gegen Regimekritiker beschlossen. Ende Juli 2012 wurde in Vietnam ein Internet-Dekret verabschiedet, wobei zur Zeit noch unklar ist, ob es tatsächlich in ein Gesetz umgesetzt wird. Das Dekret umfasst 60 Abschnitte, die alarmierend vage gehalten sind. So soll der Missbrauch von Informationen im Internet, die gegen die Sozialistische Republik Vietnam gerichtet sind, ebenso unter Strafe gestellt werden wie Angriffe, die die große Einheit des Volkes oder die guten Gebräuche und Traditionen des Landes unterminieren. Das Dekret fordert eine umfassende Filterung von Internetinhalten sowie die Anmeldung von privaten Webseiten unter dem richtigen Namen der Betreiber. Nicht zuletzt sollen Privatpersonen und Internetdienstanbieter für Verstöße auch von Dritten belangt werden können. So wundert es nicht, dass Vietnam auf dem aktuellen Index zur Pressefreiheit der Organisation "Reporter ohne Grenzen" nur auf Platz 172 von insgesamt 179 Staaten rangiert. Auf der Rangliste der "Feinde des Internets" belegt Vietnam Platz 3. Reporter ohne Grenzen berichtete über die handfesten Mittel, die der vietnamesische Staat anwendet, um die Blogger in ihre Schranken zu weisen. Unliebsame Blogger würden auch in ihrem Privatleben lückenlos überwacht, auf offener Straße bedroht und angegriffen, verhaftet oder durch stundenlange Verhöre eingeschüchtert, hieß es bei Reporter ohne Grenzen.  Regierung setzt sich rigoros durch   Der Zweck derartiger Dekrete und Verordnungen sei nicht, die Bloggerszene tatsächlich zu kontrollieren, wie Wischermann sagt. "Dass das technisch überhaupt nicht umzusetzen ist, haben auch schon die vorherigen Dekrete und Verordnungen gezeigt. Es geht darum, gewisse polizeiliche Maßnahmen zu rechtfertigen." Die Regierung schaffe mit den Verordnungen einen legalen Rahmen, der es der Polizei ermögliche, an einzelnen Personen ein Exempel zu statuieren.   http://www.dw.de/vietnam-macht-bloggern-kurzen-prozess/a-16135751  
......

Pages