Hàng loạt Tướng lĩnh Bộ quốc phòng bị kỷ luật

Le Anh| Theo truyền thông trong nước thông tin liên quan đến vấn đề vi phạm trong việc quản lý sử dụng đất quốc phòng trong đó có liên quan đến tiền và tài sản. Những thành phần liên quan trong vụ này đều là những thành phần lãnh đạo của Bộ Quốc Phòng trong binh chủng Hải Quân như: Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình và Chuẩn Đô đốc Lê Văn Đạo. Ngoài ra còn có Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Tư lệnh Quân khu 9, Đại tá Nguyễn Thanh Nam, hiện là Phó Tổng giám đốc tập đoàn viễn thông Viettel thuộc Bộ quốc phòng…không những thế mà còn liên quan đến các cán bộ, đảng viên cấp dưới. Hầu hết các cơ quan truyền thông chỉ nói đến vi phạm là do làm việc buông lỏng, quản lý, thiếu kiểm tra…và cho đó chỉ là những khuyết điểm và chỉ nói chung chung nhưng không đề cập chi tiết cụ thể vi phạm cái gì? Riêng tờ báo điện tử “Báo http://xn--mi-ebt.com/” có đề cập đến sự vi phạm có liên quan đến vấn đề tiền bạc và tài sản. Nếu chỉ là khuyết điểm tại sao cách chức những nhân vật cao cấp như: Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Tư lệnh Quân khu 9, Đại tá Trương Thanh Nam, Phó Tổng giám đốc Viễn Thông Viettel và xử lý hàng loạt cán bộ và đảng viên cấp dưới? Dư luận đang thắc mắc và đặt nghi vấn: - Kỷ luật và xử lý hàng loạt tướng lĩnh và có cả các cán bộ, đảng viên. Đây có phải là một tập đoàn ăn chia từ trên xuống dưới? - Công khai kỷ luật hàng loạt lãnh đạo tướng tá, đặc biệt là các nhân vật trong Quân đội sai phạm là chuyện ít xảy ra đối với đảng, thường thì giải quyết trong nội bộ cho nên quyết định cách chức và kỷ luật các tướng lĩnh cao cấp phải là sự việc rất nghiêm trọng. - Đây có phải là những màn đấu đá trong nội bộ đã đến mức công khai đối đầu giữa các phe cánh với nhau? Được biết Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội được Đảng cho phép làm kinh tế. Quân đội không phải đội quân kinh doanh, thay vì nhiệm vụ chính của Quân đội là chăm lo, chuyên trách công việc quốc phòng, bảo vệ Tổ Quốc. Từ khi Quân đội có quyền làm kinh tế thì cụm từ “Đất quốc phòng” được đề cập thường xuyên, nơi nào quân đội muốn lấy, từ tài sản đất đai của dân, của tôn giáo thì gán cụm từ “đất này thuộc đất quốc phòng.” Thật sự không mấy người hiểu “đất quốc phòng là đất gì”? Và cũng từ khi Quân đội có quyền làm kinh tế thì các lãnh đạo quân đội đề dồn nỗ lực đầu tư để kiếm tiền quên mất đi nhiệm vụ của quân đội, Và cũng kể từ đó, các thành phần lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam muốn giữ được ghế quyền lực để trục lợi thì phải hợp tác với Trung quốc. Điều đáng nói ở đây là những trục lợi đều vào trong túi của các thành phần lãnh đạo của Quân đội chứ những quân nhân cấp dưới hoàn toàn không được hưởng gì cả. Đất nước Việt Nam thật bất hạnh khi có một đội quân với thành phần lãnh đạo hèn nhát! Đất nước Việt Nam thật bất hạnh khi có một thể chế chỉ biết có đảng và không quan tâm đến tiền đồ của đất nước và tương lai của Dân tộc Le Anh
......

Đảng CSVN chính là...Kền kền

Đỗ Văn Ngà| Phải nói rằng, kinh tế Việt Nam đang chìm dần cho dù chỉ số tăng trưởng GDP họ thông báo vẫn khá cao. Về kinh tế, khi chất lượng cuộc sống bị kéo xuống, đồng thời về chính trị, quyền con người bị tước bỏ tự nhiên sẽ có một luồng di cư từ Việt Nam tỏa sang các nước khác có điều kiện kinh tế và chính trị tốt hơn. Với tầng lớp thấp, họ tranh nhau đi xuất khẩu lao động để tìm kiếm thu nhập cải thiện cuộc đời quá thiếu thốn. Tầng lớp này đông vô số kể. Lợi dụng nhu cầu xuất khẩu lao động lớn, và dân Việt ở nơi bưng bít thông tin kém hiểu biết, các đơn vị môi giới có sự tiếp tay của chính quyền đã lấy những khoản tiền dịch vụ với giá cắt cổ. Họ thu tiền cao, tống người lao động qua xứ người rồi vứt đó cho họ tự bơi kiểu sinh con bỏ chợ. Đây là một hình thức buôn nô lệ kiểu mới, kiểu XHCN. Theo thông tin trên RFA, ngày 05/05/2019 công nhân Việt Nam đã biểu tình trước văn phòng Văn Hoá – Kinh tế của Việt Nam ở Đài Bắc . Họ biểu tình vì qua đến nơi, họ mới nhận ra là họ bị bóc lột sức lao động. Những công nhân xuất khẩu lao động ở vùng quê Việt Nam đã đóng phí dịch vụ đến 6 ngàn đô Mỹ để được đi, trong khi những công nhân đến từ Thái Lan, Indonesia và Phillipines chỉ chi từ 1 đến 3 ngàn đô cho môi giới, trong khi đó mức sống các nước kia đều hơn Việt Nam rất nhiều. Trong thị trường rút rỉa túi tiền dân nghèo này, có nhiều những công ty môi giới là sân sau của quan chức nhà nước. Quảng cáo rao bán cô dâư VN Vào thời kỳ người Âu Châu khám phá ra Châu Mỹ, họ tiến hành di cư sang vùng đất mới. Người Âu Châu đến đó làm chủ, họ dùng sức mạnh của họ đến Châu Phi bắt người da đen đem bán cho giới chủ người da trắng tại châu lục mới này để làm nô lệ. Người Châu Phi dốt nát và họ đã bị người da trắng xem là món hàng. Khi đó, nô lệ được dắt ra chợ bán như bán một con gia súc. Tuy bọn buôn nô lệ người da trắng rất ác, nhưng họ chưa bao giờ buôn đồng bào của họ làm nô lệ cả. Ngày nay, tình trạng phụ nữ Việt Nam bị buôn bán làm nô lệ tình dục ở các nước Á Đông rất phổ biến. Chuyện này cứ ngang nhiên diễn ra hết năm này đến năm khác. Kết quả là tại những nước như Trung Quốc Hàn Quốc, Đài Loan họ xem mua vợ Việt Nam như là mua mớ rau con cá với giá rất bèo. Thậm chí trên báo mạng Trung quốc còn quảng cáo rằng “3 vạn tệ (100 triệu VNĐ) mua một cô vợ Việt Nam, chạy 1 cô đền 1 cô”. Sự lộng hành của các công ty môi giới lừa đảo, tình trạng bắt cóc buôn người xảy ra rất phổ biến, trước hết trách nhiệm đó thuộc chính quyền. ở Việt Nam, bao nhiêu người chỉ ra cái sai của chính quyền, họ không phạm tội gì lại bị bắt nhốt tù vô cớ như trường hợp Anh Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh là ví dụ, anh ta chỉ phản biện những sai trái của chính quyền mà bị kết án 5 năm tù, còn tình trạng buôn người, tổ chức lừa đảo đang lộng hành thì chính quyền không quan tâm. Nói cho dễ hiểu, thì chính quyền này vây bắt người có ích cho xã hội và thả cho những kẻ tàn phá xã hội lộng hành. Chính quyền thế thì dân nào sống nổi? Thực ra những gì đang diễn ra ở đất nước Việt khốn khổ này nó không hẳn là yếu kém của ĐCS mà là chính sách hẳn hoi. Họ không thể giúp đất nước phát triển được thì họ cũng tàn phá luôn. Vì trong đầu họ, tàn phá đất nước họ có lợi hơn là xây dựng. Chính vì thế, họ đã không chùn tay tàn phá đất nước để dân chịu không nổi và di cư ra nước ngoài lao động tạo thành một thị trường béo bở để họ tư lợi. Xuất khẩu culi nhiều cũng đồng nghĩa với việc Đảng kiếm nhiều ngoại tệ do chính những lao động này làm gởi về nước. Đất nước mất gì kệ nó, dân mất gì kệ nó, miễn sao Đảng có đô và đảng viên được hưởng vinh hoa phú quý là được. Thật sự, ĐCS và thân hữu của nó là loài kền kền bên xác nhân dân. Tham khảo: – https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/viet-labor-in-taiwan-protest-gov-of-vn-05052019084652.html – https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/trung-quoc-quang-cao-mua-vo-viet-nam-100-trieu-mot-co-148779.html
......

“Không thể đi theo con đường lao động giá rẻ”

  Phương Thảo - VNTB! Tiền lương không tăng theo tỷ lệ thuận với lạm phát, tiền lương vẫn nằm trong tỷ lệ nghịch với giá điện và xăng. Nhà ở xã hội vẫn nằm trên giấy nhường ưu tiên cho những dự án nhà ở – biệt thự – khu nghỉ dưỡng cao cấp. Môi trường làm việc vẫn không được biết đến ở khía cạnh không có bạo lực thể xác và ngôn ngữ cũng như lạm dụng tình dục. Nhân công giá rẻ – một lợi thế lớn của Việt Nam trong việc lôi kéo các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam từ thị trường Trung Quốc khi mà giá nhân công ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với giá nhân công ở Trung Quốc. Đắng cay đời nữ công nhân may Giá nhân công rẻ đem lại nhiều lợi lộc cho giới đầu tư. Hãy cứ thử nhẩm tính một đôi giày Nike hay một cái quần jeans Levi’s có giá bán lẻ 100 đến 200 euros ở châu Âu (tức 2,7 tới 5,2 triệu đồng Việt Nam) thì giá gia công chỉ từ vài xu cho tới dưới một euro. Chưa kể đến các nhãn hiệu cao cấp khác cũng được sản xuất ở Châu Á với giá bán trên dưới 1000 euro mà giá nhân công vẫn không thay đổi. Đây chính là điều mà những người quan tâm đến nhân quyền và công bằng trong xã hội cho là bóc lột sức lao động của người dân ở các quốc gia thứ ba. Dù lương căn bản ở Việt Nam đã được tăng lên, nhưng mức lương khoảng 5 triệu đồng một tháng của công nhân các nhà máy may khi chưa tăng ca vẫn không đủ sống. Đã có cảnh báo về việc một nửa nữ công nhân may Việt Nam phải đối mặt với bạo lực nơi làm việc sau khi tổ chức Fair Wear Foundation, một đối tác của các thương hiệu quần áo bền vững, phỏng vấn 763 nữ công nhân may Việt Nam. 43% người được phỏng vấn cho hay họ đã bị bạo hành hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc trong mười hai tháng qua. Nữ công nhân có thể bị quản đốc đánh vô tay bạn hay chủ đòi tình để đổi lấy sự thăng tiến. Hai triệu người hiện đang làm việc trong các nhà máy dệt may tại Việt Nam, 80% trong số đó là phụ nữ. Hầu hết trong số họ là người nông thôn đi lên thành phố để làm việc ở các khu công nghiệp. Hai phần ba nữ công nhân may có con nhỏ và một nửa số các bà mẹ phải bỏ con lại ở quê để lên thành phố làm một trong những công việc được trả lương thấp nhất trong xã hội. Những người phụ nữ gốc nông dân này là nhóm người dễ bị tổn thương hơn vì không có an sinh xã hội. Thực trạng và giải pháp cho lao động nữ tại Việt Nam Thương mại phải đi đôi với kinh doanh có trách nhiệm? Các cuộc phỏng vấn của Fair Wear Foundation được thực hiện bên ngoài nhà máy để tránh bị ảnh hưởng từ phía các nhà quản lý cũng như câu trả lời theo ý muốn của xã hội. Công nhân may tăng ca thường xuyên và hầu như phải làm việc 60 giờ một tuần, cao gấp gần gấp đôi so với mức giờ lao động chuẩn, nhưng không tăng ca thì không đủ sống. Việc đối mặt với bạo hành và quấy rối trong công việc còn đôi khi song hành cả với tiền tăng ca không được thanh toán. Ông giám đốc tổ chức Fair Wear Foundation cho biết cũng đã chuyển nghiên cứu của họ cho Bộ Lao Động của Việt Nam trong đó có nhấn mạnh đến vấn đề tiền lương và quấy rối tình dục nơi làm việc nhằm giúp cho bộ chủ quản và các ban ngành liên quan trong việc sửa đổi Luật Lao động theo tiêu chuẩn ILO. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) sẽ đưa ra quyết định vào tháng 6 năm nay về một hiệp ước chống lại bạo lực và quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Báo cáo cũng cho biết rằng “mặc dù chính quyền Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh rằng nước này đạt chỉ số cao về tham gia lao động của nữ giới và giáo dục công bằng, nhưng quấy rối hoặc lạm dụng tình dục là phổ biến.” Điều đó cũng được chứng minh từ kết quả nghiên cứu bởi vì, ngoài việc quấy rối tại nơi làm việc, một nửa số phụ nữ được phỏng vấn nói rằng họ đã bị quấy rối trên đường về nhà hoặc đi làm. Kết quả nghiên cứu này cũng đã được trình cho Thủ Tướng Hà Lan Mark Rutte trong chuyến công du Việt Nam hồi đầu tháng 4 tại Hà Nội nhằm yêu cầu Mark Rutte phải “liên kết quyền lao động với quan hệ thương mại tốt hơn. Thương mại phải đi đôi với kinh doanh có trách nhiệm.” Ai cho tôi công lý nơi làm việc Quyển sách về “Công lý nơi làm việc” ở Việt Nam đã khám phá ra rằng công nhân ở Việt Nam nói riêng và công nhân châu Á nói chung là những người thụ động. “Lực lượng lao động nữ đơn giản (vì không biết gì đến quyền lợi của mình), giá nhân công rẻ, và không bao giờ gây phiền hà. Họ làm việc chăm chỉ và biết tuân phục” là mồi câu được sử dụng để lôi kéo nhà đầu tư nước ngoài đến để khai thác sức lao động giá rẻ và gia tăng đầu tư trong nước. Công nhân may đã từng có các cuộc đình công lớn tự phát buộc giới chủ phải thoả mãn các yêu cầu về lương bổng nhưng rồi nhanh chóng xẹp xuống. Tuy nhiên họ vẫn là những người thụ động, sợ mất việc làm, chấp nhận bị đối xử tệ và hơn hết không được phép biểu tình vì chính quyền sợ ảnh hưởng đến nhà đầu tư cũng như làm nguy hại đến một hình ảnh một Việt Nam ổn định – an toàn. Công đoàn lại vô tích sự không đóng một vai trò gì trong việc bảo vệ quyền lợi của công nhân. “Không thể đi theo con đường lao động giá rẻ” Ngày 5/5 vừa qua ông Phúc lên tiếng về việc lao động giá rẻ không phải là hướng phát triển lâu dài. Ông thủ tướng hoàn toàn đúng nhưng ông chỉ đề cập đến lực lượng lao động kỹ thuật cao còn những người lao động như các nữ công nhân may lại không được đưa vào chương trình nghị sự. Nên nhớ rằng xuất khẩu dệt may và da giày Việt Nam vẫn chiếm áp đảo so với các ngành nghề khác. Ngay cả công nhân làm việc cho Samsung, có mức đóng góp xấp xỉ 30% thu nhập GDP cho Việt Nam cũng không phải là công nhân kỹ thuật cao và vẫn chỉ là những người công nhân trong dây chuyền lắp rắp. Ông Phúc cũng đề cập đến cải thiện tiền lương đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu, nhà ở xã hội, môi trường làm việc cho công nhân. Nhưng tiền lương không tăng theo tỷ lệ thuận với lạm phát, tiền lương vẫn nằm trong tỷ lệ nghịch với giá điện và xăng. Nhà ở xã hội vẫn nằm trên giấy nhường ưu tiên cho những dự án nhà ở – biệt thự – khu nghỉ dưỡng cao cấp. Môi trường làm việc vẫn không được biết đến ở khía cạnh không có bạo lực thể xác và ngôn ngữ cũng như lạm dụng tình dục. Tháng 6 nếu thêm một điều khoản của ILO được đưa ra về vấn đề bạo lực và quấy rối tình dục nơi làm việc, cộng với vấn đề “bạo lực và quấy rối tình dục nơi làm việc” vào chương trình nghị sự ở châu Âu, hi vọng chính quyền độc đảng sẽ học hỏi được cách phát triển bền vững dựa vào từ các giá trị nhân bản đơn giản nhất trở đi. Phương Thảo -  Việt Nam Thời Báo Mất việc ở tuổi 35 tại Việt Nam  
......

Chuyện gì sẽ xảy ra khi ông Trọng vô năng?

Trung Điền – Web Việt Tân| Sự vô năng của ông Trọng có thể sẽ dẫn đến cuộc chạy đua ghế Tổng bí thư cho nhiệm kỳ 13 (2021-2026) giữa phe ông Trần Quốc Vượng và phe ông Nguyễn Xuân Phúc. Ông Nguyễn Phú Trọng đã không xuất hiện trong tang lễ của ông Lê Đức Anh vào sáng ngày 4 tháng 5 vừa qua tại Nhà tang lễ quốc gia Hà Nội. Thay vào đó, người ta đưa vòng hoa của ông Nguyễn Phú Trọng đến viếng và xướng danh ông Trọng là người đứng đầu ban tang lễ gồm 39 người. Từ sau vụ đột quỵ ở Kiên Giang hôm 14 tháng 4, sự xuất hiện của ông Nguyễn Phú Trọng trong tang lễ của ông Lê Đức Anh rất quan trọng – không phải chỉ cho riêng cá nhân ông mà còn đối với tập thể Bộ chính trị đảng CSVN. Nếu ông Trọng xuất hiện trong tang lễ, tức chỉ sau ba tuần mà phục hồi nhanh như vậy, sẽ cho thấy là cú “đột quỵ” ở Kiên Giang không đến nỗi nào, ông Trọng vẫn có nhiều tiềm năng cầm chịch hai trách vụ Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Hơn thế nữa, tang lễ của ông Lê Đức Anh có thể coi như là lễ tang cuối cùng đối với thế hệ lãnh đạo trực tiếp cuộc chiến quá khứ. Đáng lý ra, ông Trọng phải hiện diện trong vai trò người lãnh đạo cao nhất hiện nay để nói lời chia tay với thế hệ đàn anh. Nhưng có lẽ “người tính không bằng trời tính”. Sức khỏe đã không cho phép ông Trọng xuất hiện, điều này cho thấy là cú “đột quỵ” của ông Trọng vừa qua không nhẹ tý nào. Nói cách khác là tuy tính mệnh có thể không còn nguy kịch, nhưng sự hồi phục để trở lại bình thường như trước ngày 14 tháng 4 sẽ rất khó và ông Trọng sẽ dần dần rơi vào tình trạng vô năng, không còn có thể hoạt động bình thường chứ đừng nói đến việc đảm đang hai vai trò quan trọng là tổng bí thư đảng kiêm chủ tịch nước. Các biến chứng của bệnh đột quỵ nặng thường là mất trí nhớ, không còn khả năng diễn đạt, và có khi liệt tứ chi, nếu không là đi vào hôn mê vĩnh viễn. Trong trường hợp có thể phục hồi cần phải rất nhiều thời gian và nỗ lực điều trị, mà cũng không thể nào trở lại như xưa. Ở lứa tuổi gần 80, việc phục hồi lại càng không phải dễ. Đảng CSVN, dù muốn hay không, cũng sẽ phải tuyên bố việc thay thế ông Trọng mà thôi. Ông Trọng hiện nay đang đảm trách bốn công việc rất quan trọng. Công việc thứ nhất là phụ trách tiểu ban nhân sự đại hội 13. Tức là sắp xếp, chọn lọc khoảng 600 cán bộ để giữ những trách vụ trong Trung ương đảng, Bộ chính trị, Bí thư và cán bộ của 63 Tỉnh, Thành trực thuộc Trung ương, Đại biểu Quốc hội sau đại hội 13. Đây không phải là công việc dễ dàng vì phải đối đầu gay gắt với những đòn phá ngầm của các phe. Công việc thứ hai là phụ trách tiểu ban về đường lối và tài liệu đại hội 13. Tức là soạn thảo đường lối hoạt động của đảng CSVN trong 10 năm tới trong bối cảnh phai nhạt của “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Công việc thứ ba là vai trò của người “đốt lò vĩ đại”, đứng đầu Ban phòng chống tham nhũng nhằm thanh lọc hàng ngũ đảng. Công việc thứ tư là chỉ đạo nhà nước và chính phủ tiến hành chính sách đu dây sao cho hiệu quả trong bối cảnh xung đột ngày một gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, để giữ không làm sứt mẻ “tình hữu nghị” đối với Trung Cộng khi mà sự hợp tác chiến lược giữa CSVN với Hoa Kỳ ngày một gia tăng hiện nay. Đương nhiên, ông Trọng có rất nhiều người phụ tá, nhưng ở vai trò lãnh đạo, ông Trọng phải suy nghĩ để đưa ra những đề xuất và nhất là “cầm chịch” các quyết định quan trọng về nhân sự, vị trí đóng góp của từng phe, từng thành phần. Với tình hình sức khỏe như hiện nay, ông Trọng khó có thể tiếp tục làm tốt bốn công tác quan trọng này. Đó là chưa kể đến những đối thủ của ông Trọng tìm cách gây “áp lực”, tạo ra những căng thẳng trong nội bộ, khiến ông Trọng có thể phải tự buông bỏ nếu muốn bảo toàn tính mạng. Đây là những thủ đoạn thường được các phe nhóm áp dụng tại những quốc gia độc tài. Quả thật là không ai ngờ chuyến đi Kiên Giang hôm 13-14 tháng 4 lại trở thành chuyến đi định mệnh không chỉ đối với ông Trọng mà cho cả tương lai của đảng CSVN. Thứ nhất, trong tình trạng sức khỏe hiện nay, ông Trọng sẽ cần tới sự giúp đỡ của hai nhân vật thân tín, đó là Trần Quốc Vượng và Phạm Minh Chính cả về đường lối và chỉ đạo trong nội bộ đảng, đặc biệt là các chuẩn bị về nhân sự, đường lối và tổ chức đại hội 13. Vô hình chung, hai ông Vượng và ông Chính sẽ thao túng quyền lực ở trong đảng với dự kiến là ông Vượng sẽ nắm ghế Tổng bí thư và ông Chính sẽ là thường trực Ban bí thư trong đại hội 13. Ông Trần Quốc Vượng sinh năm 1953 (tuổi về hưu) trong khi ông Phạm Minh Chính sinh năm 1958 cho nên ông Chính sẽ giúp ông Vượng ở lại ghế Tổng bí thư để sau đó giúp ông Chính nắm ghế Tổng bí thư ở đại hội 14. Thứ hai, với vai trò Thủ tướng, ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ cùng lúc đóng vai trò Chủ tịch nước và Thủ tướng chính phủ trong các quan hệ đối ngoại cũng như tham dự các Hội nghị quốc tế. Nói cách khác, khi ông Trọng vô năng, ông Nguyễn Xuân Phúc nghiễm nhiên trở thành nhân vật lãnh đạo có tầm vóc duy nhất trong con mắt của quốc tế. Ông Nguyễn Xuân Phúc sinh năm 1954 là tuổi sẽ về hưu vào tháng 1/2021, nhưng với lợi thế bất ngờ hiện nay sẽ giúp cho ông Phúc có thể được Bộ chính trị và Trung ương đảng khóa 12 giới thiệu làm Tổng bí thư của khóa 13. Với kịch bản nói trên, sự vô năng của ông Trọng sẽ dẫn đến cuộc chạy đua ghế Tổng bí thư cho nhiệm kỳ 13 (2021-2026) giữa phe ông Trần Quốc Vượng và phe ông Nguyễn Xuân Phúc. Cuộc chiến sẽ bùng nổ lớn trong những ngày tháng trước mặt, và sẽ còn gay gắt hơn những gì đã xảy ra giữa hai phe Trọng-Dũng năm 2016.  
......

Những ai sẽ vào ‘tứ trụ’ tại Đại hội Đảng 2021?

Trương Xuân Danh| Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức Năm năm một lần, nó được ví như một ngọn hải đăng của hệ thống chính trị một Đảng tại Việt Nam. Mỗi lần Đại hội, Đảng lại nỗ lực “trình làng” một thế hệ lãnh đạo mới chất lượng mang đậm hàm ý “đổi mới”. Kể từ những ngày đầu năm trước Đại Hội cho đến những Hội nghị Trung ương cuối cùng trước khi “chốt” các nhân vật ở tầng cao nhất, chủ đề nhân sự luôn sôi động, thu hút được sự chú ý đặc biệt của dư luận. Có thể còn quá sớm để đưa ra các nhận định hay dự đoán về giàn lãnh đạo chủ chốt mới tại Đại hội Đảng XIII, (dự kiến diễn ra vào tháng 1/2021). Nhưng ngay từ bây giờ chúng ta có thể dựa trên các dữ liệu “cứng” như các quy định “thành văn” được Đảng ban hành về lựa chọn nhân sự, cấu trúc hệ thống lựa chọn từ trên xuống theo truyền thống vẫn còn ổn định, và cuối cùng là các quy ước “bất thành văn” để đưa ra những phân tích, phán đoán cơ bản. Không thể phủ nhận rằng các Đại hội kể từ hai thập niên trở lại đây sự dân chủ trong Đảng đã được gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt đối với vấn đề chuẩn bị nhân sự chủ chốt cho mỗi kì Đại hội. Các quy định, tiêu chí, tiêu chuẩn về các vị trí nhân sự chủ chốt của Đảng được ban hành chi tiết. Các thông tin về nhân sự chủ chốt, quy trình bỏ phiếu đều được công khai tối đa. Đó sẽ là những yếu tố quan trọng để các phân tích và phán đoán trở nên chất lượng hơn. Bộ Chính trị và ba nhóm thế hệ Bộ chính trị Đại hội khóa XII có 19 người nhưng hiện nay chỉ còn 16 Ủy viên làm việc. Theo các quy định về độ tuổi, chúng tôi tạm thời chia làm ba nhóm. Nhóm thứ Nhất là những người quá tuổi tái cử Ủy viên Bộ Chính trị theo quy định, và phải rời vị trí sau Đại hội XIII (trên 65 tuổi vào ngày bầu cử Đại hội), tạm gọi là nhóm “Bộ Tám” bao gồm Tổng bí thư, Chủ tịch nước và 7 người sinh vào những năm 1953, 1954, 1955. Cụ thể, nhóm này gồm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng (SN 1944), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (SN 1954), bà Nguyễn Thị Kim Ngân Chủ tịch Quốc hội (SN 1954), ông Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban bí thư, (SN 1953), bà Tòng Thị Phóng, phó Chủ tịch thường trực Quốc hội (SN 1954), ông Trương Hòa Bình Phó Thủ tướng thường trực (SN 1955), ông Ngô Xuân Lịch Bộ trưởng Quốc phòng (1954), và ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư TP HCM (SN 1953). Như vậy “Bộ Tám” về nguyên tắc sẽ không tái cử Đại hội khóa XIII (chiếm 50% số lượng Ủy viên Bộ chính trị hiện nay) tương đối phù hợp với nguyên tắc kế cận. Nhóm thứ Hai gồm Sáu Ủy viên Bộ Chính trị, là nhóm theo quy định được cơ cấu tái cử, (dưới 65 tuổi vào ngày bầu cử Đại hội XIII) sinh vào các năm 1957, 1958, 1959 tạm gọi là nhóm “Bộ Sáu”. Cụ thể bao gồm, ông Phạm Minh Chính, trưởng ban Tổ chức TƯ (SN 1958), bà Trương Thị Mai, trưởng ban Dân vận (SN 1958), ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao (SN 1959), ông Vương Đình Huệ, Phó Thủ tướng Chính phủ (SN 1957), ông Tô Lâm Bộ trưởng Công an (SN 1957), ông Hoàng Trung Hải, Bí thư Hà Nội (SN 1959). Nhóm thứ Ba là nhóm sinh từ năm 1961 trở về sau, tạm gọi là “Nhóm 2026”, tức là nhóm không những tái cử ở nhiệm kì Đại hội XIII, mà còn đủ tuổi để tái cử vào nhiệm kì Đại hội XIV (2026), bao gồm hai ông là Võ Văn Thưởng trưởng ban Tuyên giáo TƯ (SN 1970) và ông Nguyễn Văn Bình, (SN 1961) trưởng ban Kinh tế TƯ. Bộ chính trị VC khóa 12 hiện nay Ai sẽ là Tổng Bí thư? Trong trường hợp Tổng Bí thư Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không tái cử Đại hội XIII, chúng ta bắt đầu tiến hành “diễn dịch” của Quy định 90-QĐ/TW về “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban chấp hành TƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lí” được ban hành ngày 4.8.2017. Đoạn quy định chức danh Tổng Bí thư ngoài các tiêu chí chung có một điều kiện đặc biệt, ứng cử viên phải “có năng lực lãnh đạo, điều hành Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư”. Trong các phiên họp của Ban chấp hành TƯ hiện nay ngoài Tổng Bí thư chỉ có Ba chức danh là Thủ tướng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, và Thường trực Ban bí thư được phép ngồi Chủ tọa và điều hành phiên họp. Trong lịch sử và theo truyền thống kể từ thời Tổng bí thư Lê Duẩn tại Đại hội VI (1986), các nhân vật phải nắm giữ vị trí từ Thường trực ban bí thư trở lên cho đến các vị trí cao nhất mới có khả năng kế cận trở thành Tổng bí Thư. Cụ thể ở đây, tại Đại hội VI (1986) là ông Nguyễn Văn Linh, trước đó ông là Thường trực Ban bí thư, Đại hội VII (1991) ông Đỗ Mười, trước đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tương đương Thủ tướng hiện nay), Đại hội VIII (1996) ông Đỗ Mười tiếp tục tái cử. Tại Hội nghị TƯ tháng 12/1997, Ban Chấp hành T.Ư đã bầu ông Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư, ông Lê Khả Phiêu lúc đó là Thường Vụ Bộ chính trị, một trong bốn vị trí cao nhất, sau Tổng bí thư Đỗ Mười. Đại hội IX (2001), là ông Nông Đức Mạnh, trước đó ông là Chủ tịch Quốc hội, Đại hội X (2006) ông Nông Đức Mạnh tiếp tục tái cử. Đại hội XI (2011) là ông Nguyễn Phú Trọng, ông lúc đó là Chủ tịch Quốc hội, Đại hội XII (2016), ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục tái cử. Với Quy định về chức danh Tổng Bí thư, và theo lịch sử lựa chọn các vị trí quyền lực nhất từ trên xuống được “truyền thống hóa” kể từ thời Tổng bí thư Lê Duẩn, thì hiện nay các ông Nguyễn Xuân Phúc, bà Nguyễn Thị Kim Ngân, và ông Trần Quốc Vượng hiện sẽ có nhiều lợi thế. Tuy nhiên trong ba người, thì bà Nguyễn Thị Kim Ngân có vẻ như không được truyền thống hay lịch sử “ưu ái”, vì trong lịch sử cũng như theo truyền thống Đảng chưa có Tổng bí thư nào là nữ. Ngoài ra Tổng bí thư qua tất cả các thời kì cũng đều là người miền Trung và miền Bắc. Xét trên nhưng quy ước bất thành văn đó thì hiện nay mọi cặp mắt đang đổ dồn về bộ đôi hai ông Nguyễn Xuân Phúc và ông Trần Quốc Vượng. Với các tiêu chí, “đã kinh qua và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chức danh bí thư tỉnh ủy, thành ủy hoặc trưởng ban, bộ, ngành Trung ương; tham gia Bộ Chính trị trọn một nhiệm kỳ trở lên (trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương quyết định), cho thấy việc quy định ứng cử viên Tổng Bí thư phải “đi địa phương” hay tham gia trọn một nhiệm kì Bộ Chính trị đã không còn “cứng” như trước. Nhóm “Tứ trụ” và ẩn số “miền Nam” Việc Đảng chưa có chủ tương nhất thể hóa hai chức danh Tổng Bí thư và Chủ tịch nước, nên đến Đại hội XIII, khả năng cao chúng ta lại chứng kiến sự quay lại của cấu trúc bốn chức danh chủ chốt (thường gọi là “Tứ trụ”). Vậy những ai có khả năng tiến đến những chiếc ghế còn lại trong “Tứ trụ” bao gồm Chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội. Quy định 90-QĐ/TW đối với chức danh Chủ tịch Nước đều có các tiêu chí chung cụ thể bao gồm uy tín (được hiểu là không bị các kỉ luật về Đảng, hoạc mức độ tín nhiệm cao trong Bộ chính trị đã được bỏ phiếu), năng lực nổi trội, lĩnh vực công tác. Nếu “áp” các tiêu chí chung cho nhóm “Bộ Sáu”, và “nhóm 2026” thì cả 8 vị trí tái của Bộ chính trị đều có cơ hội ngang nhau. Tuy nhiên theo tiêu chí của chức danh này là “kinh qua và nổi trội trong các lĩnh vực công tác an ninh, đối ngoại, tư pháp..,” thì ba ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, ông Tô Lâm Bộ Trưởng Công an, và ông Phạm Minh Chính, Trưởng ban Tổ chức TƯ sẽ có lợi thế hơn. Đối với chức danh Thủ tướng, ngoài các tiêu chí chung, theo lịch sử và truyền thống tất cả các Thủ tướng hay Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (trước đây) kể từ thời Thủ tướng Phạm Văn Đồng đều trưởng thành từ Phó Thủ tướng. Đó là các ông Phạm Hùng, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Xuân Phúc. Điều này thể hiện tiêu chí cho việc chọn lựa nhân sự Thủ tướng đặt yếu tố “kinh nghiệm trong điều hành bộ máy Hành pháp” lên hàng đầu. Như vậy các lợi thế sẽ thuộc về các Phó thủ tướng hiện nay, ông Trương Hòa Bình, ông Phạm Bình Minh, và ông Vương Đình Huệ. Hai ông Trịnh Đình Dũng và ông Vũ Đức Đam không tham gia Bộ Chính trị. Trong Ba Phó thủ tướng thì ông Trương Hòa Bình sinh năm 1955 thì hiện nay không đủ tiêu chuẩn tuổi để tái cử Bộ Chính trị, và về lĩnh vực phụ trách ông cũng chuyên trách về mảng nội chính, tư pháp. Ông Phạm Bình Minh chủ yếu phụ trách lĩnh vực đối ngoại. Ông Vương Đình Huệ, nếu xét về tiêu chí thứ ba trong quy định chức danh Thủ tướng là cần “có khả năng hiểu biết sâu, rộng nền hành chính quốc gia, kinh tế – xã hội đất nước; kinh tế, chính trị thế giới và hội nhập quốc tế,” thì có vẻ như là người có nhiều lợi thế nhất. Cuối cùng là chức danh Chủ tịch Quốc hội, cả hai nhóm “Bộ Sáu” và “nhóm 2026” gồm Tám Ủy viên Bộ Chính trị có thể tái cử đều có cơ hội như nhau để tiến đến chức danh đứng đầu cơ quan Lập pháp này. Tuy nhiên nếu theo tiêu chí của chức danh Chủ tịch Quốc hội như “có năng lực nổi trội, toàn diện trong các lĩnh vực công tác, xây dựng pháp luật, giám sát thực thi pháp luật…” thì bà Trương Thị Mai (SN 1958), Trưởng ban Dân Vận hiện nay đang có lợi thế hơn cả. Bà Mai, từng là Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề của Xã hội của Quốc hội, và cũng là Ủy viên Thường vụ Quốc hội hai khóa liền từ 2007-2016. Bà Mai hiện cũng là một trong Ba người có thâm niên tham gia Ban chấp hành TƯ chính thức lâu nhất (Ba khóa, từ Đại hội X, 2006) trong số “bộ Tám tái cử” cùng với hai người còn lại là ông Hoàng Trung Hải tham gia ban chấp hành TƯ Bốn khóa, từ Đại hội IX (2001) ông Vương Đình Huệ từ Đại hội X (2006). Bà là đại biểu Quốc hội có thâm niên cao nhất trong nhóm “Bộ Tám” Ủy viên Bộ Chính trị có khả năng tái cử hiện nay. Nếu không có gì thay đổi Bà sẽ tham gia làm Đại biểu Quốc hội ít nhất trọn 24 năm (kể từ năm 1997 cho đến Đại hội 2021) là người tham gia sinh hoạt nghị trường hơn hai thập kỉ liên tục. Cuối cùng cần nói thêm một truyền thống “bất thành văn” có tính chất vùng miền khó có thể bỏ qua đó là kể từ sau năm 1975, Bốn vị trí cao nhất chưa bao giờ vắng mặt một nhân vật đến từ Miền Nam. Bộ Chính trị khóa XII hiện nay có Bốn nhân vật đến từ Miền Nam bao gồm bà Nguyễn Thị Kim Ngân (Bến Tre), ông Nguyễn Thiện Nhân (Trà Vinh), ông Trương Hòa Bình (Long An), ông Võ Văn Thưởng (Vĩnh Long). Tuy nhiên trong Bốn nhân vật trên theo quy định bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn Thiện Nhân và ông Trương Hòa Bình đã quá tuổi tái cử Bộ Chính trị. Nhân vật miền Nam theo quy định đủ tuổi tái cử là ông Võ Văn Thưởng (SN 1970), Trưởng ban Tuyên giáo TƯ trưởng thành khá trẻ, ông sinh năm 1970. Vì vậy việc “Tứ trụ” khóa XIII có “cơ cấu cứng” một nhân vật đến từ Miền Nam hay không vẫn còn là một ẩn số lớn. Nhóm “ngoài Tứ Trụ” Theo nguyên tắc đến hết Khóa này số lượng Ủy viên Bộ Chính trị vẫn có thể được bổ sung để đạt trở lại con số 19 như Đại hội XII đã bầu. Nếu số lượng Ủy viên Bộ Chính trị trở lại con số 19 thì các vị trị “Tứ trụ” được dự kiến cho Đại hội XIII như phân tích ở trên theo chúng tôi không bị ảnh hưởng. Nó chỉ ảnh hưởng đối với vị trí của nhóm ở dưới, nhóm “Bộ Tám” tái cử. Đối với vị trí Thường trực Ban Bí thư, cơ hội cũng chia đều cho nhóm “Bộ Tám” Ủy viên Bộ chính trị tái cử. Tuy nhiên các nhân vật đang điều hành công tác Đảng hiện nay được chú ý hơn bao gồm các ông Phạm Minh Chính, bà Trương Thị Mai, ông Võ Văn Thưởng và ông Nguyễn Văn Bình. Vị trí Bộ trưởng Quốc phòng, nếu ông Ngô Xuân Lịch không tái cử, theo truyền thống kế cận sẽ là một nhân vật đến từ lực lượng vũ trang là Bộ Quốc phòng. Hiện nay trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư chỉ có ông Lương Cường (SN 1957) Bí thư TƯ Đảng, công tác tại Bộ Quốc phòng, ông là Đại tướng, và là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Những người ủng hộ ông đương nhiên là muốn một kịch bản lặp lại như ở Đại hội XI, lúc đó ông Ngô Xuân Lịch cũng là Bí thư TƯ Đảng và là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Vị trí Bộ trưởng Ngoại giao nếu ông Phạm Bình Minh rời đi để tiến đến một vị trí cao hơn sau hai nhiệm kì chúng ta sẽ có Tân bộ trưởng Ngoại giao. Nhân vật này theo truyền thống Bộ trưởng sẽ là người từ Bộ này, người hoạt động ngoại giao chuyên nghiệp. Duy nhất trong quá khứ tại Đại hội X (2006), Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm từ Chính phủ sang kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, do lúc đó Bộ này khủng hoảng nhân sự (chỉ bầu được một Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương, đó là Thứ trưởng Phạm Bình Minh). Bộ Ngoại giao hiện có hai thứ trưởng là Bùi Thanh Sơn và Lê Hoài Trung đều là Trung ương Ủy viên. Các vị trí còn lại như các Trưởng các ban Đảng bao gồm, Tổ chức, Tuyên giáo, Dân vận, Kinh tế, các Bộ trưởng Công an, Bí thứ Hà Nội, TP HCM theo chúng tôi vẫn còn là ẩn số cho đến khi cấu trúc các vị trí chủ chốt bên trên ổn định. Theo nguyên tắc việc cơ cấu các Ủy viên Bộ chính trị để bầu tại Đại hội thường nhắm vào các chức danh cụ thể, ngược lại các chức danh đó phải được cơ cấu “cứng” là Ủy viên Bộ chính trị nắm. Như vậy hai Bí thư TƯ Đảng hiện nay là ông Nguyễn Xuân Thắng, Chủ tịch Hội đồng Lí luận TƯ, và ông Trần Cẩm Tú, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ hiện nay đang có nhiều lợi thế để “ngồi vào” chiếc ghế Ủy viên Bộ chính trị kế tiếp. Vì thường hai vị trí này theo truyền thống đều được cơ cấu “cứng” phải là Ủy viên Bộ Chính trị nắm. “Khoảng trống 6X” Trong số 23 Ủy viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư hiện nay, chỉ có ba nhân vật sinh ở thế hệ 6X đó là ông Nguyễn Văn Bình Ủy viên Bộ Chính trị (1961), ông Trần Cẩm Tú, Bí thư TƯ Đảng (1961), và ông Trần Thanh Mẫn Bí thư TƯ Đảng (1962). Điều đặc biệt lưu ý đó là hiện trong Bộ Chính trị chỉ có một nhân vật duy nhất ở thế hệ 6X đó là ông Nguyễn Văn Bình sinh năm 1961, điều đó cho thấy đang có một khoảng trống thế hệ cho nhóm lãnh đạo thế hệ 6X, hay sự thiếu vắng những lãnh đạo chủ chốt thế hệ 6X. Võ Văn Thưởng, Nguyễn Văn Bình, ông Trần Cẩm Tú, và Trần Thanh Mẫn Điều đó dẫn đến việc Đại hội XIV (2026) một thế hệ lãnh đạo “6X,7X” nhiệm kì Bộ Chính trị Ban Bí thư Khóa này nếu được tái cử chỉ còn Bốn nhân vật là các ông Võ Văn Thưởng, Nguyễn Văn Bình, Trần Cẩm Tú và Trần Thanh Mẫn. Đó là một tỉ lệ kế cận 6X khá khiêm tốn. Do vậy chúng tôi nhận định tại Đại hội XIII chủ yếu sẽ là sự bổ sung “thế hệ tuổi từ giữa cho đến cuối 6X” cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư để đảm bảo vững chắc nguyên tắc kế thừa các thế hệ lãnh đạo. Theo như phân tích trên đây cùng với truyền thống thâm niên và kế thừa lãnh đạo nếu không có gì thay đổi, các ông Võ Văn Thưởng, Nguyễn Văn Bình, ông Trần Cẩm Tú, và Trần Thanh Mẫn, sẽ tiến đến những vị trị cao nhất trong hệ thống quyền lực tại Đại hội XIV (2026)./.
......

Chuyện gì sẽ xảy ra khi ông Trọng vô năng?

Trung Điền | Ông Nguyễn Phú Trọng đã không xuất hiện trong tang lễ của ông Lê Đức Anh vào sáng ngày 4 tháng 5 vừa qua tại Nhà tang lễ quốc gia Hà Nội. Thay vào đó, người ta đưa vòng hoa của ông Nguyễn Phú Trọng đến viếng và xướng danh ông Trọng là người đứng đầu ban tang lễ gồm 39 người. Từ sau vụ đột quỵ ở Kiên Giang hôm 14 tháng 4, sự xuất hiện của ông Nguyễn Phú Trọng trong tang lễ của ông Lê Đức Anh rất quan trọng – không phải chỉ cho riêng cá nhân ông mà còn đối với tập thể Bộ chính trị đảng CSVN. Nếu ông Trọng xuất hiện trong tang lễ, tức chỉ sau ba tuần mà phục hồi nhanh như vậy, sẽ cho thấy là cú “đột quỵ” ở Kiên Giang không đến nỗi nào, ông Trọng vẫn có nhiều tiềm năng cầm chịch hai trách vụ Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Hơn thế nữa, tang lễ của ông Lê Đức Anh có thể coi như là lễ tang cuối cùng đối với thế hệ lãnh đạo trực tiếp cuộc chiến quá khứ. Đáng lý ra, ông Trọng phải hiện diện trong vai trò người lãnh đạo cao nhất hiện nay để nói lời chia tay với thế hệ đàn anh. Nhưng có lẽ “người tính không bằng trời tính”. Sức khỏe đã không cho phép ông Trọng xuất hiện, điều này cho thấy là cú “đột quỵ” của ông Trọng vừa qua không nhẹ tý nào. Nói cách khác là tuy tính mệnh có thể không còn nguy kịch, nhưng sự hồi phục để trở lại bình thường như trước ngày 14 tháng 4 sẽ rất khó và ông Trọng sẽ dần dần rơi vào tình trạng vô năng, không còn có thể hoạt động bình thường chứ đừng nói đến việc đảm đang hai vai trò quan trọng là tổng bí thư đảng kiêm chủ tịch nước. Các biến chứng của bệnh đột quỵ nặng thường là mất trí nhớ, không còn khả năng diễn đạt, và có khi liệt tứ chi, nếu không là đi vào hôn mê vĩnh viễn. Trong trường hợp có thể phục hồi cần phải rất nhiều thời gian và nỗ lực điều trị, mà cũng không thể nào trở lại như xưa. Ở lứa tuổi gần 80, việc phục hồi lại càng không phải dễ. Đảng CSVN, dù muốn hay không, cũng sẽ phải tuyên bố việc thay thế ông Trọng mà thôi. Ông Trọng hiện nay đang đảm trách bốn công việc rất quan trọng. Công việc thứ nhất là phụ trách tiểu ban nhân sự đại hội 13. Tức là sắp xếp, chọn lọc khoảng 600 cán bộ để giữ những trách vụ trong Trung ương đảng, Bộ chính trị, Bí thư và cán bộ của 63 Tỉnh, Thành trực thuộc Trung ương, Đại biểu Quốc hội sau đại hội 13. Đây không phải là công việc dễ dàng vì phải đối đầu gay gắt với những đòn phá ngầm của các phe. Công việc thứ hai là phụ trách tiểu ban về đường lối và tài liệu đại hội 13. Tức là soạn thảo đường lối hoạt động của đảng CSVN trong 10 năm tới trong bối cảnh phai nhạt của “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Công việc thứ ba là vai trò của người “đốt lò vĩ đại”, đứng đầu Ban phòng chống tham nhũng nhằm thanh lọc hàng ngũ đảng. Công việc thứ tư là chỉ đạo nhà nước và chính phủ tiến hành chính sách đu dây sao cho hiệu quả trong bối cảnh xung đột ngày một gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, để giữ không làm sứt mẻ “tình hữu nghị” đối với Trung Cộng khi mà sự hợp tác chiến lược giữa CSVN với Hoa Kỳ ngày một gia tăng hiện nay. Đương nhiên, ông Trọng có rất nhiều người phụ tá, nhưng ở vai trò lãnh đạo, ông Trọng phải suy nghĩ để đưa ra những đề xuất và nhất là “cầm chịch” các quyết định quan trọng về nhân sự, vị trí đóng góp của từng phe, từng thành phần. Với tình hình sức khỏe như hiện nay, ông Trọng khó có thể tiếp tục làm tốt bốn công tác quan trọng này. Đó là chưa kể đến những đối thủ của ông Trọng tìm cách gây “áp lực”, tạo ra những căng thẳng trong nội bộ, khiến ông Trọng có thể phải tự buông bỏ nếu muốn bảo toàn tính mạng. Đây là những thủ đoạn thường được các phe nhóm áp dụng tại những quốc gia độc tài. Quả thật là không ai ngờ chuyến đi Kiên Giang hôm 13-14 tháng 4 lại trở thành chuyến đi định mệnh không chỉ đối với ông Trọng mà cho cả tương lai của đảng CSVN. Thứ nhất, trong tình trạng sức khỏe hiện nay, ông Trọng sẽ cần tới sự giúp đỡ của hai nhân vật thân tín, đó là Trần Quốc Vượng và Phạm Minh Chính cả về đường lối và chỉ đạo trong nội bộ đảng, đặc biệt là các chuẩn bị về nhân sự, đường lối và tổ chức đại hội 13. Vô hình chung, hai ông Vượng và ông Chính sẽ thao túng quyền lực ở trong đảng với dự kiến là ông Vượng sẽ nắm ghế Tổng bí thư và ông Chính sẽ là thường trực Ban bí thư trong đại hội 13. Ông Trần Quốc Vượng sinh năm 1953 (tuổi về hưu) trong khi ông Phạm Minh Chính sinh năm 1958 cho nên ông Chính sẽ giúp ông Vượng ở lại ghế Tổng bí thư để sau đó giúp ông Chính nắm ghế Tổng bí thư ở đại hội 14. Thứ hai, với vai trò Thủ tướng, ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ cùng lúc đóng vai trò Chủ tịch nước và Thủ tướng chính phủ trong các quan hệ đối ngoại cũng như tham dự các Hội nghị quốc tế. Nói cách khác, khi ông Trọng vô năng, ông Nguyễn Xuân Phúc nghiễm nhiên trở thành nhân vật lãnh đạo có tầm vóc duy nhất trong con mắt của quốc tế. Ông Nguyễn Xuân Phúc sinh năm 1954 là tuổi sẽ về hưu vào tháng 1/2021, nhưng với lợi thế bất ngờ hiện nay sẽ giúp cho ông Phúc có thể được Bộ chính trị và Trung ương đảng khóa 12 giới thiệu làm Tổng bí thư của khóa 13. Với kịch bản nói trên, sự vô năng của ông Trọng sẽ dẫn đến cuộc chạy đua ghế Tổng bí thư cho nhiệm kỳ 13 (2021-2026) giữa phe ông Trần Quốc Vượng và phe ông Nguyễn Xuân Phúc. Cuộc chiến sẽ bùng nổ lớn trong những ngày tháng trước mặt, và sẽ còn gay gắt hơn những gì đã xảy ra giữa hai phe Trọng-Dũng năm 2016./.
......

Việt Nam Quốc tang: Ông Trọng ‘‘biến mất’’, ‘‘tranh đoạt quyền lực’’ bắt đầu ?

Phạm Chí Dũng - RFI|   Điều gây chú ý nhất trong lễ Quốc tang tướng Lê Đức Anh, nguyên chủ tịch nước Việt Nam, hôm 03/05/2019, là sự vắng mặt của lãnh đạo Việt NamNguyễn Phú Trọng. Sự vắng mặt này có ý nghĩa như thế nào đối với chính trường Việt Nam ? Nhà báo Phạm Chí Dũng từ Sài Gòn phân tích. Những điều gì đáng chú ý trong lễ tang ông Lê Đức Anh ? Điểm đáng chú ý nhất trong lễ tang này, đó là không phải sự quan tâm đối với người đã chết, mà là sự hiện diện hay không của người còn sống - ông kiêm hai chức, tổng bí thư và chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng. Điều đặc biệt nhất trong lần này ông Nguyễn Phú Trọng đã không xuất hiện, mặc dù trước đó khoảng một tuần, bộ Ngoại Giao đã chính thức thông báo là ông Nguyễn Phú Trọng sẽ làm trưởng ban Tang lễ. Và sau đó, chủ tịch Quốc Hội là Nguyễn Thị Kim Ngân cũng thông báo là sức khỏe của đồng chí tổng bí thư, chủ tịch Nước đang hồi phục nhanh chóng. Và người ta trông chờ sự xuất hiện của ông Nguyễn Phú Trọng với một sự quan tâm chưa từng có. Tôi nhớ rằng, đã lâu lắm rồi, mà có thể là chưa từng có một lễ tang nào mà người dân – khối cán bộ, công chức lại quan tâm đến mức như thế. Và điểm thứ hai là khi ông Nguyễn Phú Trọng không xuất hiện, thì trưởng ban Lễ tang lại rơi vào một người khác. Đó là quan chức, phó thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, cũng là một ủy viên Bộ Chính Trị. Tuy nhiên, sự xuất hiện của ông Trương Hòa Bình, với tư cách trưởng ban Tang lễ tướng Lê Đức Anh dường như có một sự mâu thuẫn rất lớn với một nghị định của chính phủ số 105, quy định phải là tổng bí thư hoặc chủ tịch Nước làm trưởng ban Lễ tang (1). Từ việc ông Nguyễn Phú Trọng không có mặt trong lễ tang có thể suy ra những gì đang hoặc sắp diễn ra trong chính trường Việt Nam ? Trước mắt là vấn đề cá nhân, vấn đề sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng. Và sau đó vấn đề thứ hai là những người có thể kế nhiệm Nguyễn Phú Trọng, và những thay đổi có thể dẫn đến đảo lộn trong chính trường Việt Nam trong thời gian tới, có lẽ là không bao lâu nữa. Về sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng, mặc dù có những thông tin tích cực về việc điều trị của ông ta. Có những thông tin trước đó một tuần là ông ấy đang phục hồi, rồi tập xe lăn, cũng như tập nói, tập phát âm. Nhưng mà cho tới nay, đã hơn nửa tháng, từ khi ông Trọng bị một biến cố về sức khỏe ở Kiên Giang, nơi được gọi là « căn cứ địa cách mạng » của gia tộc Nguyễn Tấn Dũng, đã không có bất kỳ hình ảnh nào của ông Trọng. Mặc dù, báo chí, báo Đảng, hệ thống tuyên giáo vẫn ra rả đưa tin về chuyện ông Trọng, hôm nay gửi thư, điện chúc mừng giới lãnh đạo Bắc Triều Tiên, ngày mai gửi thư điện mừng đến một số quốc gia khác. Thậm chí là kể cả hình ảnh ông Trọng ngồi trên giường bệnh cũng không có nổi. Điều đó cho thấy là vấn đề sức khỏe của ông Trọng không thể là vấn đề nhỏ, mà là vấn đề rất lớn. Trong khi đó, chúng ta thấy chính trường Việt Nam đã bắt đầu có những xáo trộn ngầm. Dường như mọi chuyện đang ngưng trệ về nhiều mặt, khi ông Nguyễn Phú Trọng phải điều trị. Đang điều trị hay là biến mất khỏi chính trường ? Nếu nói là « biến mất » khỏi chính trường, thì người ta lại cho rằng tôi nói theo « thuyết âm mưu ». Nhưng thực sự là, trong nhiều trường hợp, thuyết âm mưu ở Việt Nam (hay cũng có thể gọi là các suy đoán, hay « tin đồn ») lại khá là gần với thực tế. Nếu kể đến trường hợp của trưởng ban Nội Chính Nguyễn Bá Thanh cuối 2014, đầu 2015, của bộ trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh giữa năm 2015, hay Trần Đại Quang, chủ tịch Nước vào năm 2017, 2018, thì có khá nhiều thuyết âm mưu, các thông tin đồn đoán bên ngoài, liên quan đến thuyết âm mưu đó lại được xác thực sau đó. Cũng cần phải nhắc lại một hoàn cảnh của ông Trần Đại Quang. Trước khi chết chỉ có một, hai ngày ông Trần Đại Quang còn gửi thư, điện đến một số nước, và còn tiếp đoàn Trung Quốc. Sau đó thì ông ta lăn ra chết. Nói như vậy, để cho thấy rằng, ở góc độ nào đó, khách quan mà nói, thuyết âm mưu (hay tin đồn) nó sẽ có tính xác thực, nếu như được thực tế chứng minh là đúng. Trong trường hợp ông Nguyễn Phú Trọng, có thể nói rằng, dùng từ ông ta « mất tích » hay « biến mất » khỏi chính trường Việt Nam, trong trường hợp này, vẫn có thể được. Chúng ta có thể so sánh, khi ông Trọng còn bình thường, chưa gặp vấn đề về sức khỏe, ít nhất trên mặt công luận, báo chí, thì tần suất xuất hiện là từ 2 đến 4 ngày, chậm lắm là 5 ngày. Có những giai đoạn, hàng ngày xuất hiện đều đặn. Nhưng từ 14/04/2019, khi xảy ra sự biến Kiến Giang, thì đã hơn nửa tháng rồi. Mà không xuất hiện, thì có thể dùng từ biến mất, hoặc mất tích Xin giải thích rõ hơn về cái gọi là « thuyết âm mưu » ? Với Nguyễn Phú Trọng, hiện nay có hai thuyết âm mưu, hay cũng có thể gọi là « suy đoán ». Một là ông Trọng cố ý, để né tránh việc đi « chầu Thiên tử ở phương Bắc », liên quan đến hội nghị BRI - thượng đỉnh Sáng kiến Một vành đai, Một con đường, do Trung Quốc tổ chức lần thứ hai. Thay vào đó là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Đó là thuyết âm mưu thứ nhất. Và thuyết âm mưu nữa là ông Nguyễn Phú Trọng có thể là rơi vào tình trạng bệnh tật chủ ý như vậy, là một thủ đoạn chính trị, mang tên là « giả chết bắt quạ », thường được các triều đại Trung Quốc trong lịch sử sử dụng. Hai suy đoán này có cơ sở không ? Về thuyết âm mưu thứ nhất, để tránh đi hội nghị BRI ở Trung Quốc, có một cơ sở trước đó. Nguyễn Phú Trọng đã có một số động tác giãn Trung, và song song với giãn Trung là ngả về Mỹ. Biểu hiện chứng minh rõ ràng nhất, cho việc ngả về Mỹ, là cuộc gặp tổng thống Mỹ Donald Trump ở Washington sắp tới, nếu ông ta kịp phục hồi sức khỏe. Và trong cuộc gặp đó hai bên sẽ bàn về vấn đề tăng cường và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác quốc phòng, và đặc biệt là vấn đề Biển Đông. Và kể cả sự hiện diện của một tàu sân bay thứ hai của Mỹ tại Biển Đông, có thể ngay tại cảng Cam Ranh. Và có thể bàn tiếp vấn đề hợp tác cấp chiến lược Việt – Mỹ. Đó là cơ sở cho thuyết âm mưu về việc Nguyễn Phú Trọng tránh đi Trung Quốc. Tuy nhiên, để thuyết âm mưu này đúng, thì nó phải diễn ra một việc khác : Nếu Nguyễn Phú Trọng chủ động tạo ra tình trạng bệnh tật của mình đủ nặng, để khỏi phải đi Trung Quốc, thì ông ta đã phải tìm cách thông tin, bắn tin cho Trung Quốc, đặc biệt cho các cơ quan tình báo Trung Quốc nắm được việc này, tình trạng bệnh tật của ông ta như thế nào. Nếu như vậy, thì ông ta phải thông qua một cái kênh rất ưa thích : báo Đảng. Vấn đề là, làm sao để lý giải được : Vì sao từ ngày 14/04 ở Kiên Giang đến nay, đã không có bất cứ một dòng một chữ nào từ báo Đảng, về tình trạng bệnh tật thực chất của Nguyễn Phú Trọng, mà chỉ nói theo Tuyên giáo, có vấn đề gì đó. Còn dư luận viên thì nói là ông ta chỉ bị choáng nhẹ. Thế thì việc Nguyễn Phú Trọng không sử dụng kênh báo Đảng, cho thấy, cũng giống như các trường hợp đã xảy ra của Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh, Trần Đại Quang : Đảng giấu thông tin, bưng bít thông tin, ém nhẹm thông tin, chủ ý là không thông tin ra ngoài. Mà không thông tin ra ngoài, thì làm sao Trung Quốc có thể nắm được ? Mà nếu Trung Quốc không nắm được, thì làm sao có cơ sở để tin là bệnh thật. Chuyện thứ hai là, nếu Nguyễn Phú Trọng chủ ý tạo ra bệnh của mình để « giả chết, bắt quạ », để thanh trừng trong nội bộ Đảng, thì ta lại vướng ngay phải điều mà dân gian gọi là « gậy ông, đập lưng ông ». Cái bẫy mà ông ta giăng ra với các đối thủ chính trị (bị sử dụng ngược lại). Quy định đưa ra năm 2018 : ủy viên Bộ Chính Trị, các ứng cử viên tổng bí thư phải bảo đảm được sức khỏe, có nghĩa là phải được sự xác nhận của ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trung ương, hàng tuần, hàng tháng, và thậm chí hàng ngày…. Nếu như người ta nghĩ là ông ta bị bệnh (thật), thì sẽ có những phản ứng thậm chí mạnh mẽ. Vì thế, cả hai thuyết âm mưu đều không đủ cơ sở thuyết phục. Mà giả thuyết thực tế nhất, gần gũi nhất, dễ cảm nhận được nhất, là ông ta ở cái tuổi này, đã bị một căn bệnh hành hạ. Nếu không cẩn thận, thì ông ta sẽ đi theo Trần Đại Quang và tướng Lê Đức Anh. Một số dấu hiệu khác trong lễ tang có thể cho phép nhận định về những gì diễn ra trong chính trường Việt Nam ? Tôi không nghĩ rằng có những dấu hiệu, dù là đặc biệt chăng nữa, trong lễ tang ông Lê Đức Anh lại đủ lớn, đủ sâu, để có thể cho thấy xu hướng, hoặc sự thay đổi lớn trong chính trường Việt Nam, ngoài yếu tố duy nhất như tôi đã nêu. Và nhiều người khác cũng đã biết. Đó là Nguyễn Phú Trọng không thể xuất hiện, và ông ta đang nằm nguyên trong tình trạng khó khăn về sức khỏe. Khi Nguyễn Phú Trọng rơi vào tình trạng sinh, lão, bệnh, tử, như một quy luật không thể bác bỏ, thì ông ta buộc phải để lại một khoảng trống quyền lực rất lớn. Bây giờ có đến hai ghế (bị khuyết), chứ không phải một, là tổng bí thư và chủ tịch Nước. Khoảng trống quyền lực càng lớn thì chỗ trũng càng sâu, và nước chảy càng mạnh. Có nghĩa là sẽ dâng lên một làn sóng, các quan chức cấp dưới của Nguyễn Phú Trọng, nổi lên để tranh đoạt quyền lực với nhau. Đang diễn ra một làn sóng ngầm, phân chia lại quyền lực. Giữa ba khối, khối Đảng, khối hành pháp và khối lập pháp. Trước đây, khối Đảng chỉ huy tất cả, theo nguyên tắc là Đảng lãnh đạo toàn diện. Và gần đây nhất, từ năm 2017 đến nay, xuất hiện một quan điểm rất phổ biến trong nội bộ trong Đảng, là Đảng không làm thay, mà Đảng làm luôn. Vào lúc cơ chế độc tôn, tập trung quyền lực vào tay Nguyễn Phú Trọng suy giảm, thì sẽ kéo theo việc cơ chế tập trung quyền lực về cấp trung ương cũng suy giảm theo. Tôi nghĩ rằng sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là : Khối hành pháp và khối lập pháp sẽ dần dần tách ra khỏi khối Đảng, tăng cường tiếng nói của mình. Một cách độc lập tương đối, hơn là phụ thuộc gần như tuyệt đối vào khối Đảng trước đây. Không biết có phải là ngẫu nhiên hay không, mà trong thời gian ông Trọng bị bệnh, bị « mất tích », thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có một đề nghị đáng chú ý với Quốc Hội, là tăng quyền cho thủ tướng, một số quyền không quá quan trọng, nhưng có một động thái như vậy. Tôi cho rằng mọi chuyện bắt đầu, và sắp tới sẽ diễn ra hai khuynh hướng. Khuynh hướng phân chia lại quyền lực giữa ba khối, và khuynh hướng ly tâm giữa khối địa phương với cấp trung ương. Và song song là xu hướng hình thành gần như chắc chắn một số « sứ quân » quyền lực hành chính và một số sứ quân lợi ích riêng, mà chúng ta thường gọi là « nhóm lợi ích ». Nhiều người ghi nhận ông Trần Quốc Vượng, thường trực Ban Bí Thư, tức nhân vật số hai của Đảng, trong một số bức ảnh cho thấy đi một mình đến viếng, trong khi hai phái đoàn, của chính phủ và của Đảng, lại đều do thủ tướng đứng đầu. Phải chăng sự phân hóa, như nhà báo Phạm Chí Dũng nhận định, đã bắt đầu trong chính lễ tang này ? Đúng là ông Trần Quốc Vượng lẻ loi, cô độc. Ông ta không nằm trong một đoàn nào cả, một đám đông nào cả. Tôi đặt câu hỏi là : Phải chăng đã có một sự sắp xếp cố ý ? Tôi cho đó đã là một thủ thuật chính trị, để chơi xấu lẫn nhau. Nếu đúng như vậy, thì đó quả là một sự phân hóa không nhỏ đâu. Sau đám tang Lê Đức Anh, sắp tới vào giữa tháng Năm này sẽ diễn ra hội nghị trung ương 10. Nếu không có Nguyễn Phú Trọng, hoặc có Nguyễn Phú Trọng mà không có những nội dung đặc sắc theo ý của Nguyễn Phú Trọng, thì tôi nghĩ là ngay trong hội nghị đó sẽ diễn ra những phân hóa còn lớn hơn nữa, giữa khối Đảng, hành pháp và lập pháp. Và lúc đó, người ta sẽ chứng kiến vai trò của ông Trần Quốc Vượng, nếu không cẩn thận sẽ trở nên mờ nhạt đáng kể, không kém thua hình ảnh mờ nhạt của ông ta tại lễ tang của tướng Lê Đức Anh. *** 1. Nhà báo Phạm Chí Dũng đã ghi nhận chính xác về việc có một mâu thuẫn « rất lớn » giữa vai trò « trưởng ban Lễ tang » trong Nghị định 105 về « Tổ chức lễ tang với cán bộ, công chức, viên chức » với diễn biến của buổi lễ ngày hôm qua. Trên thực tế, phụ trách Quốc tang có hai chức « trưởng ban ». Trưởng ban Lễ tang Nhà nước phải là nguyên thủ, hoặc tổng bí thư, và trưởng ban Tổ chức Lễ tang là một phó thủ tướng. Có trách nhiệm đọc điếu văn là trưởng ban Lễ tang Nhà nước. Như vậy, người làm thay vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng không phải là phó thủ tướng Trương Hòa Bình, mà là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, người đọc điếu văn hôm 03/05.    
......

Nghĩ gì khi cô Đoàn Thị Hương trở về được đón tiếp như một anh hùng

Đoàn Thị Hương về đến sân bay Nội Bài tối ngày 3/5/2019. Ảnh: Reuters   Khi kẻ bán nước được tôn vinh như danh nhân. Khi kẻ ngu muội được tôn thờ như một thiên tài. Khi kẻ giết người được tôn sùng như một anh hùng. Khi những tay du đãng hè phố trở thành thần tượng của giới trẻ. Xã hội đó sẽ chẳng còn luật pháp, thể chế đó chẳng còn cần hiến pháp bởi mọi giá trị của xã hội đã bị đảo lộn, mọi đạo lý đã bị chà đạp và những quy tắc đạo đức chỉ còn là miếng giẻ rách. Đỗ Duy Ngọc Xã hội hôm nay mọi giá trị đều bị đảo lộn. Đạo lý, đạo đức nháo nhào chẳng còn biết đâu là giá trị thật của cuộc sống. Kẻ bán nước được tôn sùng như thánh nhân. Tên trùm xã hội đen cho vay nặng lãi, đâm thuê chém mướn thành thần tượng của tuổi trẻ. Kẻ giết người được tung hô như một anh hùng. Những người còn chút lương tri, còn chịu suy nghĩ, ngơ ngác trước những biến đổi khôn lường của một xã hội bát nháo, những lối sống ngàn đời truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, trở thành nếp nhà của một gia đình, đến kỷ cương của một xã hội, giềng mối của một quốc gia chỉ trong một thời gian ngắn bị đảo lộn tất cả, thay đổi tất cả để lộ ra một đống đổ nát không còn cách cứu vãn. Chúng ta đang ngộ nhận về mọi giá trị và từ đó tạo ra một loại người ảo tưởng về giá trị của mình. Cô Đoàn Thị Hương tuy đã bị kết án và được tha trước thời hạn, nhưng cô ấy vẫn là kẻ có tội. Ca ngợi hoặc tôn vinh kẻ phạm tội là hành động nghịch lý và ngu muội. Cô ấy dù cố ý hay vô tình cũng là kẻ tham gia một vụ giết người. Kẻ bị giết không có thù hận với đất nước này, cô ấy giết một người không phải là kẻ thù của dân tộc thì hà cớ gì tung hê cô ấy như là một anh hùng lúc trở về.   Cô ấy được tha tội chết vì lòng nhân đạo, nhờ sự can thiệp của các luật sư, của ngành ngoại giao xứ Việt chứ không phải vì cô ấy vô tội. Xét cho cùng, cô ấy có tham gia tác động vào cái chết của nạn nhân. Chúng ta cám ơn toà án, cám ơn những người bênh vực cô ấy thoát tội tử hình nhưng chúng ta không thể tôn vinh cô ấy được. Chúng ta mừng cho cô ấy thoát chết trở về với gia đình, với quê hương nhưng không thể đề cao cô ấy như một chiến binh trở về sau chiến thắng. Báo chí, truyền thông đã làm một việc vô lý như một trò hề khi xúm vào để biến thành một hiện tượng truyền thông, biến cô ấy thành anh hùng và trở thành một tấm gương như Khả Bảnh, Dương Minh Tuyền để tuổi trẻ làm theo. Hiện tượng này đặc biệt nguy hiểm ở chỗ, các học sinh thần tượng những nhân vật này có thể nói là một trong những nguyên nhân khiến bạo lực học đường gia tăng. Không chỉ có bạo lực, những hành vi vi phạm pháp luật sẽ được cổ vũ và coi trọng như hành vi anh hùng. Từ đó các vụ án nghiêm trọng sẽ tăng lên tác động đến xã hội không nhỏ. Từ một cô gái bỏ nhà đi hoang, trôi giạt qua xứ người rồi phạm tội giết người, được tha tội trở về lại được các viên chức nhà nước, liên đoàn luật sư, báo chí tiếp đón như một diễn viên tầm cỡ thế giới. Một đoàn học sinh giỏi đi thi quốc tế mang về một đống huy chương lúc về nước lơ thơ người ra đón, báo chí cũng không thèm đưa tin. Hay là những học sinh giỏi này không giá trị bằng một cô gái phiêu bạt phạm tội. Tởm lợm cho báo chí hiện nay. Chính báo chí tiếp tay cho sự lẫn lộn mọi giá trị hiện nay. Họ cũng là thủ phạm khiến cho xã hội càng ngày càng sa đoạ, đạo đức xuống dốc. Loạn hết cả rồi. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, rất nhiều công dân Việt đang bị tù đày, bị bóc lột, bị ức hiếp nhưng tiếng kêu cứu của họ lạc vào vô vọng và họ chịu nỗi đau cho qua một kiếp người. Không có lãnh đạo nào, tổ chức nào, luật sư nào đoái hoài đến thân phân và kiếp tha hương của họ thì hà cớ gì ca ngợi một kẻ giết người vừa thoát tội. Khi kẻ bán nước được tôn vinh như danh nhân. Khi kẻ ngu muội được tôn thờ như một thiên tài. Khi kẻ giết người được tôn sùng như một anh hùng. Khi những tay du đãng hè phố trở thành thần tượng của giới trẻ. Xã hội đó sẽ chẳng còn luật pháp, thể chế đó chẳng còn cần hiến pháp bởi mọi giá trị của xã hội đã bị đảo lộn, mọi đạo lý đã bị chà đạp và những quy tắc đạo đức chỉ còn là miếng giẻ rách.    
......

Hòa giải và hòa hợp dân tộc: CSVN không thể chỉ kêu gọi suông.

nguyentuongthuy’s blog – RFA| Không có chuyện tránh từ “giải phóng” Hoạt động cuối cùng của đợt “kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” là màn bắn pháo hoa tại 3 điểm ở Sài Gòn vào lúc 9 giờ tối ngày 30/4/2019 với mô tả “mãn nhãn”, “thắp sáng bầu trời tp HCM”. Cụm từ “kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam” tràn ngập trên các trang báo mạng. Nếu gõ câu “kỷ niệm 44 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” vào google có thể tìm thấy ít nhất khoảng 160 tin bài. Chỉ có trang “Nhân dân” của đảng CSVN thêm chữ “hoàn toàn” – giải phóng hoàn toàn miền Nam”. Dùng chữ “hoàn toàn”, hẳn họ quên mất rằng, ở thời điểm 30/4/1975, quần đảo Hoàng Sa thuộc miền Nam quản lý đã mất vào tay Trung quốc từ hơn 1 năm trước đó, mà những người lãnh đạo của Việt Nam dân chủ cộng hòa khi đó vẫn cứ tin là TQ “giải phóng và giữ hộ” Còn nếu bỏ mấy chữ “giải phóng miền Nam” đi, gõ cụm từ “kỷ niệm 44 năm thống nhất đất nước” vào công cụ tìm kiếm thì chỉ thấy vài tin, nhưng là nói về màn bắn pháo hoa. Như vậy, không có chuyện chính quyền Việt Nam tránh nói từ “giải phóng” trong dịp kỷ niệm 30/4 năm nay như một bài viết của RFA đã đặt dấu hỏi. Đừng khoét thêm vào nỗi đau tháng Tư Việc tuyên truyền, khuếch trương chiến thắng của bên thắng cuộc chỉ khoét sâu thêm vào nỗi đau của bên thua cuộc. Phân tích kỹ thì bên thua cuộc không chỉ là miền Nam mà bao gồm tất cả những người phải chịu tổn thất trong chiến tranh. Với khái niệm này, bên thua cuộc còn bao gồm hàng triệu người lính miền Bắc và dân thường đã ngã xuống trong nỗi đau đớn của gia đình họ. Bên thua cuộc còn bao gồm những người kỳ vọng vào một đất nước thống nhất cường thịnh nhưng lòng tin ấy đã đổ vỡ Tóm lại, bên thua cuộc là nhân dân VN, còn bên thắng cuộc là những người phát động chiến tranh, giành thắng lợi và hưởng lợi từ chiến thắng ấy. Nghĩ cho cùng Mọi cuộc chiến tranh Phe nào thắng thì nhân dân đều bại… (Đá ơi – Thơ Nguyễn Duy) 44 năm đã quá đủ thời gian để nhìn nhận lại cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Người ta ngày càng rõ hơn các vấn đề như bản chất của cuộc chiến tranh, tại sao phe cộng sản thắng? Đất nước thống nhất đem lại cho nhân dân những gì? Có ý kiến đặt ngược vấn đề “ai giải phóng ai?”. Đây là một góc nhìn mới và nghiêm túc. Có lẽ trong hiện thực xã hội mục ruỗng và bế tắc hiện nay, trước tương lai mù mịt của đất nước, phe thắng cuộc không còn gì hơn là bấu víu vào quá khứ mà người ta gọi là ăn mày dĩ vãng. Oái oăm thay, quá khứ ấy càng vén lên, càng đánh thức nó dậy thì càng bất lợi cho họ. Họ phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh. Chỉ cần đặt ra mấy câu hỏi mà ai cũng trả lời được là sẽ rõ vấn đề: – Bên nào đem quân vượt vĩ tuyến 17 vào miền Nam? – Gọi là chống Mỹ xâm lược, tại sao khi quân đội Mỹ chưa tham chiến hoặc sau khi họ rút quân, chiến tranh vẫn tiếp diễn? – Tại sao miền Nam cần phải giải phóng và giải phóng khỏi cái gì? – Tỉ lệ tử sĩ trong chiến tranh (tạm lấy số liệu của wikipedia) giữa CSVN & đồng minh / VNCH / Mỹ & đồng minh là 13,2/4,7/1 nói lên điều gì? Có phải đấy là cách để làm nên chiến thắng của phe cộng sản? v.v… Việc khuếch trương chiến thắng, sỉ nhục bên bại trận là môt sai lầm mà bên thắng cuộc cố tình không nhận ra do bản chất kiêu ngạo của họ. Nó không có tác dụng gì trong việc nâng cao tầm vóc cho họ mà chỉ làm tổn thương cho phía bên kia, duy trì và khoét sâu sự hận thù. Trong khi luôn miệng kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc thì 44 năm qua, cứ vào dịp 30/4, họ lại tưng bừng kỷ niệm chiến thắng, xoáy vào nỗi đau tháng Tư của đồng bào phải chịu tổn thất trong chiến tranh. Là bên thắng cuộc, họ không những không có lòng khoan dung, cao thượng mà vẫn còn đó sự căm thù chế độ Việt Nam cộng hòa mặc dù nó đã đi vào quá khứ. Xóa sổ một chính thể, hàng triệu đồng bào bỏ chạy khỏi đất nước, hàng trăm nghìn người bỏ xác nơi biển cả, sa vào tay hải tặc, đày đọa hàng trăm nghìn cán binh VNCH trong các trại cải tạo chưa đủ làm họ thỏa mãn sao? Không thể tưởng tượng được, chỉ từ cử chỉ cầm lá cờ Việt Nam bé xíu vẫy của tổng thống Mỹ khi sang thăm Hà Nội mà ông thủ tướng lập tức nghĩ ngay đến “bọn phản động lưu vong người Việt”, và tưởng tượng ra “bọn” này “rã rời chân tay”. Năm 2005, kỷ niệm 60 năm quốc khánh, ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu…” Phát biểu của ông Kiệt được nhắc lại với tần suất rất cao mỗi khi nói về hòa giải và hòa hợp dân tộc. Cho đến nay, không có một lãnh đạo cấp cao nào nói ra được một ý tương tự. Tiếc rằng, vì quan điểm tiến bộ, cởi mở của ông mà sau đó ông bị đồng chí của mình nghi kỵ, cảnh giác. Đã có những ý kiến nghi ngờ rằng cái chết của ông có uẩn khúc. Lối cư xử với bên bại trận ở VN, làm người ta nghĩ đến cách giải quyết trong quan hệ Mỹ – Nhật sau khi Nhật Bản đầu hàng, để có được một nước Nhật ngày nay. Xa hơn nữa là cách giải quyết trong nội bộ nước Mỹ khi Liên bang miền Bắc chiến thắng trong cuộc nội chiến cách đây 1,5 thế kỷ để có một siêu cường Hoa Kỳ ngày nay. Nó khác hẳn với tư duy hẹp hòi, thiển cận và những hành động trả thù hèn hạ sau cuộc nội chiến kéo dài 20 năm ở VN của bên thắng cuộc và dai dẳng đến tận bây giờ Không thể chỉ kêu gọi suông Tác giả và một quân nhân Việt Nam cộng hòa. Ảnh Ngô Chí Thiềng Về vấn đề hòa giải và hòa hợp dân tộc, trái bóng luôn ở chân nhà nước cộng sản VN, đơn giản vì họ là bên thắng cuộc, ngoài ra họ là bên phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh. Họ có đủ quyền hành, lực lượng để chủ động trong việc ấy. Để hòa giải và hòa hợp dân tộc, cần phải thể hiện bằng những việc làm cụ thể chứ không chỉ kêu gọi suông. Người ta nhìn vào hành động để biết nhà cầm quyền có thực tâm hòa giải không. Những hành động cụ thể cần phải làm, trước hết cần dùng một tên gọi chính xác cho cuộc chiến tranh 1955 – 1975. Nếu ngại những từ “nhạy cảm” như “thôn tính”, “cưỡng chiếm”, có thể gọi là cuộc nội chiến hay chiến tranh Nam Bắc, chứ không gọi là “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” hay chiến tranh “giải phóng miền Nam”.  Cần loại bỏ vĩnh viễn những cụm từ “giải phóng miền Nam”, “đế quốc Mỹ và tay sai”, “ngụy quân ngụy quyền” ra khỏi đời sống xã hội. Phải bỏ ngày 30/4 ra khỏi ngày nghỉ lễ. Ngày 30/4 là một biến cố lịch sử. Chỉ nên tổ chức những buổi hội thảo tự do không định hướng, không kén chọn thành phần để làm rõ hơn mọi khía cạnh cuộc chiến tranh 1955 – 1975, giai đoạn đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc. Cần chấm dứt việc gây khó dễ khi xét lý lịch đi học, đi làm đối với con cháu quân cán binh VNCH. Phải loại bỏ sự phân biệt đối xử đối với những người có liên quan đến chế độ cũ. Không được gây cản trở mọi hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ những người có liên quan đến chế độ cũ, ví dụ hoạt động tri ân thương phế binh VNCH được nhà thờ Kỳ Đồng tổ chức hàng năm. Các nghĩa trang quân đội VNCH cần được chăm sóc chu đáo như những nghĩa trang liệt sĩ khác. Đừng làm cho nỗi đau của đồng bào miền Nam kéo dài thêm, cứa mãi, đau day dứt, dai dẳng như xẻo thịt bằng con dao cùn và lấy sự đau đớn ấy làm niềm vui, niềm tự hào, kiêu hãnh của mình. Những người được coi là thắng cuộc liệu có biết họ đang thua cuộc. Có trong tay cả một đất nước để rồi không biết làm thế nào cho “đất nước đứng lên”. Họ đang đứng trước một cuộc khủng hoảng toàn diện với những thách thức về lý luận, về phương pháp, về lòng tin, về sự thối nát của hệ thống chính trị và phải tìm cách thoát khỏi bế tắc. Việc thực tâm hòa giải bằng những việc làm cụ thể cũng là một cách khai thông bế tắc ấy.   2/5/2019 NTT – Cựu chiến binh miền Bắc nguyentuongthuy’s blog
......

Ông Trọng đâu rồi?

Paulus Lê Sơn! Kể từ ngày ông Nguyễn Phú Trọng bị đột quỵ hôm 14 tháng 4 vừa qua tại tỉnh Kiên Giang, tính đến nay đã hơn 3 tuần lễ. Dư luận hết sức quan tâm đến tình trạng sức khỏe và nhất là mức độ an nguy tính mệnh của người “đốt lò vĩ đại”. Mặc dù vậy, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn im lặng trước đòi hỏi công khai hiện tình sức khỏe của ông Trọng. Cho tới hôm 25/4, Bộ Ngoại Giao Việt Nam xác nhận Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng không khỏe, nhưng sẽ “sớm trở lại làm việc bình thường.” Sự đời không ai lường trước được việc gì sẽ xảy ra. Ông Lê Đức Anh – nguyên Chủ tịch nước ra đi ở tuổi 99 hôm 22 tháng 4 cũng là điều dễ hiểu. Báo chí thuộc sự kiểm soát của Đảng Cộng Sản đồng loạt đưa tin tang lễ Đại tướng Lê Đức Anh, được tổ chức với nghi thức Quốc tang, diễn ra trong hai ngày 3 và 4 tháng 5, do ông Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban lễ tang. Đây là một sự kiện buộc ông Trọng phải ra mặt sau thời gian bị đồn đoán là “đột qụy”. Theo báo Dân Trí, “quy định về việc tổ chức lễ Quốc tang, Trưởng Ban lễ tang là Tổng Bí thư hoặc Chủ tịch nước sẽ là người chủ trì lễ viếng, lễ truy điệu. Trưởng ban lễ tang tại lễ Quốc tang nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ trình bày điếu văn tưởng nhớ vị cán bộ lão thành thế hệ trước.” Tuy vậy, hôm nay tang lễ của ông Lê Đức Anh, được truyền hình trực tiếp, có người viết một cách châm biếm trên Facebook “soi kính lúp tìm cụ Tổng mà không thấy ở đâu.” Có người thì mỉa mai hơn, sâu cay hơn “Dự đám tang mà mặt mày hớn hở, miệng cười nụ cười hoa hát ‘Giờ này anh ở đâu?’ và ‘Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay!’ Thiệt là tinh thần cộng sản thắm thiết!” Trong không khí quốc tang, lẽ thường phải sầu não, tiếc thương người khuất núi. Thế nhưng người dân lại không quan tâm đến kẻ đã chết, chúng sinh không gọi vong hồn vừa lìa khỏi xác của kẻ đã nằm yên trong quan tài. Họ chỉ chăm chăm nhìn, soi, ao ước được ngắm nhìn hình hài, dung nhan của ông tổng bí thư kiêm chủ tịch nước, họ thi đua nhau gọi tên Nguyễn Phú Trọng y như gọi hồn ma ám ảnh. Ông Trọng đâu rồi, ông có nghe thấy thiên hạ gọi tên mình? “Có ai thấy Trọng đứng đâu không? nhìn hình cứ tưởng đám ma của Trọng”. Đời thế nó mới đểu. Thiên hạ dường như đang quy hướng về ông Trọng. Sự ‘vắng mặt’ của ông Trọng khiến cho lòng dân “rã rời”. Người dân đặt câu hỏi về sự vắng mặt hay gọi tên ông Trọng không phải là một chỉ dấu cho thấy sự yêu quý của họ đối với ông ta, mà chỉ vì tò mò muốn biết ông Trọng “bây giờ”… ra sao? Họ cũng thể hiện sự mỉa mai và bóc trần sự dối trá trơ trẽn của ông Trọng cùng hệ thống tuyên truyền lừa bịp của Đảng Cộng Sản. Đằng sau sự mập mờ, nhập nhằng về tình hình sức khỏe của ông Trọng là một ván bài chính trị hay cán cân quyền lực chưa được định vị rõ ràng? Dù động cơ, mục đích của nó là gì chăng nữa thì chưa bao giờ lợi ích đạt được thuộc về tay nhân dân. Phải chăng để giải bài toán trong nội bộ Đảng Cộng Sản đang đấu đá, tranh quyền đoạt vị là bài toán chưa bao giờ dễ dàng đối với ông Trọng? Có thể qua lễ tang ông Lê Đức Anh, nhiều người đã có câu trả lời cho riêng mình. Mục đích tính toán của từng cá nhân, phe nhóm sẽ được thi triển trong nay mai. Và cũng có thể, trong bức màn phủ sức khỏe không được tốt của ông Trọng sẽ nhìn thấy những ảo ảnh dần dần tỏ hiện trong cuộc đấu đá thanh trừng đang diễn ra hết sức gây cấn? Trong bối cảnh chính trị 4.0 thời nay, sự giấu diếm về tình trạng sức khỏe của ông Trọng đem đến ích lợi một nhưng thiệt hại gấp cả chục lần. Nếu đó là chiêu trò của ông Trọng cùng phe nhóm để tìm hạ và triệt hạ đối thủ thì người ta sẽ rẻ mạt cái triết lý chính trị của ông ta. Còn nếu thực sự ông Trọng sức kiệt, lực tàn, bại liệt toàn thân nơi giường bệnh mà vẫn cố duy trì quyền lực thì quả là bạc phúc, đại họa cho dân tộc. Sự khôn ngoan chính trị không đến từ não trạng già cỗi, lệ thuộc ngoại bang hay trái tim héo úa của kẻ cầm quyền độc tài sắt máu. Nhưng sự khôn ngoan ấy đến từ lòng tin, tình yêu và nền minh triết của dân tộc, biết tôn trọng và lắng nghe nhân dân, biết gìn giữ, bảo vệ non sông xã tắc trước ngoại bang. Ông Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông ta chọn sự khôn ngoan nào đây? Portland, OR 5/2/2019 Paulus Lê Sơn
......

‘Trọng bệnh’ và tương quan quyền lực ở Ba Đình

Phạm Chí Dũng/Người Việt| Một thách thức khủng khiếp Cú đổ bệnh đột ngột của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng ngay tại vùng ‘căn cứ địa cách mạng gia tộc Nguyễn Tấn Dũng’ vào ngày 14 Tháng Tư 2019 (trùng với ngày sinh nhật) có thể được xem là một bước ngoặt lớn về thế tương quan quyền lực trong chính trường Việt. Trước cú đổ bệnh đúng quy trình ‘sinh lão bệnh tử’ trên, quyền lực không chỉ được phân bổ theo chế độ trung ương tập quyền vào tay Hà Nội mà còn là cá nhân độc tài – biểu hiện qua chủ trương ‘nhất thể hóa’ từ cấp trung ương xuống các địa phương được đảng cầm quyền rốt ráo triển khai từ năm 2017 mà đã mang lại quyền lực cho ‘đảng không làm thay mà đảng làm luôn.’ Nhưng đặc biệt, ngoạn mục và gây tai tiếng nhất là Nguyễn Phú Trọng đã tự biến ông ta thành nhân vật quyền lực nhất khi ‘nhất thể hóa’ cả hai ghế tổng bí thư và chủ tịch nước ngay sau khi Trần Đại Quang lìa đời. Nhưng cho dù quyền lực có thể được kéo dài vĩnh viễn bằng cách sửa đổi hiến pháp, theo cái cách mà Tập Cận Bình đã áp đặt quốc vụ viện Trung Quốc ‘cải tạo’ hiến pháp để không giới hạn nhiệm kỳ của chủ tịch nước, mà về thực chất đã cho Tập cái quyền trở thành ‘hoàng đế suốt đời’, chẳng kẻ nào chống lại được quy luật lão hóa, bệnh tật và tử thần nhòm ngó. Cơn bạo bệnh xảy đến với Nguyễn Phú Trọng, đúng vào lúc ông ta đang ở đỉnh cao quyền lực, xứng đáng là một thách thức khủng khiếp đối với ông Trọng là có nên hoặc có buộc phải rời bỏ quyền lực để giữ sinh mạng hay không? ‘Lãnh đạo không được tham vọng quyền lực’ Từ tháng 10 năm 2018, khối lượng công việc của Nguyễn Phú Trọng đã tăng lên gần gấp đôi khi phải điều hành cả hai văn phòng tổng bí thư và văn phòng chủ tịch nước, chưa kể hàng núi vụ việc phát sinh hàng ngày hàng tuần từ chiến dịch ‘đốt lò’ do ông ta khởi tạo. Nhưng trước đó ít tháng và trùng với khoảng thời gian hàng trăm ngàn người dân Sài Gòn đổ xuống đường phản đối ‘Luật bán nước’ (một tục danh mà dân gian đặt cho Luật Đặc khu), đã có những đồn đoán ngoài lề về việc sức khỏe của Tổng bí thư Trọng ‘không được tốt lắm’. Cụ thể hơn là hai bệnh huyết áp và tim mạch. Một quan chức có ‘tham vọng quyền lực’ luôn có thể từ chối lời khuyên hay cảnh báo từ những người đồng nhiệm và giới cận thần về sự cần thiết phải tiết chế công việc nhằm bảo toàn những gì còn lại của thể trạng, nhưng không thể bỏ qua tâm trạng lo lắng và lời can gián từ những người thân ngay trong gia đình mình. Một điều rõ ràng là sau cú bạo bệnh vào Tháng Tư 2019, ông Trọng – người đã sáng tác ra khái niệm ‘lãnh đạo không được tham vọng quyền lực’ – sẽ được gia đình ông ta quyết liệt can ngăn để tránh bớt tình trạng ‘thân này ví xẻ làm đôi’ và không thể kéo dài nhiệm vụ ‘lo cho dân cho nước’. Việc, mà có thể khiến ông ta bị tái đột quỵ bất cứ lúc nào, chắc chắn nặng hơn nhiều và khiến ông ta gần với lòng đất hơn bao giờ hết. Khi đó cũng là bối cảnh của bầu không khí ‘toàn đảng, toàn quân lập thành tích chào mừng đại hội 13’. Đại hội này sẽ diễn ra vào năm 2021, mà ngay vào lúc này đã bắt đầu âm thầm nhưng sôi sục một cuộc đua quyết liệt và cả máu lửa cho những chức vị tối cao. ‘Cán bộ cấp chiến lược’ – một khái niệm mới mà những Nguyễn Phú Trọng và Trưởng ban tổ chức trung ương Phạm Minh Chính nghĩ ra, đang là mục tiêu quyến rũ với biết bao ‘đồng chí’ khác. ‘Giả chết bắt quạ’ hay sắp ‘đi’? Phạm Minh Chính lại là một trong những ứng cử viên cho chức tổng bí thư đảng tại đại hội 13, với điều kiện là Trọng chịu nghỉ. Từng là tướng công an và bí thư Quảng Ninh, Chính cũng được biết là tác giả rất nhiệt thành của ‘Luật bán nước’ từ lúc bản thảo của luật này còn phôi thai cho đến khi nó gây ra một phong trào biểu tình không lồ và căm phẫn của dân chúng. Từ khoảng cuối năm 2018, bắt đầu xuất hiện một thông tin ngoài lề đầy gợi cảm và biến động: có một khả năng là Nguyễn Phú Trọng sẽ chuyển giao quyền lực tổng bí thư cho một người thân tín, chẳng hạn như Trần Quốc Vượng, mà chỉ ngồi ghế chủ tịch nước. Và cùng với ‘nhân sự cấp chiến lược Trần Quốc Vượng’, còn một cái tên ‘chiến lược’ khác cũng được nêu ra như một phương án thay thế vị trí thủ tướng hiện thời: Vương Đình Huệ. Nhưng dù gì, thông tin trên vẫn chỉ là một thứ tin đồn mà chẳng có gì bảo đảm là sẽ xảy ra. Cũng không loại trừ cái tin Nguyễn Phú Trọng ‘nghỉ tổng bí thư’ chỉ là một thủ thuật chính trị theo kiểu ‘giả chết bắt quạ’ và bắt chết những tay mơ non choẹt kinh nghiệm nhưng ham hố ghế và háu đá. Còn giờ đây, ai cũng nhìn thấy ‘Cụ tổng’ không còn hồng hào như trước và khó còn có thể đi đây đi đó hô hào về ‘không biết đến cuối thế kỷ này có được chủ nghĩa xã hội hoàn thiện không’, thậm chí ngay cả thói quen tiếp xúc ‘cử tri trung thành’ cũng có thể bị vấn đề sức khỏe của ‘cụ’ khiến cho lơi lỏng không ít. Và ai cũng nhìn thấy trước là ‘sinh lão bệnh tử’ sẽ chẳng chừa ai, cho dù có là ‘hoàng đế’ chăng nữa. Bất cứ một chính trị gia nào một khi bị cơn đột quỵ quật ngã thì quyền lực sẽ tự nhiên biến mất. Thay vào đó là hình ảnh quyền lực bị phân ly, hoặc tản quyền, hoặc một cái tên mỹ miều nào đó nhưng thực chất phải là chia quyền cho những kẻ khác. Hẳn nhiều người đang muốn được thừa kế một mảnh quyền lực, hoặc tham vọng hơn hẳn là thay thế ‘cụ’. Trái tim nóng và cái đầu lạnh toát Nếu đến một lúc nào đó Nguyễn Phú Trọng không chỉ có ý định mà còn buộc phải tự nguyện nhường lại cái ghế tổng bí thư cho người khác, hai ứng cử viên hàng đầu đã hoặc được sắp sẵn, hoặc cố ngoi lên vị trí sắp sẵn đó: Trần Quốc Vượng và Nguyễn Xuân Phúc. Nhưng ba dấu hiệu mà Trọng phải dần chuyển giao quyền lực cho cấp dưới trong thời gian ông ta bị ‘đột quỵ’ – cho Trần Quốc Vượng điều hành về mặt đảng và tiếp đoàn thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, cho Đặng Thị Ngọc Thịnh để thay chủ tịch nước tiếp khách quốc tế, và cho Nguyễn Xuân Phúc thay Trọng đi dự Hội nghị BRI (hội nghị thượng đỉnh sáng kiến một vành đai, một con đường) ở Bắc Kinh – đã cho thấy dù muốn hay không, quyền lực của ‘Tổng tịch’ đang phải tự suy giảm như một quy luật tất yếu. Không biết vô tình hay hữu ý, trong thời gian đó đã xuất hiện một biểu hiện rõ rệt về ‘tăng quyền cho thủ tướng’ – được đề xuất từ khối chính phủ. Cũng trong thời gian đó, phía Quốc hội của Nguyễn Thị Kim Ngân có vẻ vang vọng tiếng nói hơn là thói ‘gật’ trước đây theo ý chỉ của đảng. Một cách không tuyên bố, thế cục bàn cờ chính trị Việt Nam đang lặng lẽ chuyển sang ‘tam quyền phân lập’. Nhưng không phải tam quyền phân lập theo cách của nền dân chủ và kỹ trị phương Tây, một sự phân công quyền lực và giám sát quyền lực lẫn nhau và khoa học giữa ba khối lập pháp, tư pháp và hành pháp. Mà cái được xem là ‘tâm quyền phân lập’ ở Việt Nam sẽ là khuynh hướng giãn cách hóa và khu biệt hóa giữa khối hành pháp, lập pháp với khối đảng. Não trạng và thói hành xử ‘đảng quyết định tất cả’ và sau này là ‘đảng không làm thay mà làm luôn’ sẽ dần bị phản ứng từ kín đáo đến lộ liễu và quyết liệt. Trong trường hợp căn bệnh ‘đột quỵ’ chỉ ở mức nhẹ nhàng và ‘được sự chăm sóc tận tình của đội ngũ bác sĩ y tá và gia đình,’ Nguyễn Phú Trọng vẫn phải mất tối thiểu vài ba tháng mới có thể quay trở lại điều hành tại vị trí ‘tổng tịch’. Nhưng ngày càng lộ ra rõ hơn nguy cơ cảnh báo chứng xuất huyệt não rất có thể sẽ tái diễn một cách tàn tệ nếu Trọng phải động não quá mức. Có quá nhiều điều kiện tiếp xúc với Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương, hẳn các quan chức còn lại trong ‘tam trụ’ và những ủy viên bộ chính trị khác đều cảm nhận về thời của Nguyễn Phú Trọng đã sang bên kia núi. Bên này núi, cuộc chạy đua máu lửa bắt đầu, cả bề nổi lẫn bề chìm… Ngay cả khi Nguyễn Phú Trọng còn tập quyền cá nhân, vẫn diễn ra những trận sát phạt khá ác liệt cho vị trí ‘lãnh đạo chiến lược’. Còn khi Trọng bắt đầu có dấu hiệu ‘xuôi tay’, chẳng còn gì có thể kềm giữ những trái tim nóng nảy và cái đầu lạnh toát nữa. Ngay trước mắt là thế ‘tam quyền phân lập’, hoặc còn có thể được xem là ‘tam quốc’, trước khi tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc vào thời loạn ly chính trị, cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương./.  
......

Những con bệnh Stockholm

Ảnh minh họa Pham Doan Trang Cách đây hai năm, vào tháng 4/2017 khi đông đảo làng báo Việt Nam hân hoan, cảm kích… vì Chủ tịch Hà Nội đi xe “xuống” địa bàn đối thoại với dân Đồng Tâm, tôi từng viết rằng: “Đa số nhà báo Việt Nam, nhất là trong mảng nội chính, có biểu hiện của hội chứng Stockholm ở thể nhẹ. Xin nhấn mạnh là “thể nhẹ”, bởi vì (…) tâm lý phổ biến của họ chỉ mới ở mức thông cảm với chính quyền, với các quan chức, cán bộ Đảng và Nhà nước mà họ thường xuyên tiếp xúc do yêu cầu công việc”. Đến nay, tôi phải đau lòng mà nhận ra rằng tôi viết như thế vẫn sai. Rất đông nhà báo Việt Nam mắc chứng Stockholm nặng đến nỗi họ không chỉ dừng ở mức thông cảm với chính quyền, với các quan chức, cán bộ, mà họ đi xa hơn: Họ thậm chí đã coi mình đứng cùng hàng ngũ với chính quyền, quan chức, cán bộ lãnh đạo, trở thành một người trong số “các đồng chí” ấy, một vị trí quan trọng trong bộ máy ấy. KHI BỆNH Ở THỂ NHẸ Tác nghiệp trong mảng nội chính (chính trị trong nước – pháp luật – xã hội), các nhà báo “có điều kiện” gặp gỡ thường xuyên, gần gũi, tiếp xúc trực tiếp với bộ máy quan chức của Đảng và Nhà nước. (Trong ngôn ngữ tuyên giáo, cụm từ “có điều kiện” nghĩa là “có cơ hội”, “có đặc ân”). Khi đó, khác hẳn với “dân” (tức những người không ở trong giới báo chí), nhà báo được chứng kiến những gì lãnh đạo làm, nghe những lời lãnh đạo nói, tận mắt nhìn nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của lãnh đạo. Thế là từ đó, nhà báo Việt Nam bắt đầu thấy và suy nghĩ những điều khác dân. Ví dụ như họ thấy Nguyễn Phú Trọng không phải “đảng trưởng”, “tổng bí lú”, mà chỉ còn là một ông giáo tóc bạc kính trắng, một trí thức hiền lành nho nhã, một cán bộ cao cấp mà trong sạch, không tham nhũng. Tiếp xúc sâu hơn nữa, nhà báo xúc động thấy những giây phút các nhà lãnh đạo căng thẳng lo “đàm phán với Trung Quốc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước”, ngặt nỗi “Trung Quốc mạnh quá, rắn quá, mà chúng ta thì nội lực yếu”, “muốn chống Trung Quốc thì phải có nội lực vững mạnh, phải chống tham nhũng, kinh tế-chính trị phải ổn định”, mà nếu như thế thì phải dập tắt ngay ba cái chuyện gây rối, phá phách của các thế lực thù địch, phản động… Và rồi nhà báo sẽ thấy khinh ghét đám phản động hằn học, bất mãn, không có thông tin, chẳng biết gì, chỉ chửi đổng là giỏi. HỘI CHỨNG STOCKHOLM THỂ NẶNG Giờ thì nhiều nhà báo Việt Nam mắc chứng Stockholm ở dạng nặng lắm rồi. Nghĩa là, họ không chỉ thông cảm với lãnh đạo Đảng và Nhà nước nữa, họ còn tin rằng chính mình cũng giữ một cương vị quan trọng trong hàng ngũ ấy, ngang hàng với các đồng chí lãnh đạo và giữ một nhiệm vụ rất quan trọng, ấy là nhiệm vụ tuyên truyền, giải thích đường lối của Đảng và Nhà nước cho dân. Dân chưa hiểu thì phải giải thích cho họ chứ. Tiếp xúc với lãnh đạo nhiều, có nhiều thông tin, nhất là những chuyện “cung đình”, “thâm cung bí sử”, nhà báo ta bỗng thấy mình cao hẳn lên, sang hẳn lên, quan trọng hẳn lên, ít nhất là vượt hẳn khỏi đám quần chúng dốt nát, “không có thông tin”. Tôi từng (nhiều lần) nhìn thấy vẻ mặt khinh khỉnh của những viên công an đi trấn áp biểu tình chống Tàu. Luận điệu ưa thích của chúng để hạ nhục những người bị bắt về đồn luôn là: “Đảng và Nhà nước vẫn đang xử lý vấn đề chủ quyền biển đảo, quan hệ với Trung Quốc hết sức linh hoạt, khéo léo. Các anh các chị không có thông tin nên cứ phá phách lung tung, đi biểu tình gây rối trật tự công cộng, chẳng được việc gì, khéo lại còn hại thêm nước mình”. Có công an còn bịa thêm chuyện “sinh viên Việt Nam mình du học bên Trung Quốc đến khổ vì các anh các chị đi biểu tình ở đây, hơi một tí là bị dân Trung Quốc đốt cờ”. Tôi vặn lại: Sinh viên nào, học ở đâu, chính tôi từng gặp du học sinh Việt Nam ở Trung Quốc và cả đồng nghiệp báo chí Trung Quốc đây, tôi chưa bao giờ nghe chuyện đó. Viên công an bơ đi rồi bảo tôi nghe “thông tin sai sự thật”. Cách xử lý của nhà nước công an trị với dân là như vậy đó, nhất quán từ trên xuống dưới: Chúng bưng bít, giữ dân trong tình trạng không có thông tin; và khi dân đưa thông tin ra thì chúng rống lên là “sai sự thật”, “xuyên tạc”. Cái nhà nước ấy tất yếu đẻ ra, và tồn tại nhờ một đám cán bộ công an, quân đội, nhà báo… nghiễm nhiên coi mình cao hơn dân, mình có thông tin, mình có tầm nhìn xa, có chiến lược này nọ. Công an và quân đội vốn là hai cột trụ bạo lực của đảng Cộng sản bạo lực, khủng bố, nên cách hành xử khệnh khạng, ở trên dân, của hai lực lượng này không có gì lạ. Thế nhưng, nhà báo vốn dĩ là nạn nhân của chế độ độc tài mà lại có thể đồng nhất mình với thủ phạm, thì là một điều hơi lạ, hay nói đúng hơn, một sự bệnh hoạn. * * * Tôi cũng là nhà báo. Nhưng điểm khác biệt lớn nhất giữa tôi và nhiều nhà báo khác (không phải tất cả báo giới) là: Khi chứng kiến lãnh đạo họp hành, công du, ra chủ trương này quyết sách kia, họ sẽ thành kính chiêm ngưỡng và lặng lẽ suy tư, chiêm nghiệm, tất nhiên sẽ không bao giờ tiết lộ bừa bãi thông tin mà “chỉ nói cho người cần được biết”, hoặc đôi khi khề khà nơi quán nhậu, cùng lắm là bóng gió đôi câu trên facebook. Còn tôi thì chỉ thích tầm thường hoá bọn người ấy thôi, đánh tụt đám ấy xuống thay vì nâng chúng lên bàn thờ, và làm cho ai ai cũng biết về bộ mặt thật của chúng. Chẳng hề sang trọng, cao quý, bậc nhân kiệt... gì như người ta tưởng. Tôi sẽ reo ầm lên: “Ối giời ơi, bà con ra mà xem bọn ngu lãnh đạo đất nước này”, “sao chúng ta lại phải làm dân cho cái lũ này lãnh đạo?”.
......

30/4 - 44 Năm Nhìn Lại - Nguy cơ mất nước

Đối với đại đa số người miền Nam ngày 30 Tháng 4, 1975 là ngày mất nước. Không chỉ mất miền Nam mà cả toàn thể đất nước ở hai miền Nam và Bắc vào tay những người Cộng Sản. Có nhiều người đã không đồng ý và cho rằng đất nước vẫn còn đó, vẫn do người Việt làm chủ, chỉ khác là do những người Cộng Sản thống trị bằng những quy luật mới của kẻ chiến thắng. Những cảm nhận nói trên, đa số xuất phát từ những cảm nhận chủ quan. Trong thực tế, người dân cảm nhận sự “mất nước” khi chính họ không còn bất cứ quyền gì trên phần đất mà họ đã sống. Mọi sự vận hành của xã hội và ngay cả tương lai của chính họ và gia đình đang nằm trong tay của một thiểu số đang phục vụ cho quyền lợi của ngoại bang chứ không phải quyền lợi của dân tộc. Do đó, ý nghĩa của sự “mất nước” không đến từ thái độ chính trị – Cộng Sản hay Quốc Gia – mà chính là quyền lực của nhân dân đối với chủ quyền quốc gia. Trong 4.000 năm dựng nước, dân tộc Việt đã bị mất nước 5 lần: 4 lần vào tay người Tàu và 1 lần vào tay người Pháp mà chúng ta gọi là các thời kỳ Bắc thuộc và Pháp thuộc. Thế thì ngày nay, điều gì đã khiến cho dân tộc ta có cảm nhận rằng tập đoàn lãnh đạo CSVN không còn là người Việt Nam nữa? Ông Hồ Chí Minh mê say chủ nghiã cộng sản quốc tế, đã đem chủ nghĩa này vào Việt Nam vào năm 1930, và từ đó tới năm 1975, chủ nghĩa cộng sản đã được áp dụng tại miền Bắc Việt Nam, và từ năm 1975 thì trên toàn đất nước. Ngược với “quốc gia”, cộng sản là “quốc tế”. Giấc mơ của người cộng sản là một “thế giới đại đồng”. Ông Hồ, từ khởi thủy, và những hậu duệ của ông ta về sau này, luôn là những con người “quốc tế”, sẵn sàng vứt bỏ quyền lợi của người dân và đất nước, chỉ mê say một chủ nghĩa, một thế giới cộng sản ảo tưởng mà họ điên cuồng xây dựng với bất cứ giá nào, bất kể xương máu của người dân. Câu nói của Tổng Bí Thư Đảng CSVN Lê Duẩn khi gây chiến tranh hao tổn xương máu của bao triệu người Việt ở cả hai miền Nam và Bắc: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta”, là một biểu hiện rõ rệt nhất của tinh thần “quốc tế” của những người CSVN từ thời ông Hồ cho đến tận ngày hôm nay. Trong suốt quá trình của Đảng CSVN, mặc dù đôi lần có những xung đột, cá nhân ông Hồ và Đảng CSVN của ông ta luôn giữ vai “học trò”, với tư cách cá nhân, và “chư hầu”, với tư cách quốc gia, đối với các nhà lãnh đạo như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, … Tập Cận Bình và Trung Cộng, và luôn coi nhẹ sinh mạng của người Việt và đất nước Việt Nam. Điều nghịch lý của những người lãnh đạo CSVN là trong khi lý tưởng cộng sản, ngày càng phai nhạt đến độ gần như triệt tiêu không còn gì (được thể hiện qua câu nói của Tổng Bí Thư CSVN Nguyễn Phú Trọng “… xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa …”), thì vì quyền và lợi cá nhân, sự lệ thuộc của những lãnh đạo CSVN vào những lãnh đạo cộng sản Trung Cộng ngày một gia tăng tới mức hèn hạ, nhục nhã (một lần nữa được biểu hiện qua câu phát biểu nịnh bợ trơ trẽn của Nguyễn Phú Trọng với Tập Cận Bình “Trà Việt Nam không ngon bằng trà Trung Quốc.”) Nước Việt ta đã từng có những kẻ lãnh đạo vì sợ hãi sức mạnh của giặc phương Bắc, nhất là vào thời gian mà thế giới còn biệt lập, nước mạnh dễ dàng bắt nạt nước yếu, sự can thiệp bênh vực của thế giới chưa hề được biết đến. Nhưng những người CSVN sống ở thế kỷ 20 và 21, khi thế giới đã trở thành một “ngôi làng nhỏ”, những nước nhỏ và yếu đã biết kết thành một khối và các nước mạnh không còn có thể tự tung tự tác ăn hiếp họ như nhiều trăm hay ngàn năm về trước, lại không biết sống theo thời đại để tự bảo vệ mình mà chỉ vì quyền và lợi riêng tư, đem đồng bào và đất nước bán cho giặc. Kể từ cái gọi là Mật Ước Thành Đô mà các lãnh đạo CSVN ký kết với Trung Cộng vào năm 1990, khi thì âm thầm, khi thì lộ liễu, các đời lãnh đạo Đảng CSVN kiên trì xúc tiến thực hiện điều họ đã cam kết là biến nước Việt Nam thành một tỉnh lỵ của Trung Cộng vào năm 2020. Cách nay 592 năm, kể từ khi bị Vua Lê Thái Tổ đánh đuổi ra khỏi Việt Nam vào năm 1427, nước Tàu chưa bao giờ từ bỏ ý định xâm lăng nước ta một lần nữa. Ý thức rằng việc đánh chiếm Việt Nam bằng vũ lực quân sự là khó khăn và tốn kém nên Trung Cộng lần này đã chủ định chiếm Việt Nam qua một kế hoạch và tiến trình tiệm tiến tinh vi với sự tiếp tay tận tình và đắc lực của đám lãnh đạo CSVN hèn nhược tham lam. Trước tiên là kế hoạch cài người, cài quân và dân vào Việt Nam, qua các kế hoạch trá hình như khai thác bauxite ở Tây Nguyên, kế hoạch mua rừng đầu nguồn, xây dựng các nhà máy điện, vô số các công ty sản xuất, cho phép “du khách” người Hoa đi vào Việt Nam dễ dàng, … và khủng khiếp hơn cả là các dự án đặc khu cho thuê đất tới 99 năm tại Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Cho tới giờ phút này không ai có thể biết được Trung Cộng đã cài bao nhiêu binh lính và vũ khí vào Việt Nam vì chính giới chức trách CSVN cũng không được phép bén mảng tới các đặc khu đó. Trung Cộng cũng sửa soạn đánh Việt Nam về nhiều lãnh vực và khía cạnh khác, mà quan trọng nhất, qua sự tiếp tay của Đảng CSVN, là hủy diệt khả năng chống trả của người dân khi biến Việt Nam thành một xã hội suy đồi về đạo đức, đánh mất tinh thần và niềm tự hào dân tộc, nghèo về kinh tế, hỗn loạn về chính trị, yếu nhược về quân sự, bưng bít với thế giới bên ngoài … Và để hỗ trợ cho sức mạnh và hiệu quả quân sự, gần đây nhất, Trung Cộng đã ép CSVN xúc tiến thực hiện dự án đường cao tốc Bắc Nam, chạy dọc từ Bắc xuống Nam nước Việt, mà một khi hoàn tất thì việc chuyển và điều động quân của Trung Cộng tại Việt Nam sẽ cực kỳ dễ dàng, và nếu xung đột có xảy ra thì quân đội Việt Nam không còn cách nào chống đỡ. Làm tất cả những điều kể trên cho Trung Cộng, chẳng khác nào các lãnh đạo Đảng CSVN đã trói tay Quân Đội và toàn dân Việt Nam để tùy tiện quỳ hai gối hai tay dâng đất nước của Tổ Tiên cho giặc. Họ thực sự là những kẻ tội đồ đáng ghê tởm nhất trong lịch sử dân tộc. Ngày lãnh đạo CSVN sẽ “giao hàng” cho Trung Cộng, theo Mật Ước Thành Đô, là năm 2020, nghĩa là chỉ còn không đầy một năm nữa. Để cứu đất nước Tổ Tiên khỏi rơi vào tay giặc, chỉ còn một giải pháp duy nhất là loại bỏ tức khắc Đảng CSVN và chế độ bán nước. Thời giờ còn rất ít nhưng việc cứu nước không bao giờ quá muộn. Nếu thờ ơ không hành động thì đất nước chúng ta sẽ thật sự mất, và lần này thì không chỉ là mất riêng đối với những người Quốc Gia mà là mất đối với tất cả mọi người Việt Nam, kể cả những người lãnh đạo CSVN bán nước, là những người mà giặc Trung Cộng sẽ loại bỏ đầu tiên! Đỗ Đăng Liêu Bầy ngựa thành Troie của Đảng Cộng Sản Việt Nam Cao Tốc Bắc Nam và kế Giả Đồ Diệt Quắc Ác mộng xây cao tốc Bắc – Nam  
......

30/4 - 44 Năm Nhìn Lại - Niềm tin

Đã 44 năm trôi qua kể từ sau ngày 30 tháng 4, 1975, cộng sản Hà Nội tiến chiếm miền Nam, và đặt sự cai trị độc tài man rợ của mình trên toàn cõi Việt Nam. Ngày nay đất nước này có những gì? Có đạt được như lời mị dân của Hồ Chí Minh năm 1969 “Xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”? Và trong niềm tin mơ hồ đó, hàng triệu người dân miền Bắc đã tham gia cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Trước 1975, miền Nam Việt Nam là một Quốc gia dân chủ, thịnh vượng đến nỗi mà nhiều nhà lãnh đạo của thế giới phải trầm trồ thán phục và ao ước đất nước của họ cũng được phát triển như vậy. Ông Lý Quang Diệu, Tổng thống Singapore từng ví von Sài Gòn như Hòn Ngọc Viễn Đông. Nhiều người dân xứ Hàn, Thái Lan, Philippines phải sang Việt Nam làm thuê vào thời đó. Ngày nay, sau 44 năm đổi đời từ ngày 30 tháng 4, nhìn vào trật tự xã hội đang diễn ra trong đất nước Việt Nam, ta thấy có một sự mâu thuẫn vô cùng lớn lao giữa lời nói, ý chí và hành động của người cộng sản. Đó là những gì? Việt Nam có một nền kinh tế đi xin viện trợ, đi vay vốn ODA của nước ngoài và khai thác, bán sạch tài nguyên khoáng sản từ trên rừng cho đến ngoài biển khơi. Mặt khác, hệ thống kinh tế Việt Nam bị dẫn dắt, điều khiển bởi các tập đoàn lợi ích nhóm do các phe phái trong nội bộ đảng cộng sản thao túng. Thế nên, người cộng sản dễ dàng tham nhũng với những khối tài sản khổng lồ của quốc gia một cách vô tội vạ. Kết quả thì người dân phải lãnh nhận hậu quả, nợ công tăng cao. Số liệu cũ của Bộ Tài chính cho biết vào ngày 17 tháng 8 năm 2017 thì “Mỗi người dân Việt Nam phải gánh 35 triệu đồng nợ công quốc gia vì các dự án thua lỗ, và hàng loạt các dự án vay vốn ODA bị điều chỉnh tổng mức đầu tư so với ban đầu”. Nhiều người đưa ra lý do biện minh cho đất nước vẫn còn nghèo như “mới trải qua chiến tranh… gần nửa thế kỷ”, hay Việt Nam cũng có khá lên nhờ kinh tế thị trường với đầu tư ngoại quốc gia tăng. Tuy nhiên, chúng ta đã tụt hậu so với Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore… từ vài chục năm cho đến cả một thế kỷ. Dường như những năm gần đây là giai đoạn bùng phát của căn bệnh không thuốc chữa trong hệ thống Giáo dục mà nó đã âm ỉ hàng mấy thập kỷ qua. Bạo lực học đường mỗi ngày gia tăng và trầm kha hơn. Những cảnh nam, nữ học sinh đánh đập hội đồng, thậm chí chém giết lẫn nhau hết sức đau lòng tái diễn khắp hang cùng ngõ ngách. Diễn biến một xã hội đảo điên được trình diễn với nạn mua bán bằng cấp, đổi tình lấy điểm, lạm dụng tình dục, chạy chức chạy quyền lan tràn mọi miền đất nước. Sinh viên sau khi được đào tạo đại học thì làm cu ly hay đi làm công nhân, hoặc chạy ra nước ngoài tìm cơ hội mới. Chưa có thời đại nào rực rỡ hơn dưới triều đại của cộng sản khi người dân xứ mình phải lũ lượt đi làm cu ly nơi xứ người. Hàng trăm ngàn người phụ nữ chấp nhận như một món hàng trao đổi để được làm vợ ngoại quốc, và xót xa hơn nữa có hàng ngàn phụ nữ tìm kiếm cuộc sống tốt hơn bằng nghề bán thân trên khắp thế giới. Thực trạng đau lòng của hệ thống y tế tại Việt Nam hiện nay đều quá tải, chất lượng khám chữa bệnh rất thấp. Mối quan hệ giữa y bác sĩ và bệnh nhân nằm trong trạng thái căng thẳng, đó là chưa nói đến vấn đề đầu tiên – tiền đâu. Nếu người bệnh không có tiền thì sự thờ ơ, vô cảm thấy rõ nơi bệnh viện. Ngày hôm nay ung thư trở thành căn bệnh mang tầm mức quốc gia, giết chết hàng chục ngàn người mỗi năm. Thật ra, niềm tin vào cộng sản đã từng bước bị mất mát, hụt hơi ngay trong lòng những người lính Bắc Việt khi tràn vô Sài Gòn. “Thật sai lầm khi giải phóng miền Nam” có lẽ là câu nói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong không chỉ trong quân lính mà ngay cả lãnh đạo cộng sản. Nhiều câu chuyện truyền tai hay trong hồi ký của họ viết đại ý như thế này “Sai lầm lớn nhất của miền Bắc chúng tôi là đi giải phóng miền Nam. Bởi sau cái ngày 30/4 có quá nhiều những thay đổi ngoài dự kiến của chúng tôi đã xảy ra tại miền Bắc. Bởi khi đoàn quân miền Bắc kéo về mang theo lỉnh kỉnh toàn hàng tiêu dùng của miền Nam làm dân Bắc chúng tôi sững sờ”. Thực tế, đảng cộng sản đã hoàn toàn bị mất niềm tin từ nhân dân ngày càng rõ nét. Tùy từng mức độ khác nhau, từ mất niềm tin tuyệt đối này thì có nhiều bộ phận người khác nhau có thái độ chán ghét chế độ, thậm chí chế độ trở thành mối thù của nhiều tầng lớp dân oan. Hoặc muốn thay đổi chế độ như các thành phần trí thức cộng sản, sinh viên, công nhân, nông dân. Niềm tin của nhân dân là bệ vững chắc cho mọi chế độ tồn tại, ngược lại khi niềm tin đã hết thì sự sụp đổ ắt sẽ đến dù chế độ đó có dùng nhà tù, súng đạn, đàn áp để chống đỡ, để tồn tại. Portland 28/4/2019 Paulus Lê Sơn
......

Có "Đảng" là có tất cả

Nguyễn Việt Nam |   Báo chí cộng sản tung hô thắng lợi tùm lum của đảng cộng sản làm người đọc không khỏi phì cười. Nhiều cái công nhận là cũng đúng. Ví dụ như mấy chục năm nhân dân phải ăn cơm độn, bo bo, cháo loãng...nay có miếng ăn đầy đủ dù ở nhiều nơi còn phải chịu cảnh đói rét như nhiều tỉnh vẫn phải trợ cấp lúa gạo, quần áo, thực phẩm vào mùa giáp hạt, mùa đông hay mùa thiên tai bão lũ. Tuy nhiên báo chí cộng sản không hề mảy may đề cập đến một số thực tiễn như sau. Kể từ khi có " đảng" : +) Là có cải cách ruộng đất, là đấu tố, là đâm cha chém chú, bóp vú chị dâu...là chạy trốn khỏi quê hương vào Miền Nam lánh nạn. Là hàng trăm ngàn người đã thiệt mạng để rồi cuối cùng đất đai, nông cụ, sức người, sức của về tay đảng hết sau cú lừa cải cách ruộng đất ngoạn mục này. +) Có đảng là lại có tiếp cảnh nồi da xáo thịt. Trước đây Nam- Bắc phân tranh mãi thời phong kiến. Sau này có đảng thì còn đánh nhau to hơn, máu chảy nhiều hơn với cái lý do" giải phóng" vì Miền Nam khổ lắm, lãnh đạo trong đó tàn ác lắm...Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Khác đến nỗi quân giải phóng thi nhau rửa chân, rửa mặt ở đài phun nước tròn Sài Gòn, khác đến nỗi quân giải phóng lạ lẫm lắm với những vật dụng, xe hơi, xe gắn máy, đồ gia dụng... +) Có đảng là có nợ nần đầm đìa đổ lên đầu nhân dân ngay. Từ đó sinh ra sưu cao thuế nặng, giá cả tăng vọt mà thu nhập thì không thấm vào đâu. +) Có đảng là mất đi nhiều nhân quyền. Nhân dân không được nói, được làm những điều mà người dân ở các nước tự do bình thường được làm như biểu tình, tham gia phản đối những sai trái của nhà cầm quyền, bỏ phiếu(bỏ cũng như không vì chúng nó cơ cấu hết rồi). Ai phản đối, chống đảng là có công an lao ra sẵn sàng đàn áp, bắt bớ, xử tù... +) Có đảng là có cướp bóc mạnh tay. Cướp từ đường đến chợ. Cướp từ nhà đến đất. Cướp từ thuế đến phí. Cướp từ tự do cho đến nhân quyền... +) Có đảng là nước cứ mất dần vào tay giặc Tàu. Mất thế nào chúng ta đều biết rồi đấy. +) Có đảng là hiến pháp và pháp luật chỉ như tờ giấy chùi đít. Tiền, quyền lực bẻ cong, bóp méo cả hiến pháp và pháp luật. Và người bẻ cong nó không ai khác ngoài đảng và đảng viên, lãnh đạo, cán bộ cộng sản. +) Có đảng là giang sơn tan nát. Đào hết, bán hết, buôn lậu hết, thâu tóm hết. Tất cả chỉ vì một chữ " Tiền". +) Có đảng là có nhục quốc thể. Từ lãnh đạo buôn lậu, ngáo ngơ, gật gù, xạo ke cho đến người dân dưới thời cộng sản với những tai tiếng ở trường quốc tế. +) Có đảng là có oan ức ngút trời, bao trùm khắp mọi miền tổ quốc. Dân oan bị cướp đất, án oan hình sự, khiếu kiện... +) Có đảng là nhân dân được sống với những bánh vẽ, những giấc mơ. Bánh vẽ XHCN, bánh vẽ mục tiêu, nghị quyết...mà cuối cùng chẳng cái nào vào cái nào và đi đến đâu cả. Người dân cày mãi, kéo mãi với những giấc mơ quá đỗi bình thường ở các nước tư bản giãy chết như xe máy, xe hơi, tủ lạnh, điều hòa... +) Có đảng là có những hàng triệu culi, kave, trộm cắp, lưu manh, côn đồ được xuất khẩu đi khắp năm châu bốn biển. Ôi còn nhiều thứ nữa có lắm kể từ khi có đảng. Có đảng là có tất cả. Có luôn cả một nồi cám heo mang tên "Việt Nam "./.  
......

DẤU ẤN CHIẾC XE TĂNG 30/4 SAU 44 NĂM

Manh Kim | “Kỷ niệm” 44 năm sau ngày chiếc xe tăng húc sập cổng Dinh Độc lập, mọi thứ đều tăng. Giá xăng tăng, giá điện tăng, học phí tăng, viện phí tăng, tỷ lệ người xếp hàng xin visa nước ngoài tăng, tỷ lệ đảng viên cộng sản “bỏ của chạy lấy người” tăng… Chưa kể chùa chiền tăng, tỷ lệ mê tín dị đoan tăng, tỷ lệ hiếp dâm trẻ em tăng, tỷ lệ học sinh đánh nhau tăng, tỷ lệ trộm cắp giết người tăng, tỷ lệ tai nạn giao thông tăng, tỷ lệ nữ vị thành niên phá thai tăng… Chưa kể tỷ lệ viên chức phát biểu nhảm nhí tăng, tỷ lệ cướp đất tăng, tỷ lệ phá rừng tăng, tỷ lệ phá biển tăng... Có những thứ “tăng” kỳ lạ nữa. Tỷ lệ bỉ ổi tăng, tỷ lệ trơ trẽn tăng, tỷ lệ mặt dày tăng, tỷ lệ bất lương tăng, tỷ lệ ngụy quân tử tăng… Còn nữa, tình trạng báo chí bị bịt miệng tăng, tỷ lệ tù nhân lương tâm tăng, tỷ lệ người chết trong đồn công an tăng… Chưa hết, tỷ lệ “gia đình trị” cũng tăng! Chiếc xe tăng 30-4 đã thực hiện một “nhiệm vụ lịch sử” không thể nào kinh khủng hơn. Nó đã húc không chỉ sập một cánh cổng. Nó đã phá tan một quốc gia. Nó đã nghiền vụn một nền văn hóa. Và bánh xích của nó, vẫn đang kêu ken két, còn tiếp tục nghiến nát những thứ vốn đã bị nó nghiến banh từng mảnh! Sau 44 năm, nó vẫn cho thấy nó chỉ là cái bánh xích sét gỉ với một sức mạnh thô lỗ. Nó không có trí tuệ. Đến lúc nào đó nhiệm vụ lịch sử của nó sẽ phải khép lại. Nó - không phải hình ảnh đại diện của sự "giải phóng" mà là biểu tượng của sự hủy diệt - phải bị vứt đi. Chỉ sự biến mất vĩnh viễn của nó mới đem lại mùa xuân mới trên quê hương này.  
......

Miền Nam còn giúp miền Bắc

Sài Gòn thanh bình, tự do, dân chủ và nhân quyền trước năm 1975. (Hình: Flickr manhhai) Ngô Nhân Dụng – Người Việt Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, nhiều đồng bào miền Bắc thương họ hàng ruột thịt trong Nam đói khổ, đã đem cả thúng gạo cùng mấy cái bát, đĩa vào cứu giúp. Đến nơi mới thấy dân miền Nam, khá giả giàu có hơn mình nhiều. Có người, như nhà văn Dương Thu Hương, thì ngạc nhiên thấy đời sống trí thức ở miền Nam quá tự do. Trong tiệm bày bán cả những sách về chủ nghĩa Marx! Đó là chưa kể trong đại học Văn Khoa có những lớp dạy triết học cũng giảng tư tưởng của Karl Marx! Từ năm 1975 đến nay, cuộc sống của đồng bào miền Nam và miền Bắc ảnh hưởng lẫn nhau nhiều hơn. Chế độ cai trị từ Hà Nội đè lên trên Sài Gòn hết cục cựa; nhưng quần áo, thức ăn, ca nhạc, cho đến cách cư xử của người miền Nam có cơ hội Bắc tiến. Trên báo chí, lớp ký giả miền Bắc vào tràn ngập trong Nam đem theo những ngôn ngữ và lối viết của báo Nhân Dân, nhưng trong dân gian thì tiếng nói miền Nam cũng lan ra Bắc. Có người đã nhận xét dân miền Nam được học miền Bắc những tiếng như “thu phí,” “bao cấp,” “trấn lột”; còn người Bắc bây giờ cũng thích nói những tiếng đặc miền Nam như “hổng sao!” “hổng biết!” và “dễ thương!” Nhưng đồng bào miền Bắc chỉ nhìn thấy đời sống của người miền Nam bây giờ, chớ không biết trước năm 1975 nó như thế nào. Gần đây, người ta hay so sánh cách sống của miền Nam bây giờ khác với trước năm 1975, có lẽ bà con miền Bắc nên biết. Thí dụ, dân miền Nam trọng tình người, ăn ở tử tế với nhau, vì may mắn không phải “học tập căm thù,” căm thù cả đồng bào mình. Nhà văn Tưởng Năng Tiến mới nhắc lại câu chuyện của Lữ Phương, một người Sài Gòn đã trốn “vào bưng” theo Việt Cộng, lên tới chức thứ trưởng. Ông Lữ Phương kể, trong một bút ký đã in, rằng trong khi ông vào trong rừng chống chế độ Cộng Hòa, thì vợ con ở trong thành phố của “Ngụy” vẫn không bị trấn áp. Ông viết, “Vợ tôi ngoài việc đi dạy học còn tìm được việc làm ở một tòa án tỉnh nữa. Những người quen biết đều… hết lòng giúp đỡ, che chở (ngay cả những viên chức cao cấp trong chính quyền Sài Gòn).” Ông giải thích, “chẳng phải vì lý do … là ở đây người ta chưa có thói quen ‘chính trị hóa’ mọi quan hệ xã hội.” Câu chuyện của Lê Hiếu Đằng, kể vào lúc cuối đời sau khi đã từ bỏ đảng Cộng Sản, còn đáng suy ngẫm hơn nữa. Hồi trẻ, ông Lê Hiếu Đằng hoạt động cho Cộng Sản, bị cảnh sát Cộng Hòa bắt. Trong khi ở tù, Đằng vẫn được đem theo sách để tự học. Đến kỳ thi “Tú Tài,” tức là tốt nghiệp trung học, Lê Hiếu Đằng, và một “đồng chí”cùng bị bắt, vẫn nộp đơn xin thi. Và trong ngày thi, cả hai “tù chính trị” được cảnh sát đưa tới trường thi, làm bài, và thi đậu! Trước khi nhắm mắt lìa đời, chính Lê Hiếu Đằng công nhận rằng chế độ Cộng Hòa đối xử với “người bất đồng chính kiến” nhân đạo hơn chế độ Cộng Sản rất nhiều! Nếu đồng bào miền Bắc đọc những câu chuyện của hai người trên mà kết luận rằng ai cũng nên sống theo tinh thần “nhân đạo” của người miền Nam thì rất tốt. Nhưng nhân đạo đó chỉ là một mặt của cuộc sống miền Nam, mặt đạo đức. Mặt thứ hai cần nhìn ra, là một lối sống tôn trọng luật pháp. Bà vợ ông Lữ Phương vẫn làm việc, làm cho tòa án của nhà nước Cộng Hòa; các con ông vẫn đi học, vì luật pháp không cho ai xâm phạm những quyền tự do căn bản của họ; khi chính họ không phạm luật. Ông Lê Hiếu Đằng vẫn có quyền đi thi Tú Tài vì mới chỉ bị bắt để điều tra, chưa có tòa án nào kết tội. Lê Hiếu Đằng theo Cộng Sản, ai cũng biết, nhưng chưa bị kết án thì vẫn còn đầy đủ các quyền công dân. Tinh thần trọng pháp, đó là một điều bà con miền Bắc đáng học hỏi từ cuộc sống miền Nam. Lý do đơn giản, vì từ khi Cộng Sản cướp chính quyền, họ không cai trị mà không cần luật pháp. Trong Nam có những trường đại học luật khoa ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt và Cần Thơ cũng chuẩn bị. Trường Luật ở Hà Nội bị đóng cửa từ năm 1954. Chế độ độc tài toàn trị không dùng đến luật pháp. Năm 1956 ông Nguyễn Mạnh Tường đã giải thích cuộc cải cách Ruộng Đất của đảng Cộng Sản vi phạm các nguyên tắc cơ bản của Công Lý; nhưng các lãnh tụ Cộng Sản nghe như vịt nghe sấm! Bây giờ, đảng Cộng Sản đã “đổi mới,” có trường dậy luật, có cả luật sư đoàn, nhưng cách làm việc vẫn theo lối độc tài chuyên chế! Điều quan trọng nhất là người dân ở miền Bắc vẫn chưa tạo được thói quen đòi người cầm quyền phải tôn trọng luật pháp. Dân miền Nam đã có một thời gian sống trong chế độ dân chủ tự do và nhiễm tinh thần trọng pháp cho nên bây giờ hay lên tiếng trước những cảnh bất công hơn đồng bào miền Bắc. Nhà báo Tuấn Khanh trên mạng mới kể chuyện ba phụ nữ ở Quận Thủ Đức, Sài Gòn, năm 2017 đã tố cáo vụ quan chức Cộng Sản xâm phạm một em bé gái. Nhưng “hàng chục an ninh thường phục, dân phòng, cả cảnh sát địa phương và giao thông đã chặn bắt và hành hung dã man” ba người này. Điều bi đát nhất trong câu chuyện trên không phải là cảnh một bà bị thương đầu phải đi cấp cứu, mà là câu hỏi của công an: “Đâu phải người thân của mày đâu mà mày phản ứng?” Ông công an nào hỏi câu đó chắc đã được giáo dục hoàn toàn theo lối “xã hội chủ nghĩa!” Chỉ biết sống cho mình thôi! Phải nhắm mắt trước cảnh đau khổ, bất công mà người khác gánh chịu! Sống trong một chế độ chuyên chế không biết bao nhiêu năm thì con người được đào luyện cái thói quen đó? Sau năm 1975, một người bạn tôi từ Sài Gòn về thăm làng cũ ở Thanh Hóa. Khi trở về, anh viết thư kể khi trò chuyện với họ hàng, người trong làng anh, anh thấy hầu như mọi người không ai phán đoán hành động của mình theo tiêu chuẩn “thiện, ác” nữa. Họ mất thói quen dùng các khái niệm trừu tượng này rồi. Vậy họ dùng tiêu chuẩn nào trong cuộc sống? Anh thấy họ chỉ quan tâm đến câu hỏi “Liệu có bị công an hỏi đến hay không?” “Đâu phải người thân của mày đâu mà mày phản ứng?” Đó là một quy tắc luân lý mới của chế độ công an, nhiều người quen sống như vậy dù không bị ai nhồi vào đầu! Ở miền Nam vẫn còn những người giữ thói quen “gánh giữa đàng đem quàng vào cổ.” Như ông Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Ông Đỗ Hồng Ngọc mới so sánh các nhà thương thí ở miền Nam trước 1975 với các bệnh viện trên cả nước bây giờ, sau khi chính quyền Cộng Sản bắt những người đi săn sóc bệnh nhân cũng phải đóng tiền nộp cho bộ y tế. Chắc cả thế giới không nơi nào có thể “lệ phí” như vậy! Đỗ Hồng Ngọc viết, “Ngày xưa ở miền Nam tự do, các bệnh viện công còn gọi là nhà thương thí, ở đó bệnh nhân được chữa trị không mất tiền, còn được nuôi ăn. Người nuôi bệnh có chỗ còn được cung cấp các bữa ăn, do các tổ chức xã hội phân phát… Đó là cách đối xử… nhân đạo giữa con người với nhau.” “Còn bây giờ chúng ta hành xử với nhau như thế nào?” Ông bác sĩ viết tiếp, “Đến các bệnh viện nhà nước mà xem, đa số bệnh nhân đều là người nghèo đến từ các tỉnh, có người không đủ tiền mua thuốc, và người đi nuôi bệnh thường là sống nhờ cơm từ thiện… Họ nghèo lắm, nghèo đến xác xơ… Các ngài cứ nghĩ việc tận thu, càng nhiều càng tốt, sống chết mặc bay…” Khi các ông Cộng Sản cầm đầu Bộ Y Tế bắt bệnh nhân vào “nhà thương thí” phải đóng tiền, người dân miền Nam đã ngạc nhiên. Những người như Lữ Phương, Lê Hiếu Đằng chắc ngạc nhiên nhất. Nhưng đến khi họ bắt ai đi thăm nuôi bệnh người bệnh cũng phải đóng tiền thì ai cũng phải phẫn nộ! Mấy ông Cộng Sản này là cái giống người gì đây không biết? Họ gia nhập đảng Cộng Sản vì những đặc quyền lợi ưu tiên, ưu đãi, quyền ra lệnh cho đám dân đen đóng tiền, quyền được ngồi trên pháp luật. Nếu không thì vào đảng làm cái gì? Như Tuấn Khanh kể, năm 2018 có viên quan chức ở Vũng Tàu phạm tội xâm phạm một em gái, bị tố cáo rồi lãnh mấy năm tù. Tuy tòa án Cộng Sản đã ưu đãi chỉ “giơ cao đánh khẽ,’ nhưng “thủ phạm đã tức giận đến mức đốt thẻ đảng của mình.” Anh ta tưởng đã có cái thẻ đảng làm bùa thì hiếp đáp dân lành chỉ là chuyện nhỏ! Đồng bào miền Bắc đã quen nếp sống trong chế độ như vậy lâu quá rồi. Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, bà con đã dần dần thấy một cách sống khác, có vẻ giống lối sống của ông bà, tổ tiên chúng ta đời trước hơn. Và giống với trào lưu tự do dân chủ của loài người hơn. Sẽ tới lúc người ta thấy thói quen phản kháng, “giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha” khiến con người cảm thấy đáng sống hơn, vì chính mình có giá trị hơn. Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc lên án chính sách tận thu của đảng Cộng Sản là “tàn nhẫn vô nhân đạo.” Nó “đẩy người bệnh đã nghèo càng khổ thêm… Họ lại phải nhịn ăn, bán thêm ruộng vườn để đáp ứng việc tận thu của các ngài. Khốn nạn thật!” Và ông đặt câu hỏi một chính phủ như thế “có còn nên tồn tại không?” Cái chính phủ đó vẫn còn tồn tại, cho đến khi nào người dân cả nước Việt Nam, từ Bắc vào Nam thấy cần phải thay đổi. Có thay đổi thì chúng ta mới sống “cho ra cái giống người” như cụ Tản Đà mong ước vào đầu thế kỷ 20! Ngô Nhân Dụng Nguồn: Người Việt  
......

Bốn mươi bốn năm trước ở Sài Gòn cứ vài hôm là có xuống đường…

Trúc Giang - (VNTB)| “Bí thư Nguyễn Thiện Nhân: TP.HCM hứa với Bộ Chính trị sẽ không có biểu tình” là tít của bài viết đăng trên báo Thanh Niên điện tử phát hành vào cuối giờ chiều ngày 26-4-2019, và chỉ non tiếng đồng hồ, tít tựa này được thay đổi là “Bí thư Nguyễn Thiện Nhân: Nỗ lực làm cho người dân và doanh nghiệp hài lòng”. Câu trích được chọn trình bày là điểm nhấn: “Chúng ta cần phải làm vì TP.HCM có biểu tình thì ảnh hưởng đến cả nước”, sau đó cũng được bài viết trên báo Thanh Niên ‘tháo bỏ’. Sơ sẩy của biên tập viên báo Thanh Niên, hay là…? Đoạn tường thuật sau đây cũng bị rút lại: “Từ đó, ông Nguyễn Thiện Nhân cho biết Thành ủy, UBND TP.HCM yêu cầu Công an TP.HCM phối hợp với Bộ Tư lệnh TP.HCM xây dựng phương án chống biểu tình, trong đó có phương án chống biểu tình bằng xe máy và đưa người từ các tỉnh về TP.HCM biểu tình... Theo ông Nguyễn Thiện Nhân để biểu tình không thể diễn ra, thì chính quyền cần có phương án sẵn sàng ứng phó, truyền thông tiếp cận tuyên truyền người dân không tham gia biểu tình, tách những người dẫn dắt biểu tình và biện pháp xử lý...”. (Hãng Thông tấn của Nga Sputnik, phiên bản Việt ngữ, đã kịp lấy lại toàn văn bản tin trên báo Thanh Niên vụ ‘sẽ không có biểu tình’ đó https://vn.sputniknews.com/politics/201904267434753-bi-thu-nguyen-thien-nhan-tphcm-hua-voi-bo-chinh-tri-se-khong-co-bieu-tinh/). Lời hứa “sẽ không có biểu tình” này được ông Nhân nói với lãnh đạo Quân khu 7 cùng hơn 70 vị tướng đại diện cho 112 vị tướng nghỉ hưu và đang sinh sống ở TP.HCM trong họp mặt vào chiều ngày 26-4-2019 trong chuỗi sự kiện được gọi là ‘mừng chiến thắng 30 tháng tư’. Cam kết nói trên cho thấy đã ngang nhiên vi phạm Hiến pháp, cụ thể ở Điều 25. “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Ở vế “pháp luật quy định” của Điều 25 nói trên, thì “tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân” được thể hiện tại Điều 167 của Bộ luật hình sự 2015. Điều 167 quy định: Người nào cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình và các quyền tự do, dân chủ khác của công dân (nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều khác của bộ luật này) thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm; Trường hợp phạm tội có tổ chức hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm; Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm; người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ từ một năm đến năm năm. Sợ biểu tình là phủ nhận thành quả đấu tranh cách mạng (!?) Tạm gác qua những viện dẫn trong chuyện ông bí thư Nguyễn Thiện Nhân đang dẫm đạp lên pháp luật, ở góc nhìn khác, cho thấy quả thực nếu cam kết đó là để làm đẹp lòng Bộ Chính trị như lời của ông Nhân, thì có lẽ cả ông Nguyễn Thiện Nhân lẫn ông Nguyễn Phú Trọng cùng bộ sậu trong bộ chính trị, đã phủ nhận những giá trị truyền thống cách mạng có được từ những cuộc biểu tình trong lịch sử; đặc biệt là ở giai đoạn từ tháng 5-1975 đến đầu thập niên 80 thế kỷ trước. Sách giáo khoa hiện đang giảng dạy ở trường trung học có lược thuật, vào ngày 15-5-1975, trên toàn miền Nam đã diễn ra các cuộc mít tinh, diễu hành mừng chiến thắng. Ở Sài Gòn, hàng triệu nhân dân đã xuống đường và tham dự cuộc mít tinh lịch sử… Khi ấy, ‘hàng triệu nhân dân đã xuống đường’ ủng hộ cách mạng, thế thì cớ gì 44 năm sau, tháng tư 2019, những người cộng sản lại sợ hãi biểu tình đến mức Bộ Chính trị buộc các địa phương phải cam kết “sẽ không có biểu tình”? Tháng tư năm 1975, tôi chỉ là đứa học trò trung học. Từng nghe kể chuyện các anh, chị của mình tham gia bãi khóa, xuống đường phản đối chiến tranh diễn ra hà rầm ở Sài Gòn trước năm 1975, tôi đã mang cảm giác tò mò và háo hức đó vào những lần mà nhà trường tổ chức cho học trò cầm biểu ngữ, cờ rồi hô khẩu hiệu ủng hộ chính quyền cách mạng, ủng hộ đất nước thống nhất. Tôi còn nhớ những bận xuống đường như vậy, các thầy cô dẫn đám học trò đi một vòng lớn từ đường Ngô Tùng Châu đến Phan Văn Trị rồi xuôi Nguyễn Văn Học của quận Bình Hòa về lại khu ngã tư Xóm Gà. Những đứa bạn có cha, anh bị bắt đi học tập cải tạo, tụi nó cũng hồ hỡi trong đoàn người xuống đường ấy. Chỉ đến khi nhà trường bắt đầu tổ chức những buổi xuống đường gọi là “Bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy” thì cả thầy và trò chúng tôi linh cảm có gì đó không ổn rồi đây. Tủ sách Tuổi Hoa, từ hoa đỏ cho tới hoa tím của gia đình tôi đều bị những tốp thanh niên mang băng đỏ ở cánh tay áo vào tận nhà để xét và tuyên bố tịch thu sách vở của gia đình tôi. Tôi bắt đầu sống trong cảm giác bị khủng bố từ đó. Những lần buộc phải tham gia xuống đường ủng hộ cách mạng, không còn chút thú vị nào nữa; mà đi vì sợ… Đánh tư sản Hoa kiều Chợ Lớn cùng với những đoàn người xuống đường rầm rộ, đầy vẻ đe dọa đã khiến lứa học trò chúng tôi thời đó bắt đầu oán ghét cụm từ ‘mít tinh’ (meeting), ‘xuống đường’ của chính quyền mới ở Sài Gòn, mà giờ đây đã mang tên là Hồ Chí Minh… Rồi năm tháng đi qua. Lớn lên, được dịp tìm hiểu, tôi nhận ra dường như những lần xuống đường, những cuộc tuần hành trên đường phố sau buổi lễ ‘mít tinh’ mà bọn trẻ ngày ấy của chúng tôi tham gia, đó chỉ là theo kịch bản nhằm phục vụ mục đích của nhà cầm quyền, chứ không phải là từ nhu cầu chính trị, an sinh cần lên tiếng của cộng đồng. Và giờ, sau bốn mươi bốn năm, khi chúng tôi cần thực thi quyền biểu tình, thì đến lượt nhà cầm quyền lại hãi sợ và ra sức cấm đoán, kể cả chuyện đe nẹt trấn áp, bỏ tù bằng mọi giá như tuyên bố của ông Nguyễn Thiện Nhân hôm chiều 26-4-2019.  Như vậy, khi mà  những người đang khoác áo cộng sản còn phủ nhận những thành quả có được từ biết bao cuộc xuống đường của chính họ trong lịch sử, thì liệu họ có tự tin để quản trị đất nước đủ sức ‘sánh vai cùng các cường quốc năm châu’, mà một thời gian dài từng là khẩu hiệu treo đầy ở các lớp học?
......

Có phải sức khỏe của TBT Nguyễn Phú Trọng khiến lễ tang ông Lê Đức Anh giản dị?

Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, ảnh minh họa chụp năm 1995 Trung Khang, RFA! Ông Lê Mạnh Hà, con trai của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, hôm 26 tháng 4 năm 2019 có chia sẻ với báo chí trong nước, nguyện vọng của gia đình tổ chức tang lễ cho đại tướng Lê Đức Anh đơn giản, chỉ gói gọn trong một ngày, không ảnh hưởng đến các hoạt động khác. Theo Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, sau thời gian lâm bệnh, đã từ trần hồi 20 giờ 10 phút ngày 22 tháng 4 năm 2019 tại Hà Nội. Nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh sinh ngày 1 tháng 12 năm 1920 ở Thừa Thiên – Huế, Ông giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam từ năm 1992 đến 1997. Trước đó Ông cũng nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng như Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội.v.v…   Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 26/4, từ Sài Gòn, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nhận định: “Như vậy là tốt, tổ chức rình rang làm gián đoạn nhiều việc lắm, mà quốc tang ở Việt Nam không phải là hiếm, một năm có thể có 2 hay 3 quốc tang, mỗi quốc tang diễn ra 3, 4 ngày, có thể đình đốn lại sản xuất, vui chơi giản trí của người dân và nói chung là không cần thiết. Cho nên cũng có đề nghị là quốc tang nên làm hết sức giản dị để tiết kiệm cho ngân sách, mà ngân sách cũng là tiền của dân, không việc gì phải xài lãng phí vào quốc tang.”   Từ Nha Trang, Nhà báo Võ Văn Tạo cũng đồng quan điểm, ông cho rằng theo tập quán hiện nay của Việt Nam thì nhiều quốc tang quá. Ngoài ra theo ông, nên dùng chữ quốc tang cho những vụ việc cần thiết hơn, đó là những vụ tai nạn, thiên tai, mà có nhiều đồng bào thiệt mạng. Những sự kiện như thế nhà nước nên tuyên bố quốc tang hợp lý hơn khi cả nước rất buồn. Ông nói tiếp: “Chứ còn mấy ông tứ trụ, mấy ông lãnh đạo chết, thì ít người buồn lắm, chỉ có gia đình họ buồn, người dân chả ai buồn, bản thân tôi chả buồn gì cả.” Còn Luật sư Đặng Đình Mạnh thì cho rằng, gia đình ông Lê Đức Anh ngỏ ý muốn tổ chức lễ tang giản dị khiến công chúng chưng hửng: “Nó không thuận với tính cách không hề giản dị của ông ấy khi còn sinh thời. Tuy không sống ở TP.HCM, nhưng bản thân ông Lê Đức Anh vẫn được cấp sở hữu một dinh cơ to ngất ngưởng ở đấy. Chưa đủ, ở Hà Nội, ông vẫn chiếm một ngôi biệt thự công vụ làm nhà ở cho đến tận cuối đời. Các con ông đều được cấp nhà đất khang trang.   Trả lời chúng tôi từ Đà Nẵng, Chị Huỳnh Hằng đưa ra nhận xét liên quan tang lễ của ông Lê Đức Anh: “Tôi nghĩ, các con của Ông ấy có lẽ biết điều rồi, trong khi cách đây mấy ngày bị chửi te tua, khi đăng tin Ông mất… Nhưng hãy chờ xem lễ tang giản dị như thế nào đã. Tổ chức quốc tang vào ngày 3 tháng 5 tránh ngày lễ, để khỏi ảnh hưởng đến các ngày nghỉ của người dân, là họ hiểu Ông Lê Đức Anh không có chỗ đứng trong lòng dân, có lẽ khi Ông Lê Đức Anh ra đi thì các hạt giống đỏ của Ông ấy mới biết Ông ta là tội đồ.”   Sau khi nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh qua đời, dù được hàng loạt báo chí do nhà nước kiểm soát đăng bài ca ngợi công lao và sự nghiệp của ông, nhưng các Bloggers và các trang mạng không thuộc nhà nước đã chỉ trích ông Lê Đức Anh là người khiến 64 chiến sĩ hải quân phải hy sinh khi bảo vệ Gạc Ma trong trận hải chiến với Trung Quốc hồi năm 1988. Một số nhân chứng nói rằng ông Lê Đức Anh là người đã ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng khi quân Trung Quốc chiếm đảo do Việt Nam kiểm soát ở Trường Sa năm đó.   Nghệ sĩ Kim Chi cho biết, bà gần như không quan tâm đến ông Lê Đức Anh, vì những việc ông ấy làm trong quá khứ khiến cho bà không kính trọng: “Tôi nghe người ta nói nhiều về những chuyện ổng đã làm, một trong những chuyện mà tôi bức xúc nhất là ổng ra lệnh không được chống trả trong vụ Gạc Ma. Cho đến nay, chuyện đó vẫn làm cho tôi đau lòng. Ông ấy không bình thường, kẻ thù đến thì phải chống trả, chứ sao lại để yên để người ta giết mình. Từ chuyện đó tôi coi ổng là người có tội đối với đất nước.” Ngoài ra, theo Luật sư Đặng Đình Mạnh, lời ngỏ ý làm lễ tang giản dị của gia đình ông Lê Đức Anh không đơn giản, mà có vẻ như một sự phản ứng của gia đình ông đối với sự chậm trễ công bố lễ tang cho ông Lê Đức Anh, do đang gặp khó khăn về việc cử trưởng ban lễ tang mà theo quy định, nhiệm vụ nghi thức ấy thuộc về ông Nguyễn Phú Trọng, người đang gặp vấn đề về sức khỏe.   Từ ngày 14/4/2019, trên mạng xã hội lan truyền thông tin ông Nguyễn Phú Trọng phải nhập viện khẩn cấp khi đang làm việc ở Kiên Giang. Các thông tin từ các facebook chuyên đưa tin về chính trường Việt Nam cho biết ông bị chảy máu não. Tuy nhiên, báo chí nhà nước khi đó không có bất cứ thông tin gì khẳng định hay phản bác tin này. Mãi đến ngày 25 tháng 4, Bộ Ngoại giao Việt Nam mới chính thức thừa nhận Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không được khỏe. Liên quan vấn đề này, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nhận định: “Có thể hiểu ngầm với nhau như thế này, tổ chức tang lễ một cách giản dị cũng có nghĩa là không nhất thiết phải có một ban lễ tang hoành tráng theo nghị định của chính phủ. Cũng không nhất thiết là trưởng ban lễ tang phải là tổng bí thư, chủ tịch nước, mà có thể là một người khác. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay là tổng bí thư chủ tịch nước đang có rất nhiều thông tin là không chỉ bệnh một cách bình thường mà có thể bị tai biến, bị đột quỵ và có thể đang nằm liệt tại chỗ, không thể làm trưởng ban lễ tang được.   Tiến sĩ Phạm Chí Dũng cho rằng, việc tổ chức tang lễ một cách giản dị để tránh cho ông Nguyễn Phú Trọng khỏi phải chường mặt ra, để cho người dân biết bệnh tình của ông ấy như thế nào.
......

Không nên im lặng trước việc tăng giá điện

Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN lại tăng giá điện 8,36% từ ngày 20/3/2019. Quỳnh Hương – Web Việt Tân! Sau quyết định tăng giá điện lên 8,36% từ ngày 26 Tháng Ba, nhiều người đã bị “sốc” vì số tiền điện phải trả đã tăng vọt so với tháng trước, nhiều hộ gia đình bị tăng gấp 3 – 5 lần. Ngày 20 tháng Ba, Bộ Công Thương chính thức công bố quyết định điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân năm 2019 được điều chỉnh với mức giá mới là 1.864đồng/kWh, tăng 8,36% so với mức giá bán lẻ điện bình quân hiện hành (1.720,65 đồng/kWh). Đây cũng chính là lý do mà tiền điện của người dân tăng cao trong thời gian này. Không chỉ vì giá điện tăng 8,36%, mà có một nguyên nhân khác là việc phân giá điện thành 6 bậc, hoàn toàn không hợp lý, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Theo nguyên tắc, giá bán lẻ điện bình quân thì ngành điện sẽ phân thành nhiều bậc. Phân cụ thể để khi tính toán toàn bộ sản lượng điện với tổng tiền thu được bằng mức quy định riêng cho từng bậc thang. Nếu theo cách tính 6 bậc, tổng số tiền thu được, chia cho giá điện lớn hơn giá niêm yết cho từng bậc. Việc này chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà thôi. Thật vậy, nếu tính 1 kWh điện tăng 8,36%/kWh (số điện) tức giá cơ sở thì việc tăng giá đó mới đúng với Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN) tuyên bố. Khi đó giá cơ sở của 1 kWh điện có giá 1.549 đồng thì: 1549 + (1.549 x 8,36/100)= 1.678 đồng (chỉ tăng 129đ/kWh – một trăm hai mươi chín đồng/số điện). Sau đó các mức tiếp theo lấy 129 đồng cộng vào các mức cao hơn, nếu thử với mức 2.701 đồng sẽ tăng thành 2.701+129 = 2.830 đồng. Còn thực tế đang tăng theo cách tính như sau: Tăng 8,36% của 1.549 đồng thành 1.678 đồng Tăng 8,36% của 1.600 đồng thành 1734 đồng Tăng 8,36% của 2.701 đồng thành 2.970 đồng lớn hơn 2.830 đồng tận 140đ nữa. Vậy chi chỉ riêng ở mức này người tiêu thụ đang bị mất 129+140 = 269đồng/kWh điện. Nghĩa là nó không tăng giá 1 kWh điện mà nó tăng % của chính cái bậc giá khi sử dụng tăng cao kWh điện. Kiểu tăng này khiến thực tế giá điện đang tăng 74,43%(tăng bậc) + 8,63% (tăng cơ sở) Đáng chú ý là lý do EVN phải bù lỗ cho việc chênh lệch tỷ giá từ 2017 đến nay lên đến hơn 6,5 nghìn tỷ đồng. Đây là con số rất hồ nghi do đầu vào của ngành điện hiện tại gần 40% là nhiệt điện than, còn lại là thủy điện và các năng lượng khác. Đây cũng là nhân tố dẫn đến việc tăng giá điện. Tại sao tăng giá điện? Có những nguyên nhân được nêu ra như sau: 1/ Đầu tư vào các dự án ngoài ngành bị thua lỗ triền miên. Tăng giá điện để bù lỗ là não trạng của các doanh nghiệp nhà nước. 2/ Vốn cố định của ngành điện không đủ đầu tư vào các dự án như: sân golf, hồ bơi, chung cư, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán… Vì đầu tư tràn lan như vậy, buộc EVN phải vay, mà vay thì phải trả lãi. Cho nên EVN phải tăng giá điện để lấy tiền trả lãi cho ngân hàng. 3/ Mỗi năm EVN bỏ ra từ 300-400 tỷ để in ấn khẩu hiệu, dựng áp phích, in tờ rơi… Tuyên truyền toàn dân ý thức tiết kiệm điện. Toàn bộ chi phí này được tính vào giá điện, do đó giá điện phải tăng. 4/ Giá điện tăng là do giá than đá tăng. Sau nhiều năm khai thác bán đổ, bán tháo than và quặng cho Trung Quốc. Nay ta phải nhập khẩu lại chính than của mình đã bán cho Trung Quốc với giá cao gấp 3 lần (nghĩa là, cũng số tiền này, trước kia ta bán đi 3 tấn thì bây giờ chỉ mua được 1 tấn. 5/ Giá điện, giá gaz, giá xăng, giá thuốc… tăng liên tu bất tận là do dân mình im lặng ngậm miệng chấp nhận. Nếu toàn dân xuống đường phản đối như dân Pháp vào ngày 1/12/2018, thì chắc không có chuyện tăng giá bừa bãi nữa. Đương nhiên phía EVN đưa ra nhiều nguyên nhân để biện minh cho việc tăng giá; nhưng phải nói đến nguyên nhân căn bản chính là sự thụ động và im lặng của người tiêu thụ như những con bò sữa để cho các doanh nghiệp mặc tình thao túng. Đã đến lúc những nguời tiêu thụ phải lên tiếng để buộc các công ty quốc doanh không thể khỏa lấp những lỗ lã do sai lầm quản lý bằng cách tăng giá điện, giá xăng một cách phi lý như hiện nay. Độc quyền bán Độc quyền tăng giá Khác nào thực dân   https://youtu.be/7XQNjokMMR4
......

Di sản VNCH: Khi nền văn minh đã thắng ‘chế độ man rợ’

Những ai sống ở miền Nam giai đoạn sau 30-4-1975 không thể nào quên những gì từng trải qua. Đó là những chuỗi ngày không chỉ khốn khổ về vật chất. Biết bao người không thể cầm được nước mắt khi chứng kiến cảnh hàng đống sách vở và băng đĩa nhạc bị đốt. Một cuộc thảm sát văn hóa đã xảy ra. Không chỉ sản phẩm văn hóa, con người của văn hóa cũng bị tận diệt. Nhà văn bị bỏ tù. Nhà báo bị “học tập cải tạo”. Nhà thơ đi đạp xích lô… Bất luận bị “tra tấn” và “truy diệt” tàn bạo như vậy, văn hóa VNCH vẫn không chết! Trong Hồi ký dang dở, cựu đại tá VNCH Dương Hiếu Nghĩa (từ trần ngày 14-4-2019) kể: “Ngày mồng 3 tháng 5/1975. Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ Thư viện Quốc Gia (ông Phan Văn Hữu – chú thích của MK). Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ “văn hóa đồi trụy”: Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là “Ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy” ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con “cọp 30”)… “Văn hóa đồi trụy” được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v… đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga). Mục tiêu mà các “ông cọp 30” nhắm vào trước tiên là Thư viện Quốc gia (National Library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành công pháp quốc tế, khoa học kỹ thuật, hàng không và cả khoa học không gian v.v… mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của đất nước, trong phút chốc bị “cọp 30” xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ encyclopédia lên xem mà ứa nước mắt nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay một “cọp 30” khoảng 16 tuổi tới đuổi: “Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta độc lập rồi thì ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!”… “Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại “nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai”, cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v… cũng phải được duyệt xếp loại lại. Nói tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của “Mỹ Ngụy” từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng… Có nghĩa là thay vì đẩy miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau”… Câu chuyện của ông Dương Hiếu Nghĩa là một chi tiết rất nhỏ trên bức tranh kinh khủng mà miền Nam chứng kiến giai đoạn sau 30-4-1975. Hàng ngàn câu chuyện khác đã dệt nên tấm thảm kịch mà ngày nay vẫn gây nhức nhối mỗi khi được nhắc lại. Nhà văn Dương Thu Hương từng thốt lên trong uất nghẹn: “Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải” (trích từ Ký 2, Đinh Quang Anh Thái, trang 178). Tuy nhiên, văn hóa VNCH đã không chết. Di sản văn hóa của một nền văn minh đã không hoàn toàn thua “chế độ man rợ”. Sự kéo lùi lại “sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau” đã không thành công! Sau 44 năm, người ta có thể thấy rõ điều này hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ mà văn hóa VNCH – sản phẩm của nền giáo dục khai phóng, của tinh thần sáng tạo tự do, của những tinh hoa kết tụ từ ba miền Bắc-Trung-Nam – lại trỗi dậy mạnh mẽ đến như vậy. Những nhà sách lớn giờ đây đầy tác phẩm trước 1975 được in lại (dù không ít quyển bị cắt xén kiểm duyệt). Những quyển sách về miền Nam được ghi chép lại một cách tỉ mỉ và công phu cũng xuất hiện liên tục. Nhạc “ngụy” đã chẳng còn được hát và nghe lén lút. Nó được hát trên truyền hình và phát thanh, trong các cuộc thi “bolero đi cùng năm tháng”. Phải! Văn hóa VNCH chưa bao giờ ngưng “đi cùng năm tháng” với dân tộc. Nó cho thấy dân tộc luôn lớn hơn cái gọi là “Đảng”. Nó cho thấy kiểm duyệt chẳng có chút giá trị nào đối với tâm hồn và cảm thụ của người dân. Nó, cuối cùng, cho thấy một điều lớn nhất mà muốn hay không cũng phải thừa nhận: nền văn hóa nào có tính vượt trội hơn thì nó thắng! Internet và mạng xã hội đã hỗ trợ rất nhiều trong làn sóng hồi sinh văn hóa VNCH. Nhiều trang web sách cũ đã mọc ra. Các “fan page” sách VNCH, nhạc vàng, Sài Gòn xưa… cũng xuất hiện nhan nhản. Một khảo sát nhỏ cho thấy cụ thể hơn. Trong khi trang “Nhạc Đỏ chọn lọc” (facebook.com/nhacdochonloc/) có 72 người like và 81 follow thì trang “Nhạc Vàng” (facebook.com/nhacvang/) có 188.737 like và 209.515 follow (khảo sát được truy cập lúc 8 am giờ VN, ngày 26-4-2019). Việt Nam sau “ngày thống nhất 1975” đã không thể giống miền Bắc sau 1945. Người ta đã hoàn toàn thất bại trong việc “chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người”, ít nhất về văn hóa. Một Việt Nam cộng sản, dù rập khuôn mô hình chính trị Trung Quốc, đã không thể giống Trung Quốc. Chế độ cộng sản Việt Nam không thể biến người dân Việt Nam thành một “đám ngu dân” như cách cộng sản Trung Quốc muốn. Khi thống nhất đất nước, Trung Quốc chẳng có một “miền Nam dân chủ” nào cả. Nỗ lực bắt chước Trung Quốc, đối với cộng sản Việt Nam, là bất khả thi. Nền dân chủ non trẻ mà miền Nam thụ hưởng, sau “ngày thống nhất”, đã trở thành một thứ “kháng thể” giúp chống lại, bằng cách này cách kia, những áp đặt phi dân chủ và phi tự do, đặc biệt trong văn hóa. Yếu tố kháng thể này đã âm thầm lan rộng. Nó tạo ra những ảnh hưởng nhất định. Nó ngấm ngầm nhưng nó mạnh mẽ. Nó hồi sinh và nó phát triển tự nhiên. Không ai có thể chặn nổi luồng gió trong lành này. Nó tạo ảnh hưởng ngay cả trong hệ thống của chế độ toàn trị. Đã có lúc người ta “kiếm chuyện” bằng cách “đặt vấn đề” rằng “chiến trường anh bước đi là chiến trường nào” (trong ca khúc “Con đường xưa em đi” của nhạc sĩ Châu Kỳ) nhưng rồi cũng bất thành. Khi tuyên bố “cấp phép” cho ca khúc “Ly rượu mừng”, người ta chắc hẳn đã uống một ly cồn đắng nghét bởi phải đầu hàng trước sự tồn tại hiển nhiên không chỉ của một ca khúc mà cả một nền văn hóa. Ánh sáng văn minh luôn lấn át bóng tối mọi rợ. Và bản năng tự nhiên của con người là luôn tìm đến ánh sáng. Mạnh Kim Nguồn: VOA  
......

Ông Lê Đức Anh và những đi đêm với Trung Cộng

Lý Thái Hùng | Ông Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước (1991-1997) vừa mới qua đời vào tối ngày 22 tháng 4 tại Hà Nội, thọ 99 tuổi (1920-2019). So với nhiều nhân vật lão thành ở trong đảng CSVN cùng thời như các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, ông Lê Đức Anh có một số dấu ấn lịch sử đặc biệt liên hệ đến vụ “không nổ súng trước” ở Gạc Ma vào năm 1988 và là người “tiền trạm” chuẩn bị Hội Nghị Thành Đô năm 1990, đẩy Việt Nam vào quỹ đạo Trung Cộng từ thập niên 90 kéo dài đến nay. Ra lệnh không nổ súng ở Gạc Ma Khi Đặng Tiểu Bình xua hơn 300 ngàn quân và đại pháo tấn công vào 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam vào tháng 2 năm 1979, ông Lê Đức Anh đang là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ quốc phòng ở mặt trận Tây Nam. Nghĩa là ông Anh lúc đó đang đóng quân ở Campuchia. Từ năm 1981 đến năm 1986, ông Lê Đức Anh được cử làm Thứ trưởng Quốc phòng, kiêm tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Năm 1982, được bầu vào Bộ Chính Trị khóa 5; được thăng quân hàm Đại tướng năm 1984; giữ chức Tổng Tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 1986. Sau Đại hội VI vào cuối năm 1986, ông Lê Đức Anh được đề cử giữ chức Bộ Trưởng Quốc Phòng vào tháng 2/1987. Chính từ thời gian này sự nghiệp chính trị của ông Lê Đức Anh đã thay đổi khi ông trực tiếp nhúng tay vào các quan hệ với Bắc Kinh. Dựa theo lời kể của Lê Đức Anh do Đại Tá Khuất Duy Hòa ghi lại, sau khi nhận chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, ông Lê Đức Anh đã nhiều lần đi thị sát biên giới phía Bắc và thường xuyên nói với thuộc cấp rằng: “Anh em thôi không bắn, không chửi lại nữa”. Ông Anh còn nói: “Chừ họ chửi một, các đồng chí chửi lại mười; họ bắn một, các đồng chí bắn lại mười, cứ như thế này thì không làm được công tác tư tưởng, không giải quyết dứt điểm được tình hình”. Một cán bộ hỏi ông Anh rằng nếu không bắn, không chửi lại thì làm gì để giải quyết được tình hình. Ông Lê Đức Anh bảo, họ bắc loa chửi ta thì ta nhắc lại truyền thống và quá trình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước; họ bắn sang ta bằng đạn pháo, thì ta “bắn lại” bằng tình hữu nghị! Các chiến sĩ hải quân Việt Nam đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ chủ quyền Trường Sa năm 1988. Quan điểm của ông Lê Đức Anh là chủ trương không bắn lại “quân xâm lược” Trung Quốc vào lúc đó, đủ để giải thích cho lý do vì sao ông Lê Đức Anh, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng đã ra lệnh “không nổ súng” trước sự hiếu chiến và quyết tâm chiếm đảo Gạc Ma của Trung Cộng vào ngày 14 tháng 3 năm 1988, khiến cho 64 bộ đội công binh, thuộc hạ của ông Anh đã bị tàn sát dã man. Sự kiện nói trên đã bị giấu kín. Thay vào đó, quân sử của CSVN lại viết rằng ngay sau khi Trung Quốc gây ra vụ thảm sát Gạc Ma (tháng 3/1988), Đại tướng Lê Đức Anh đã có chuyến thị sát đảo Trường Sa. Tại đây, ông có bài phát biểu tôn vinh chiến công của hải quân Việt Nam và khẳng định chủ quyền Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Sau này, trong cuộc tọa đàm kỷ niệm cuộc chiến Gạc Ma do Trung Tâm Minh Triết tổ chức vào năm 2015, Thiếu Tướng Lê Mã Lương, anh hùng lực lượng vũ trang đã kể lại rằng trong cuộc họp Bộ Chính Trị vào năm 1988, ông Nguyễn Cơ Thạch đã đập bàn và nói ai ra lệnh cho bộ đội không đuợc nổ súng. Tuy không ai trả lời cho ông Thạch, nhưng lúc đó ai cũng biết là Lê Đức Anh, trong vai trò không chỉ là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng mà còn là Ủy viên Bộ Chính Trị, đã ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng vì đang muốn lấy lòng Trung Cộng. Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ tại Trung Quốc đã cho rằng chỉ thị không nổ súng của Bộ Trưởng Lê Đức Anh là hành động phản động, phản quốc. Đi đêm với Trung Cộng vụ Thành Đô Cũng theo lời kể của ông Lê Đức Anh với Đại Tá Khuất Duy Hòa, sau Đại Hội VI vào cuối năm 1986, Bộ chính trị có buổi họp thu hẹp tại Nhà con Rồng, tức tổng hành dinh Bộ Quốc Phòng, vào đầu năm 1987. Tại cuộc họp này, ông Lê Đức Anh sau hai chuyến thị sát mặt trận biên giới phía Bắc đã cho rằng, Trung Cộng tấn công các tỉnh biên giới không có tham vọng xâm lược mà với một mục tiêu khác. Vì lý do đó, ông Anh đề nghị là đã đến lúc nên lôi kéo khối ASEAN và “làm lành” với Bắc Kinh để chấm dứt thù địch. Ông Anh cũng cho biết là ý kiến của ông đã được Trường Chinh và Bộ Chính Trị chấp thuận và giao cho ông Lê Đức Anh làm đoạn “mở đầu”. Để tiếp cận với lãnh đạo Bắc Kinh, ông Lê Đức Anh đã kể rằng việc thăm dò được thực hiện qua hai kênh. Một là qua cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn vốn có những quan hệ chặt chẽ với nhà cầm quyền Trung Cộng. Hai là qua Tòa đại sứ Trung Cộng tại Hà Nội. Thái độ của ông Lê Đức Anh là tìm mọi cách “xuống nước” với phía Bắc Kinh để chứng tỏ thiện chí và sự biết ơn của CSVN đối với những giúp đỡ của Trung Cộng. Cuộc gặp ông Trương Đức Duy, đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, tại nhà khách Bộ Quốc Phòng trong một buổi ăn tối cuối tháng 10 năm 1988 do ông Lê Đức Anh thiết đãi, được ông Anh đánh giá là bước ngoặc quan trọng, vì chính Bắc Kinh “không ngờ” phía lãnh đạo CSVN muốn nối lại quan hệ một cách “chân thành” như vậy, theo báo cáo của đại sứ Trương Đức Duy. Ông Lê Đức Anh kể lại rằng sau cuộc gặp nói trên, hai phía đã xúc tiến các cuộc đàm phán để cùng nhau giải quyết vấn đề hòa bình tại Campuchia và bình thường hóa quan hệ giữa CSVN và Trung Quốc. Tuy những cuộc đàm phán có lúc gay gắt, nhưng theo ông Lê Đức Anh thì chủ trương của ông Nguyễn Văn Linh và của ông là cố nhượng bộ để vận động về “giải pháp đỏ”, tức là Trung Quốc chấp nhận lãnh đạo khối xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tan rã của khối Đông Âu và Liên Xô. Lúc này trong nội bộ Bộ Chính Trị CSVN chia làm hai phe: Phe chủ trương nhượng bộ Trung Cộng với “giải pháp đỏ” gồm có Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đỗ Mười. Phe dè chừng và cảnh giác thái độ ngạo mạn của Trung Cộng là Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn Kiệt. Do sự phân hóa này mà trong tập Hồi Ức và Suy Nghĩ, ông Trần Quang Cơ đã tiết lộ là suốt nửa cuối năm 1990, sau khi Hội Nghị Thành Đô diễn ra (hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990) đến hết năm 1991, Trung Cộng không coi Bộ Ngoại Giao CSVN ra gì, kể cả việc đưa ra áp lực đòi CSVN phải thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch. Ông Trần Quang Cơ cũng nói thêm là vào thời điểm trước và sau Hội Nghị Thành Đô, Trung Cộng chỉ làm việc với ông Lê Đức Anh và Ban Đối Ngoại, do ông Hồng Hà đứng đầu. Hội nghị Thành Đô ngày 3-9-1990 tại Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ảnh: Internet Tháng 7/1991 cũng theo lời kể của Lê Đức Anh, sau khi được đề cử làm Thường vụ Bộ Chính Trị, ông Anh được cử làm Phát ngôn viên của Bộ Chính Trị đi cùng với Hồng Hà sang Bắc Kinh bàn bạc những vấn đề cụ thể về việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Ông Lê Đức Anh cho biết là sau khi đến Bắc Kinh, ông làm việc với Kiều Thạch, Ủy viên thường vụ Bộ Chính Trị của Trung Cộng, chuẩn bị cho những văn kiện căn bản sẽ được dùng cho cuộc Hội đàm chính thức giữa Giang Trạch Dân với ông Lê Đức Anh vào chiều ngày 31 tháng 7 năm 1991. Ông Lê Đức Anh không kể chi tiết những vấn đề cụ thể hai phía đã đồng ý, mà chỉ nói chung chung là Trung Quốc đã rất “phấn chấn” về thái độ hợp tác của phía CSVN đưa ra vì đáp ứng nhu cầu cải cách, mở cửa của Bắc Kinh. Sau chuyến đi “đàm phán” của Lê Đức Anh, ông Nguyễn Cơ Thạch thôi không làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, thay thế bởi ông Nguyễn Mạnh Cầm, cựu đại sứ CSVN tại Liên Xô, để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Trung Quốc của hai ông Đỗ Mười (Tổng Bí Thư) và Võ Văn Kiệt (Thủ Tướng) từ ngày 5 đến 10 tháng 11 năm 1991. Với công lao này, Lê Đức Anh được nâng vào hàng tứ trụ, trở thành Chủ tịch nước từ tháng 9 năm 1992. Lê Đức Anh được coi là nhân vật bảo thủ nhất và gần với Trung Quốc. Ông Anh thường xuyên phản đối tham vọng cải cách kinh tế của ông Võ Văn Kiệt và luôn luôn đứng về phía Đỗ Mười để xây dựng hạt nhân thân Trung Quốc trong nội bộ đảng CSVN. Mặc dù về hưu năm 1997, nhưng tiếng nói của Lê Đức Anh và Đỗ Mười có những ảnh hưởng rất lớn trong nội bộ, đặc biệt là đối với Nông Đức Mạnh (Tổng Bí Thư) và Nguyễn Tấn Dũng (Thủ Tướng) từ năm 2000 đến năm 2011. Ông Lê Đức Anh. Ảnh: VietNam Finance Sự kiện ông Lê Đức Anh qua đời hôm 22 tháng 4 cho thấy là những nhân vật liên hệ trong vụ mật ước Thành Đô của phía CSVN đã không còn ai. Cho đến nay, nội dung mật ước chưa được tiết lộ, nhưng Giang Trạch Dân và Lý Bằng bên Tàu còn sống. Điều này cho thấy là những nội dung đàm phán hai bên, được thi hành vào năm 2020 như dư luận tố cáo từ nhiều năm qua, thì Trung Quốc sẽ nắm dao đằng chuôi. Rất bất lợi cho Việt Nam. https://viettan.org/ong-le-duc-anh-va-nhung-di-dem-voi-trung-cong/
......

Tin thật mới đánh bật được tin đồn

   Thiện Tùng!   Chỉ trong vòng nữa tháng từ cuối tháng 3 đến 14/4/2019, 2 sự kiện nối tiếp xảy ra gây xôn xao dư luận trong và ngoài nước, đó là vụ “buôn thần bán thánh” ở chùa Ba Vàng và vụ Tổng Bí thư+Chủ tịch nước bị tai biến khi đi công vụ ở tỉnh Kiên Giang.    Nếu ghi nhận vụ “Buôn thần bán hánh” ở chùa Ba Vàng do Báo Lao động phát giác đầu tiên thì vụ ông Trọng bị tai biến do Lê Nguyễn Hương Trà (cô gái Đồ Long) đưa tin sớm nhứt.    Cho đến giờ nầy, với những gì đã diễn ra cho phép chúng ta kết luận: Cô gái Đồ Long đưa tin ông Trọng bịnh không ngoài sự thật.  Qua theo dõi, ngay từ đầu, thông tin về ông Trọng bị tai biến của Hương Trà bị phía Quốc doanh chụp mũ là xuyên tạc, bịa đặt. Giờ thì “ngô khai” đã rõ, phía Quốc doanh chuyển hướng lên án Hương trà nói riêng, dư luận xã hội nói chung xâm phạm đời tư, bịnh tật … lãnh đạo là vi phạm “Luật Bảo vệ Bí mật Nhà nước”.   Luật gì kỳ vậy! Người viết tìm gặp và đọc kỹ 2 văn bản:    -  Luật  số 29/2018 về  “Bảo vệ Bí mật Nhà nước” được Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2020 (đầu quí 3/2020), do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn thị Kim Ngân ký ngày 15/11/2018.   -  Quyết  định số 199/QĐ TTg về kế hoạch thi hành luật  số 19/2018 “Bảo vệ Bí mật Nhà nước”, do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký ngày 19/02/2019.   Cả hai Luật và Quyết định đều không thấy điều khoản nào cấm người dân tìm hiểu đời tư và bịnh tật… của quan chức nói chung.   Cũng phải thôi: Muốn cấm người dân không được tìm hiểu đời tư, bịnh tật… của mình thì đừng làm quan chức Nhà nước. Trừ những quan chức làm nhiệm vụ đặc biệt phải giữ kín hành tung, về pháp lý và đạo lý, người dân có quyền biết 2 đối tượng:   1/ Dù chính danh hay không, quan chức trong hệ thống Nhà nước từ thấp đến cao là người của công chúng, do công chúng trả lương… Vì sự tồn vong quốc gia, dân tộc và bản thân thân của mình, người dân có nghĩa vụ theo dõi, giám sát hành tung của quan chức để  bảo vệ, trọng dụng những hiền tài; lên án, bãi miễn những kẻ cơ hội, thất đức, vô lương.    2/ Người đân còn có quyền biết hành tung những cá nhân, băng nhóm tội phạm để tham gia truy quét chúng, góp phần bảo vệ an nguy cho  xã hội, gia đình và bản thân mình.   Thực tế cho thấy,  khi Tổng Bí thư+Chủ tịch nước bị tai biến là dịp mọi người Việt Nam bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình đối với ông Trọng:   -  Nếu Ông không làm việc được nữa hoặc qua đời sẽ không còn ai “đốt lò” diệt trừ tham nhũng. Bọn quan tham sẽ ngóc đầu dậy.   - Nếu không có/còn ông Trọng, đám tham quan sẽ hí hửng, coi như mình tạm thời thoát nạn. Nếu không moi móc được gì thêm, cũng có thời gian tính chuyện bảo vệ người và tiền của đã dày công thu vén.    -  Đã lâu rồi, đa số người dân, có cả đảng viên, không còn tin khả năng ông Trọng. Hết làm Chủ tịch Quốc hội đến làm Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước (1), ông Trọng  không làm nổi chức trách của mình: Để đảng viên tham nhũng lan tràn / Để  đất nước ngày một phụ/lệ thuộc ngoại bang / Để tài nguyên, môi trường bị tàn phá thảm hại / Để nợ nần chồng chất / Để xã hội ngày một rối loạn ..v.v…Nhìn chung, người dân chưa đủ gan nói: “Ông Trọng cút đi” nhưng thâm tâm của họ muốn ông Trọng rời quan trường càng sớm càng tốt để may ra đất nước, dân tộc    thoát  khỏi những hiểm họa đáng nguyền rủa như vừa kể.    Người ta thường nói “Cha sinh mẹ đẻ”. Đúng vậy, có quan hệ tình dục giữa nam nữ, người nữ mới mang thai và sinh con. Hoặc người nữ không chồng muốn có con phải thụ tinh (nam) mới may ra sinh được con.   Trong cộng đồng dân tộc lắm người không chồng mà “cải thiện” bằng cách nào đó vẫn có con. Trường hợp nầy, khi đứa nhỏ ra đời thường lấy họ mẹ .   Ai mà chẳng có cha và mẹ? Nếu trong lý lịch (tiểu sử) một ai đó mà ghi thiếu cha hoặc mẹ là thiếu thành thật. Thiếu thành thật  thì tránh sao khỏi dư luận bàn tán lung tung.   Quan chức, nhứt là quan chức cấp cao,  thuộc người của công chúng, người ta đặc biệt quan tâm về lai lịch, nếu có gì đó không rõ ràng người ta đồn đoán dữ đội hơn.   Nghe thấy thiên hạ bàn ra tán vào nhiều đối với một số quan chức cấp cao đã và đang tiến thân như diều gặp gió, người viết vào “Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia” xem thật hư thế nào. Đúng là “có lửa mới có khói”. Mời tham khảo:   1/ Trích nguyên văn tiểu sử Nguyễn thị Kim Ngân   Ảnh minh họa   <<Bà Ngân sinh ngày 12 tháng 4 năm 1954, quê quán tại xã Châu Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.   Mẹ của bà tên là Nguyễn Thị Sang (mất năm 2006), tên thường gọi là Má Sáu, là cơ sở bí mật của cách mạng tỉnh Bến Tre.[2] Trước năm 1975, song thân của bà đều hoạt động cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Do cha bà thoát ly hoạt động, bà do mẹ nuôi dưỡng và cho ăn học trong vùng kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.   Bà đang là Chủ tịch Quốc hội, hiện cư trú ở Nhà A3, Ngõ 130 Đốc Ngữ, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nôi >>.[3]   2/ Trích nguyên văn tiểu sử Võ văn Thưởng(*)   <<Ông Thưởng sinh ngày 13 tháng 12 năm 1970 tại Hải Dương,[2] nguyên quán ở xã An Phước, huyện Măng Thít, tỉnh Vĩnh Long (không nói cha mẹ ông là ai).   Năm 1992, ông Thưởng tốt nghiệp Cử nhân Triết học Mác - Lênin tại trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, học vị Cử nhân. Năm 1999, ông tốt nghiệp thạc sĩ[5] triết học cũng tại trường trên với luận văn về đạo đức trong sinh viên học sinh thành phố Hồ Chí Minh.[4]   Ông hiện là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai. Ông hiện là ủy viên Bộ Chính trị khóa 12, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụː Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh,[1] Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng NgãI >>.     (*) Ban Biên Tập: Không nói ông Thưởng là con cái nhà ai, nhưng theo nguồn tin của chúng tôi: Ông Thưởng là con rơi của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.    3/ Trích Nguyên văn tiểu sử Hoàng Trung Hải     Ảnh minh họa   << Ông Hải (sinh 27tháng 9 năm 1959),quê quán tại xã Quỳnh Giao, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu thành phố Hà Nội, đại diện cho thị xã Sơn Tây và các huyện Ba Vì, Phúc Thọ và Thạch Thất.  Ông từng là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa VIII, XI và XIII, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam (2007-2016), Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Việt Nam (2002-2007). Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông hiện giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII, Bí thư Thành ủy Hà Nội >> .    4/ Trích nguyên văn tiểu sử Nông Đức Mạnh   << Ông Nông Đức mạnh là một người Dân tộc Tày, sinh ngày 11 tháng 9 năm 1940 ở xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn,[1][2][3] xuất thân trong gia đình nông dân, dân tộc Tày, tham gia hoạt động cách mạng năm 1958, rồi vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 5 tháng 7 năm 1963.   Cha mẹ ông là ông Nông Văn Lại và bà Hoàng Thị Nhị, hàng năm tháng ba âm lịch (tết thanh minh) luôn về quê để tảo mộ cha mẹ (hai người đều mất sớm), và ông còn có em trai, em gái ở quê.[4][5] Ông luôn bác bỏ tin đồn rằng ông là con của Hồ Chí Minh, và đã trả lời "Ở Việt Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ" khi được báo chí hỏi về điều đó >>.[5][6]   5/ Trích nguyên văn tiểu sử Lê Thanh Hải  (Hai Nhựt)       << Thanh Hải sinh ngày 20 tháng 2 năm 1950, tại xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).   Năm 1966, ông lên Sài Gòn làm thợ hàn và tham gia vào Đội Võ trang Tuyên truyền thuộc Khu Đoàn Sài Gòn Gia Định với bí danh Hai Nhựt.[4]   Ngày 17 tháng 4 năm 1968, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, chính thức ngày 17 tháng 1 năm 1969.[5]   Từ năm 1968 đến tháng 4 năm 1975, ông là Phó Bí thư Đoàn ủy Liên phường, Ủy viên Ban Chấp hành Thành Đoàn Sài Gòn – Gia Định, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Học sinh, Phó Văn phòng Thành Đoàn, Phó Ban thường trực Ban Thanh niên Công nhân Thành Đoàn, Ủy viên Ban cán sự quận Phú Tân Sơn[6].    Ông Lê Thanh Hải nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam  khóa X, XI, nguyên  Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII. Ông có bằng Cao cấp Lý luận Chính trị, Cử nhân Kinh tế, Cử nhân Văn chương[3].   Vợ ông là Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Trương Thị Hiền,  Chủ tịch Hội Nữ trí thức TP.HCM, nguyên Giám đốc Học viện Cán bộ TP. HCM, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 2.[10] Trương Thị Hiền là em út của bà Trương Mỹ Hoa, nguyên Phó Chủ tịch nước Việt Nam.[11][12]   Con trai đầu là Lê Trương Hải Hiếu (sinh 1981) - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ TP Hồ Chí Minh, Phó Bí thư Quận uỷ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 12, Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố khóa VIII nhiệm kỳ 2011-2016.[13] bị kỷ luật khiển trách tại hội nghị Thành ủy TP.HCM ngày 17/4/2018 vì "có quan hệ tình cảm với một phụ nữ và có con chung nhưng chậm báo cáo với tổ chức".[14]   Con trai thứ là Lê Trương Hiền Hòa - Hiện là một doanh nhân, Giám đốc một công ty kinh doanh bất động sản.   Em trai của ông Hải là Lê Tấn Hùng, hiện đang là Bí thư đảng ủy, Tổng giám đốc Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn. Trong tháng 3 năm 2018, bị kỷ luật khiển trách vì liên quan hàng loạt sai phạm ở Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn (NNSG). Sai phạm của ông Hùng liên quan việc ký khống, chi khống hơn 13 tỉ đồng cho hàng chục cán bộ, người lao động học tập nước ngoài.[14]   Hiện nay, ông Thanh Hải cư trú tại 48A đường Trương Định, Phường 7, Quận 3, TP.HCM. Huy hiệu 50 tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam (được trao ngày 15 tháng 5 năm 2018) >>.    6/ Trích Nguyên văn tiểu sử Nguyễn Tấn Dũng   Ông Dũng quê ở Thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Cha ông là Nguyễn Tấn Thử (tên khác: Nguyễn Tấn Minh, Mười Minh)[6] chính trị viên phó Tỉnh đội Rạch Giá, chết ngày 16 tháng 4 năm 1969, khi một trái bom Mỹ đã ném trúng hầm trú ẩn của Tỉnh đội Rạch Giá, được truy phong liệt sĩ.[7][8].   Thân mẫu ông là bà Nguyễn Thị Hường (1924-2017).[9][10]   Là con thứ hai trong gia đình, Nguyễn Tấn Dũng còn được gọi với cái tên Ba Dũng >>.   Vậy là ông Dũng có ghi họ tên cha mẹ rõ ràng. Tin đồn ông là con của ông họ Nguyễn nào đó là tin “vịt”. Cũng có thể có ông họ Nguyễn nào đó kết nghĩa làm cha nuôi của ông Dũng chăng ?.              .v..v..   Theo người viết,  quan chức nói chung, những quan chức vừa kể trên nói riêng nên bổ sung lý lịch của mình và buộc  Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ghi cho đầy đủ để tranh miệng đời dèm pha, chẳng lợi gì cho thanh thế, sự nghiệp của mình ?.    *   Từ Úc, GS Carl Thayer, nhà nghiên cứu phân tích chính trị VN và Ban giao quốc tế, bình luận với BBC Tiếng Việt quanh vụ tin đồn đoán về căn bịnh của ông Trọng. Ông nói: “Việt Nam có truyền thống che giấu thông tin về lãnh đạo, nhứt là khi vị lãnh đạo đó ốm bệnh, hoặc là ở trong tình thế cần giữ kín hành tung để làm nhiệm vụ bí mật”.   Qua nhận xét của ông Thayer, người viết xin nói vui, góp phần làm sáng tỏ chủ đề: Con người xuất thân từ loài Vượn hay Khỉ gì đó, có thuộc tín tò mò, thích xem/biết cái che hơn cái khoe – Che là giấu sự thật, Khoe là trương sự thật ra. Riết rồi cái gì cũng giữ bí mật! Hệ quả: Càng giữ bí mật càng có nhiều tin đồn, tin đồn độ chính xác không cao , độ chính xác không cao nên thiên hạ xúm nhau bình luận…, đó là lẽ thường tình và cũng là sự lãng phí thời gian, công sức?.   “Sinh, bịnh, lão, tử” là quy luật muôn thuở. “Bịnh, lão, tử” là nỗi khổ của kiếp con người chớ có tội tình chi, hà cớ gì phải giấu, phải giữ bí mật?!   Ông Trọng là Chủ tịch nước, người của công chúng. Nếu ông Trọng lâm trọng bịnh phải  thông báo cho dân chúng biết. Chính vì giấu (giữ bí mật) dư luận xã hội mới bàn tán lung tung, lâm vào cảnh “kẻ che người vạch”, cái lỗi ấy không phải do dân chúng mà do hệ thống truyền thông đại chúng không thông tin hoặc thông tin theo chỉ đạo?.    Tin thật mới đánh bật được tin đồn và ngược lại. Nếu hệ thống truyền thông đại chúng của Nhà nước cứ tiếp tục bưng bít, thông tin không kịp thời, thiếu tôn trọng sự thật… như vừa qua thì đừng mong bịt mồm dư luận xã hôi. Nếu không tin tiếp tục thử xem.   25/04/2019         T.T   Chú thích   (1)  Ông Trọng không chấp nhận chữ “kiêm”. Ông nói:“Tổng Bí thư và Chủ tịch Nước là 2 chức vị khác nhau”. Có nghĩa là phải dành cho Ông cả 2 ghế ?
......

“Niềm vui trong ngày đại tang”

An Viên (VNTB) Tang lễ một người, dù ghét hay yêu, thì thương tiếc vẫn là điều nên làm (nghĩa tử là nghĩa tận). Đó là cái chủ nghĩa nhân đạo hình thức mà truyền từ đời này sang đời kia, vì sao, cũng kết thúc một kiếp người. Nhưng nếu đặt trong một xã hội, mà sự “đồng thuận”, “tiếc thương”, và hàng loạt những mỹ từ khác được dựng nên để làm nên cái chết vĩ đại của một cá nhân thì “niềm vui trong ngày đại tang” lại phản ánh một trạng thái trái ngược và chứa đựng những điều đáng suy nghĩ. Ông Lê Mạnh Hà, nguyên Thành ủy viên, Phó Chủ tịch UBND Tp. HCM, con trai cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có một sự “trải nghiệm” đầy bi đát đó. Khi thông báo cái chết của cha ông, một người trải qua 3 cuộc chiến, một người kiêm những chức vụ cao nhất về mặt quân sự lẫn dân sự thì số người phản hồi (comment) chửi rủa, công kích và số lượt phản hồi bằng cảm xúc vui mừng (biểu tượng cười) cao nhất trong số các phản hồi. Con trai cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã miệt mài xóa các phản hồi chửi rủa, công kích, và nó nhiều đến mức ông buộc phải xóa bài đăng. Điều này cho thấy gì?. Nếu xã hội Việt Nam thực sự bày tỏ được sự tự do thì những cái chết của “lãnh tụ ĐCSVN” sẽ không phải là niềm tiếc thương, mà là sự vui mừng – hoan hỉ. Nó là sự phá vỡ cảm xúc và quan điểm vốn bị đè nén, bị đóng khuôn mẫu bởi các luật lệ từ chính ĐCSVN. Nó cho thấy, bất kỳ một “lãnh tụ ĐCSVN” đều mang trong mình những tội ác, mà nhân dân sẽ là người phán xử bằng cách này hay cách khác. Những màn “nước mắt, tiếc thương lãnh tụ” chỉ là những chiêu trò hình thức, bơm đặt không hơn không kém trong một xã hội thiếu thông tin, và sau khi được cởi mở, không ít người đã rùng mình, phản tỉnh. Thậm chí, giật mình khi nhìn thấy bóng dáng mình ngày xưa ở những màn trò “tiếc thương, khóc lóc” như cách dân Bắc Triều Tiên hạ mình dưới lãnh tụ Kim Jong-Un. Cái chết của Cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh, và phản ứng sau đó như một sự thu nhỏ những gì đã và đang tiếp tục diễn ra ở Đông Âu. Đó là hàng tá tượng đài bị giật đổ, chủ nghĩa cộng sản bị cấm phổ biến, những tên lãnh tụ ở các thành phố, con đường bị thay thế, và người dân tiếp tục cảnh giác trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản dưới tên gọi mỹ miều – “phong trào cánh tả”. Nói cách khác, đó là sự bày tỏ rõ ràng với những gì mà một cá nhân cộng sản từng làm với đất nước, một tổ chức cộng sản từng làm với quốc gia. Màn “khóc lóc, tiếc thương” sẽ ngày càng ít đi, và thực sự là như vậy, nó là quy luật bất biến của xã hội buộc phải đi lên. Những cá nhân lãnh đạo, những lão thành cách mạnh sẽ tiếp tục bị thế hệ sau phán xét, về việc làm đúng-sai của họ. Đó không phải là chủ trương “xét lại lịch sử”, mà là xu hướng “trả lại cho lịch sự giá trị sự thật” sau hàng thế hệ bị bưng bít bằng hệ thống tuyên truyền dày đặc. Và thực tế này đã làm nên những niềm vui trong ngày “đại tang”. Tất nhiên, không phải hầu hết là như thế, vẫn còn không ít người – trong đó có những thanh niên tiếp tục thần tượng hóa những “lãnh tụ”. Và khi một Facebooker là Bạch Cúc lên tiếng về cái chết của Cố chủ tịch nước Lê Đức Anh, lập tức trăm phản hồi đã tấn công, nhục mạ bà, thậm chí là phá hoại công việc làm ăn – kinh doanh của bà trên Facebook. Nhưng những con số này sẽ ít đi, khi những “đứa trẻ” đó lớn lên về nhận thức, và đến một thời điểm trải qua những hậu quả do chính quyết sách và chủ trương “lãnh tụ” để lại. Và khi là nạn nhân, họ sẽ hiểu, “lãnh tụ” vì dân là ít, nhưng tư lợi lại là nhiều. Câu chuyện “niềm vui trong ngày đại tang” cũng nhắc nhở chính các lãnh đạo hiện thời rằng, có thể bằng quyền lực, họ được phúng viếng nhiều hoa, tổ chức đám tang thật lớn, và khu “lăng mộ” rộng đến ngàn m2. Nhưng họ sẽ sớm bị quên lãng, và bị công kích trong các bài học lịch sử về sau. Do đó, thực tâm vì dân hơn, thực tâm là lãnh đạo, và hướng tầm nhìn đến một cánh cửa mà tương lai dân tộc này hòa vào sự “phổ quát của nhân loại”, hơn là “một mình một chợ”. Khi đó, một lãnh đạo sẽ không trở thành một lãnh tụ, nhưng lại trở thành một vĩ nhân. Và trong ngày họ mất đi, thì khi đó mới là ngày đại tang thực sự trong lòng dân tộc.
......

Bí mật nào khiến ngân sách quý 1/2019 ‘có thặng dư’?

Từ năm tài khóa 2016, Chính phủ và Bộ Tài Chính đã quyết định “ém” mà không đưa phần chi trả nợ gốc vào mục bội chi ngân sách, cố ép tỷ lệ bội chi/GDP giảm xuống để làm đẹp báo cáo. Thành tích mới thời ‘cướp đường đoạt ghế’ Chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ và ‘mỗi tỉnh là một đầu tàu kinh tế’ lại vừa đạt được một thắng lợi chính trị trong nội bộ đảng đang cướp đường đoạt ghế đến đại hội 13: Kết thúc quý 1, chi ngân sách quốc gia thấp hơn thu ngân sách quốc gia 6.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 250 triệu USD. Nếu những con số trên được phản ánh trung thực và có thể tin cậy được, đây là quý hiếm hoi mà ngân sách Việt Nam không những không bị bội chi mà còn có được một chút dôi dư – điều trở nên kỳ diệu khi so sánh với mức bội chi ngân sách thời sếp của Nguyễn Xuân Phúc là Nguyễn Tấn Dũng, bình quân 5 – 6% GDP, tức luôn vượt hơn mức 5% mà Liên Hiệp Quốc quy định là ‘mức nguy hiểm’. Nạn tham nhũng và chi xài lãng phí vô giới hạn là hai đặc trưng trên bản mặt của thủ tướng thời đó. Nguyễn Xuân Phúc có những quyết tâm riêng của ông ta. Sau khi chính thức thay thế ‘anh Ba X’ bị rớt đài với một trong những nguyên do chính là thành tích điều hành kinh tế vừa yếu kém vừa ‘chẳng biết gì’ về tài chính khiến bội chi ngân sách năm nào cũng như năm nào đều đội mồ sống dậy, thời của Phúc đã siết lại được phần nào kỷ luật thu chi ngân sách bằng chủ trương tiết kiệm chi thường xuyên (phần chi lương và phụ cấp cho đội ngũ công chức gần 3 triệu người), tiết giảm chi đầu tư phát triển, giảm biên chế… Mức bội chi ngân sách được ‘quyết tâm’ kéo giảm’ xuống còn dưới 5% GDP, thậm chí lạc quan hơn thì dưới 3% GDP, tức vào khoảng 200.000 tỷ đồng. Nhưng làm thế nào để kéo giảm tỷ lệ bội chi trong khi tỷ lệ chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách vẫn chiếm đến 70 – 80 % mà không hề thuyên giảm, bất kể số thu ngân sách đang có chiều hướng đụng trần và sụt giảm mà đã khiến đảng cầm quyền lẫn chính phủ cuống quýt tìm cách đè đầu dân tăng nhiều loại thuế như VAT (giá trị gia tăng), thuế sử dụng đất và đủ các sắc thuế mang tính ‘kiến tạo’ khác mà bị người dân chửi rủa ‘chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy’…? Trong khi đó, đội ngũ công chức không những không giảm mà còn phình to hơn đến gần 100 ngàn người từ thời ông Phúc trở thành thủ tướng. Còn phần chi đầu tư phát triển, mà về thực chất là chi cho các công trình hạ tầng cơ sở như giao thông, xây dựng cơ bản, trụ sở hành chính, bảo tàng, tượng đài… có bị cắt giảm phần nào, nhưng không phải là do “thành ý” của chính phủ mà bởi ngân sách đã khốn đốn đến mức chính giới quan chức chính phủ và quốc hội đã phải thừa nhận không còn biết tìm đâu ra tiền cho đầu tư phát triển nữa, hoặc do thực tế chậm giải ngân vốn đầu tư phát triển. Vậy là như dân gian đương đại truyền khẩu ‘trong cái khó ló cái… khôn vặt’. Một trong những đặc trưng nổi bật của Thủ Tướng Phúc mà đã không có ở Thủ Tướng Dũng là thiên bẩm về… số học. Thủ thuật mới: ‘đá’ nợ gốc khỏi cơ cấu bội chi Từ năm 2016, Nguyễn Xuân Phúc đã bắt đầu quan tâm đến GDP và cách làm sao để chỉ số giá trị tổng sản lượng quốc gia này chỉ có tăng khá đến tăng mạnh mà không thể tụt dốc. Hẳn đó là nguồn cơn vì sao trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam, theo nhiều đánh giá độc lập, vẫn ậm ạch và thực chất đã lao vào chu kỳ suy thoái kinh tế năm thứ 11 liên tiếp kể từ năm 2008, GDP vẫn được báo cáo quá sức hồng hào với tỷ lệ gần 7% và trên cả 7%. Tổng Cục Thống Kê đã trở thành một công cụ đầu sai ‘ngoan hiền dễ bảo’ cho những tính toán số học quá khó tin như thế. Sau đó, thậm chí Thủ Tướng Phúc còn manh dạn yêu cầu Tổng Cục Thống Kê ‘đưa kinh tế ngầm vào GDP’. Nguyên tắc là quá đơn giản của học sinh cấp 1: Chỉ cần ước tính ‘kinh tế ngầm’ (nền kinh tế phi chính thức, bao gồm cả buôn lậu) khoảng 20- 30% GDP hiện hữu là sẽ có GDP tương lai vọt đến gần 300 tỷ USD, thừa sức đưa Việt Nam trở thành ‘một trong những trung tâm kinh tế mới nổi trên thế giới’. Cũng từ năm 2016, Thủ Tướng Phúc đã quan tâm và chỉ đạo một vấn đề mà có lẽ vào thời Nguyễn Tấn Dũng đã chẳng nghĩ ra: Không tính chi trả nợ gốc vào bội chi ngân sách nhà nước từ năm tài khóa 2016. Đó là lý do tại sao từ năm tài khóa 2016, Chính Phủ và Bộ Tài Chính đã quyết định “ém” mà không đưa phần chi trả nợ gốc vào mục bội chi ngân sách, cố ép tỷ lệ bội chi/GDP giảm xuống để làm đẹp báo cáo, cùng với sự toa rập của một quốc hội mà chắc chắn thừa biết cái nguyên tắc đương nhiên phải tính nợ gốc vào cơ cấu bội chi, nhưng chỉ biết ‘gật’. Đó cũng là một bí mật riêng có của một chính thể độc đảng và độc quyền về công bố báo cáo thu chi ngân sách, bất chấp yêu cầu về minh bạch tài chính ngân sách của Liên Hiệp Quốc và các tiêu chuẩn hướng tới một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa – điều mà chính thể này đang rất thèm muốn có được để được vay các nguồn tài chính ưu đãi từ quốc tế. Đến năm tiếp theo – 2017, tỷ lệ bội chi ngân sách lập tức được kéo giảm đầy bất ngờ và kỳ lạ. Cần nhắc lại, kế hoạch của chính phủ chi trả nợ gốc và lãi năm 2017 là khoảng 260 ngàn tỷ đồng, trong đó phần nợ gốc có thể chiếm khoảng 2/3 trong số đó, tức khoảng 170 ngàn tỷ đồng. Với dự toán bội chi ngân sách năm 2017 là khoảng 250 ngàn tỷ đồng, nếu tính cả phần chi trả nợ gốc vào bội chi ngân sách năm 2017, con số bội chi thực sự sẽ lên đến khoảng 420 ngàn tỷ đồng, chiếm đến khoảng 8-9% GDP(so với GDP năm 2017 khoảng 210 – 220 tỷ USD) tức còn cao hơn hẳn mức bội chi kỷ lục “thời Nguyễn Tấn Dũng” vào năm 2013 là 6,6% GDP. Cũng với thủ thuật ‘ém nợ gốc’như thế, năm 2018 đã được hệ thống tuyên giáo và báo đảng tung hô ‘lần đầu tiên sau 13 năm, ngân sách thặng dư 400 tỷ đồng’. Còn năm 2019 thì sao? Vẫn trên 5%? 2019 lại là năm ‘bản lề’ của công cuộc ‘xác định cán bộ cấp chiến lược cho đại hội 13’ – một đại hội của đảng cầm quyền mà nếu còn xảy ra thì sẽ vào năm 2021. Cuộc đua đến đại hội này ngày càng trở nên quyết liệt và sắc máu, mà ngoài truyền thống tung hê đơn thư tố cáo nội bộ trên mạng xã hội cùng hiệu ứng đáng sợ của chiến dịch ‘đốt lò’, thì bất cứ kết quả nào được xem là khả quan về thành tích điều hành kinh tế – ngân sách cũng ghi điểm cho quan chức cao nhất trong Bộ Chính Trị có cơ hội điều hành kinh tế là Nguyễn Xuân Phúc. Nhưng vào quý 1 năm 2019, ngân sách Việt Nam phải trả nợ 4 tỷ USD, tương đương khoảng hơn 90.000 tỷ đồng. Nếu tỷ lệ nợ gốc/tổng nợ phải trả vẫn khoảng 2/3, con số nợ gốc mà ngân sách Việt Nam phải trả vào quý 1 năm 2019 là 60.000 tỷ đồng. Mà như vậy, không thể có chuyện ngân sách ‘có thặng dư 6.000 tỷ đồng’, mà đã bội chi gấp 10 lần con số đó trong quý 1 năm 2019, biến ‘thành tích’ của Thủ Tướng Phúc thành nỗi bất hạnh cho cá nhân ông ta, nhưng trên hết là cả một dân tộc bị đè đầu bóp họng để có tiền trả nợ. Để nếu mức bội chi ngân sách 60.000 tỷ đồng của quý 1 được mặc định cho nguyên năm 2019, tỷ lệ bội chi ngân sách 2019 sẽ vẫn là một bản sao trung thành của thời Nguyễn Tấn Dũng: trên 5%. Phạm Chí Dũng Nguồn: VOA 2018: Tử huyệt nợ xấu vẫn không thay hình đổi lốt Những con số biết nói
......

Đảng còn tình người không khi vẫn bắt Nguyễn Phú Trọng ‘đối ngoại’?

Thảo Vy - (VNTB)   Bất chấp các đồn đoán về tình trạng sức khỏe, liên tiếp trong các ngày từ 18 đến 21/04, Thông tấn xã Việt Nam đã đưa tin về các hoạt động ngoại giao của ông Nguyễn Phú Trọng.   “Ngày 18/4, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã gửi điện mừng tới Chủ tịch Ủy ban thường vụ Hội nghị nhân dân tối cao Triều Tiên Choe Ryong Hae”. Bản tin ngày 18/04/2019 lúc 20:37 [http://bit.ly/2ZidFpY].   “Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã gửi điện mừng đến Tổng thống Indonesia Joko Widodo sau khi Indonesia tổ chức thành công cuộc bầu cử Tổng thống và Quốc hội”. Bản tin ngày 19/04/2019 lúc 20:57 [http://bit.ly/2UNRNEh]   “Được tin các vụ đánh bom tại Sri Lanka ngày 21/4 làm nhiều người thiệt mạng và bị thương, ngày 21/4, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã gửi điện chia buồn đến Tổng thống Sri Lanka”. Bản tin ngày 21/04/2019 lúc 19:47 [http://bit.ly/2GkwOig]   Tuy nhiên cũng trong lãnh vực đối ngoại, ở sự kiện quan trọng hơn rất nhiều về quan hệ Việt – Mỹ, thì lại không thấy tin tức liên quan đến ông Nguyễn Phú Trọng. “Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng tiếp Đoàn Thượng viện Hoa Kỳ. Thường trực Ban Bí thư bày tỏ tin tưởng chuyến thăm sẽ góp phần tích cực thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong bối cảnh hai bên hướng tới kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ”. Bản tin trên Thông tấn xã Việt Nam lúc 19:04 ngày 18/04/2019, viết tiếp: “Chiều 18/4, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng đã tiếp Đoàn Thượng viện Hoa Kỳ gồm 9 Thượng nghị sỹ của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, đại diện cho nhiều tiểu bang khác nhau của Hoa Kỳ do Thượng nghị sỹ Patrick Leahy, Phó Chủ tịch Ủy ban Chuẩn chi làm Trưởng Đoàn đang thăm, làm việc tại Việt Nam”. [http://bit.ly/2vhR7b2]   Xét về mặt ngoại giao thì nội dung bản tin ở trên đã trái ngược nội dung ở thông cáo của Thượng nghị sĩ Patrick Leahy công bố vào ngày 12 tháng 4, cho biết phái đoàn chín thượng nghị sĩ lưỡng đảng do ông dẫn đầu đến Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ giữa hai nước “sẽ hội kiến Chủ tịch và Tổng bí thư, Bộ trưởng Quốc phòng cùng các quan chức Việt Nam khác và sẽ thăm Quốc hội” [http://bit.ly/2KUp7VP]   Câu hỏi đặt ra: phải chăng ông Nguyễn Phú Trọng hiện tại vẫn nằm điều trị trên giường bệnh, và bước đầu đã có sự tỉnh táo để xử lý những công việc mang tính nghi thức của quan hệ ngoại giao? Hoặc, tất cả 3 bức điện như nói ở trên đều do bộ phận văn phòng tổng bí thư thực hiện theo quy định, mà không cần đến sự hiện diện, hoặc thông qua ý kiến của tổng bí thư?   Dù ở lý do nào thì vẫn cho thấy “Đảng và Nhà nước” dường như đã không cho ông Nguyễn Phú Trọng quyền được nghỉ ngơi khi sức khỏe đang được đồn đoán là có vấn đề. Kịch bản này tương tự như xảy ra trước đó với ông Trần Đại Quang, cố chủ tịch nước.   Theo tin tức trên báo chí, ông Trần Đại Quang phải nhập viện để cấp cứu vào chiều 20/09/2018, và ông qua đời lúc 9:05 ngày 21/09/2018.   Trước đó, bản tin trên Thông tấn xã cho biết lịch làm việc của ông Trần Đại Quang dầy đặc: Ngày 13/09/2018, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã tiếp bà Aung San Suu Kyi, cố vấn Nhà nước Myanmar – Trưởng đoàn Myanmar tại Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) tổ chức tại Hà Nội ngày 11 đến 13/09/2018.   Sáng 15/09/2018, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương tổ chức Phiên họp thứ 6. Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương chủ trì phiên họp. Ngày 18/09/2018, sau khi nhận được tin siêu bão Măng Cụt (Mangkhut) gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho các tỉnh miền Đông Bắc Philippines, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã gửi điện thăm hỏi tới Tổng thống nước Cộng hòa Philippines Rodrigo Duterte.   Chiều ngày 19/09/2018, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiếp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc Chu Cường đang có chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam. Ngày 20/09/2018, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã có thư gửi các cháu thiếu niên, nhi đồng trên cả nước.   Tính đến thời điểm này thì không thể viện dẫn Luật bảo vệ bí mật nhà nước để làm rào chắn tin tức liên quan đến sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng, vì phải đến ngày 01 tháng 7 năm 2020, luật này mới có hiệu lực thi hành. Như vậy, chỉ có thể nói rằng “Đảng – Nhà nước” đã không có một chút tình người khi đối xử một người già 75 tuổi đang lâm trọng bệnh, vẫn buộc ông phải làm những công việc đối ngoại ‘vô thưởng – vô phạt’ ở trên. http://www.vietnamthoibao.org/2019/04/vntb-ang-con-tinh-nguoi-khong-khi-van.html
......

Nếu ông Trọng thoi thóp trên giường bệnh, chuyện tiếp theo là gì?

David Hutt, cây viết chuyên về chính trị Việt Nam đã có những nhận định xoay quanh sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng trên Asiatimes. “Và nếu như vậy (ông Trọng chết) thì điều đó có ý nghĩa gì đối với chính trị bí mật và chia rẽ của Việt Nam, trước thềm 2021 (nhóm lãnh đạo kế thừa chưa được quyết định vào năm)?. Phương tiện mạng xã hội xôn xao về bệnh tình của người đứng đầu ĐCSVN – ông Nguyễn Phú Trọng. Họ đồn đoán rằng, ông bị cúm, xuất huyết não, hoặc thậm chí là đột quỵ và đang nằm trên giường bệnh. Họ đồn đoán rằng, ông Trọng bị “ám sát”, xuất phát từ việc ông bệnh khi đến thăm vùng đất Kiên Giang. Một số khác lại đồn đoán rằng, đây có thể là “một cuộc đảo chính quyền lực”, với sự hiện diện của ông Trần Quốc Vượng. Carl Thayer, một chuyên gia nhận định chính trị Việt Nam, trong một nhận định ngắn, đã dẫn lại nguồn tin tư cho biết, ông Trọng đã hồi phục một phần, nhưng bị liệt ở một cánh tay, và nguyên nhân rất có thể là bị đột quỵ. Và việc ông Trọng có tham dự được Hội nghị tiếp theo của Ủy ban T.Ư ĐCSVN trong tháng 5 này hay không sẽ cho biết “mức độ nghiêm trọng của tình trạng sức khỏe”. Trọng, bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ XII vào năm 2016, đã thành công thành lập một liên minh để nỗ lực chống tham nhũng và loại bỏ ông Nguyễn Tấn Dũng cùng những “đồng chí” của ông ta ra khỏi các chức vụ của Đảng và Nhà nước. Vào tháng 2, khi Hà Nội tổ chức các cuộc đàm phán hòa bình giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên, Tổng thống Mỹ Donald Trump được cho là đã mời ông Trọng trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Washington vào khoảng cuối năm. Và với tư cách là chủ tịch nhà nước, ông hiện là người đứng đầu nhà nước của Việt Nam, cho phép Đảng có tiếng nói lớn hơn đối với các vấn đề đối ngoại. Giờ đây, với “căn bệnh” của mình, về lâu dài, có thể khiến ông Trọng mất mát nhiều thứ. Ông Trọng không thể đi công du nước ngoài, điều đó đồng nghĩa ông phải từ chức. Nguyễn Khắc Giang, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện nghiên cứu chính sách và kinh tế Việt Nam, trong bài viết trên The Diplomat đã chỉ ra rằng, vào đầu năm 2018, dưới sự lãnh đạo của Trọng, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 90 quy định các quan chức chính trị cấp cao phải vượt qua các bài kiểm tra sức khỏe để tiếp tục tại chức. Động thái này được coi là một nỗ lực nhằm cắt ảnh hưởng của cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Trớ trêu thay, giờ đây nó lại quay lại “cắn” ông Trọng. Và điều này sẽ tạo ra nhiều bất ổn hơn về người kế nhiệm ông làm Chủ tịch nhà nước, và càng đáng chú ý hơn là vào thời điểm Đảng bắt đầu tranh luận ai sẽ nắm quyền lãnh đạo vào năm 2021. Thành quả chính trị là một tập hợp đầy xáo trộn và bất ổn, nơi mà mạng lưới bảo trợ, quan hệ địa phương và bè phái cùng nhau hợp lực để đưa chân vào trong các ủy ban quan trọng và được bầu vào Bộ Chính trị. Và cuộc đấu tranh chính trị này thường diễn ra ít nhất 2 năm, trước bất kỳ ĐH Đảng nào. Với Trọng, ông ta đang nỗ lực để đảm bảo Đảng không bị rạn nứt và sức mạnh của nó sẽ suy yếu khi đất nước trải qua những thay đổi kinh tế xã hội quan trọng. Và theo Trọng, “cải tổ Đảng” dù chỉ một chút có thể dẫn đến sự sụp đổ. Đó là lý do tại sao ông ta đã cố gắng để loại bỏ các yếu tố tham nhũng, suy thoái đạo đức và tư tưởng ra khỏi Đảng. Ba năm trôi qua, và giờ sức khỏe của Trọng đã yếu kém, và có thể Trọng cùng “đồng chí” của mình sẽ sớm bị tấn công để làm suy yếu sự kiểm soát của ông Trọng đối với Đảng và có khả năng định hướng kinh tế và chính trị của đất nước. David Hutt Nguồn: https://www.asiatimes.com/2019/04/article/is-vietnams-leader-trong-on-his-deathbed/  
......

Tháng Tư, cười hay khóc?

Trần Mai Trung - Báo Tiếng Dân Tháng Tư năm 1975, người Việt Nam phía Bắc chiến thắng người Việt Nam phía Nam. Người phương Bắc vui vẻ. Người phương Nam buồn rầu, nhưng tự an ủi là từ nay có hòa bình, anh em Việt Nam không còn bắn giết nhau. Trong chiến tranh 1954-1975, phía Bắc không nói nhiều về hòa bình, hô hào “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” cũng tiếp tục chiến tranh ở miền Nam. Phía Nam thì nói nhiều về hòa bình, có lẽ vì chiến tranh diễn ra tại miền Nam, tàn phá chết chóc nhiều quá. Một số thanh niên “lý tưởng” ở miền Nam còn mơ mộng “nối vòng tay lớn” với người anh em phía bên kia, họ đâu biết là người CS sẽ không bắt tay với tình anh em bạn bè, đảng CS chỉ muốn lãnh đạo và ra lệnh. Hòa bình đến khi một bên thắng và một bên thua, cuộc sum họp không có tình anh em chút nào. Hai tháng sau, hơn 200 ngàn người anh em miền Nam bị người anh em miền Bắc đưa vào các trại cải tạo tập trung, tức là tù lao động khổ sai. Nhiều người bị giam từ 5 đến 10 năm, nhiều người đã chết ở đó, có người bị giam đến 17 năm. Cuộc chiến đã chấm dứt, người CS vẫn đi theo đánh người ngã ngựa. Hòa bình là điều mong ước của người dân miền Nam, nhưng với “bên thắng cuộc” thì nó chỉ là một chặng đường. Cuộc chiến Bắc-Nam vừa xong, họ nhìn sang Kampuchea, Thái Lan, họ muốn các nước xung quanh là cộng sản giống họ, đảng CS muốn nhân dân VN tiếp tục làm người lính tiên phong đi đánh nhau cho chủ nghĩa quốc tế vô sản. ĐCSVN sẵn sàng đi vào cuộc chiến mới. Đảng CS xem nhân dân là vật sở hữu của mình, phải làm những gì đảng muốn. Đảng CS áp đặt chế độ độc tài đảng trị, độc quyền tuyên truyền, âm mưu biến người dân thành người máy, chỉ biết có đảng và bác, quên đi cha mẹ, ông bà, tổ tiên Việt Nam. Không chịu nổi sự cai trị độc tài của đảng CS, hơn 2 triệu người VN đã đau lòng rời quê hương đi tị nạn ở các nước khác, hàng trăm ngàn người đã chết trên biển, nhiều người bị hải tặc Thái Lan tấn công, thật kinh hoàng. Trong lúc hiểm nguy đó, những người da trắng không quen biết, khác màu da tiếng nói, đã đến cứu giúp người tị nạn. Còn lãnh đạo đảng CSVN, Thủ tướng Phạm văn Đồng thì đi nói xấu người tị nạn VN là trộm cướp, đĩ điếm. Ông ta là hình ảnh tiêu biểu của người cộng sản nhỏ nhen.   Cảnh diễn ra ở Đà Nẵng ngày 24/3/1975, người dân trốn chạy Cộng sản. Nguồn: Bettmann/ CORBIS Tháng Tư lại về, bạn cười hay bạn khóc? Có người “bên thắng cuộc” đang cười vì họ đã chiến thắng, mặc dù cái giá phải trả là hàng trăm ngàn thanh niên miền Bắc phải đi đánh nhau và chết ở miền Nam. Bạn bè, đồng chí, đồng bào bị chết rất nhiều mà lại cười, đó là cái cười vô liêm sỉ. Có người “bên thắng cuộc” đang khóc, 100 ngàn thiếu nữ miền Bắc đi Thanh niên xung phong, ở trong rừng mấy năm dài, 10 ngàn TNXP đã chết trong rừng, người trở về được thì mang bệnh tật và sống cô đơn vì tuổi xuân thì đã qua. Bên thua cuộc thì buồn hơn, ngày “giải phóng” cũng là ngày 200 ngàn người đi vào tù, người Việt Nam bị phân biệt làm nhiều hạng khác nhau. Đang sống bình thường thì bây giờ thiếu ăn, đang có tự do thì bây giờ phải nói theo ý đảng. Nếp sống đạo đức bị phá tan hoang, thay thế bằng giáo điều cộng sản. Người tị nạn VN thì mang nỗi buồn xa xứ, ngày 30 tháng Tư là lý do phải rời quê hương, là một ngày buồn. Trại tù cải tạo VC Vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối Vì muốn an thân, vì tiếc máu xương Cả nước đã quy về một mối Một mối hận thù, một mối đau thương! Hạnh phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường Đảng tới là tan nát cả! (Thơ Nguyễn Chí Thiện) Người phương Nam đã không chiến đấu đến cùng để bảo vệ tự do, nhân phẩm, cơm áo của mình và nếp sống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Cái giá của hòa bình quá đắt.
......

Những răn đe lạc quẻ quanh vụ ông Trọng bị đột quỵ

Phạm Nhật Bình! Ông Trọng bị “choáng” nắng ở Kiên Giang hôm cuối tuần 13-14 tháng 4, tính đến nay đã kéo dài hơn một tuần. Cái nóng ở Kiên Giang khủng khiếp thật. Tổng bí thư/Chủ tịch nước đi kinh lý chắc chắn là phải có người hầu đàng hoàng, vậy mà để cho ông Trọng choáng nắng đến đột quỵ là điều không thể tha thứ. Ngoài ra, sự kiện ông Trọng bị “choáng nắng” dẫn đến đột quỵ cũng là lỗi rất lớn của Ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khoẻ Cán bộ Trung ương, vì những người như ông Trọng trong tứ trụ được khám sức khoẻ mỗi ngày mà lại không phát hiện ra sớm… để cứu ông Trọng. Trong khi bệnh tình ông Trọng xảy ra với những điều khó hiểu nói trên, báo chí đảng và nhà nước hoàn toàn im lặng. Chỉ có mạng xã hội là tưng bừng với những tin tức và bình luận… rất sát với thời cuộc, khiến cho cả nước đổ xô đi tìm khiến cho ba chữ “Trọng đột quỵ” trở thành top tìm kiếm trong mấy ngày qua. Không một ai trong chính quyền hé môi lên tiếng khiến cho dư luận lại càng có dịp bàn ra tán vào, nghi ngờ có chuyện gì rất hệ trọng đang diễn ra mà bị nhà nước giấu kín. Chuyện giấu giếm quanh co này dư luận cũng không lạ gì vì nó từng diễn ra trước đây với Phạm Quý Ngọ, Nguyễn Bá Thanh, Đinh Thế Huynh và gần nhất là Trần Đại Quang và Đỗ Mười. Sự đồn đại càng lúc càng lan rộng vì thời nay mọi thông tin rất thoáng, lại nhờ có internet nên đi rất nhanh. Chỉ có báo chí quốc doanh vẫn cố thủ trong pháo đài tự do báo chí hàng triệu lần, ngoan ngoãn chờ lệnh Ban tuyên giáo vì tôn trọng điều luật “sức khoẻ của lãnh đạo là bí mật quốc gia”. Bỗng ngày 18/4 vừa qua, báo Quân Đội Nhân Dân (QĐND), cơ quan của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng trong chuyên mục phòng chống “tự diễn biến, tự chuyển hoá” đã vội vàng lên tiếng. Tờ báo này lu loa rằng trong những ngày gần đây nhiều tin tức xuyên tạc, bịa đặt lan tràn trên các trang mạng xã hội nhằm nói xấu tình trạng sức khoẻ lãnh đạo. Tác giả bài báo còn cường điệu về một “thuyết âm mưu đen tối” của một số “đối tượng” như Lê Nguyễn Hương Trà (Cô gái Đồ Long), Bùi Thanh Hiếu (Người Buôn Gió) là hai blogger có số lượng người theo dõi đông đảo. Ngoài ra báo QĐND còn cáo buộc các trang mạng của đảng Việt Tân, đài RFA, BBC, thoibao.de…thường xuyên phát tán tin tức “xấu độc” về lãnh đạo đảng, cụ thể là bệnh tình của ông Nguyễn Phú Trọng. Để rồi báo này mở loa kêu gọi phải kiên quyết đấu tranh với “nấm độc thông tin” và các “thuyết âm mưu” đen tối và phải “xử lý nghiêm” bọn người này! Không thể nói gì khác hơn khi ngậm miệng trước sự kiện đang diễn ra thì đây là lỗi của chính quyền, khinh miệt quyền được thông tin của quần chúng. Vì không phải vô cớ mà dư luận thêu dệt, đơm đặt chuyện chết sống của người đứng đầu đảng và nhà nước. Nếu đảng biết tôn trọng dân và tỏ ra minh bạch với dân như đã hứa, thì mọi chuyện sẽ không còn gì phải bàn tán. Đảng chỉ cần công bố cho người dân biết: ông Tổng Tịch vì tuổi già sức yếu, làm việc quá độ nên cần phải tịnh dưỡng một thời gian và không có chuyện đột quỵ, đột tử như tin đồn. Kèm theo là hình chụp Tổng Trọng ăn cháo bào ngư, ngồi xe lăn hay đang tập vật lý trị liệu với các hộ lý vậy là đủ. Đàng này đảng và chính phủ cương quyết không chịu lên tiếng dù chỉ vài giòng tin ngắn. Trong khi phát ngôn viên chính phủ cũng bỗng dưng trở thành người câm thì trong bóng tối các cơ quan tuyên giáo cho một số ngòi bút bình luận sặc mùi dư luận viên đua nhau chụp mũ, đánh phá các cá nhân và các trang thông tin muốn tìm hiểu sự thật. Luận điệu bọn dư luận viên này cũng cùng một lò với báo QĐND, cho rằng các thế lực thù địch đã loan truyền tin thất thiệt, bịa đặt về sức khoẻ của ông Trọng để kích động gây hoang mang dư luận, làm giảm lòng tin quần chúng. Chính quyền không thấy được cái lỗi của mình nên đi từ cái sai này đến cái sai khác. Khi ông Trọng đã là nhân vật số 1 của Việt Nam, bây giờ tự nhiên không thấy xuất hiện mà cũng không có lời giải thích chính thức nào thì ai cũng phải đặt câu hỏi băn khoăn. Báo chí quốc doanh lo khai thác tin ấu dâm, sửa điểm cũng đồng tình bỏ quên số phận ông Tổng Tịch. Trong khi lẽ ra nhiệm vụ của báo chí và các cơ quan truyền thông là phải loan tải và phân tích tin tức cho rộng đường dư luận. Ở Việt Nam, truyền thông lề đảng không làm được nhiệm vụ của mình thì người dân có quyền suy nghĩ và nói ra những gì họ biết để mọi người cùng biết. Chuyện này ở các xứ tự do người ta đã quá quen thuộc vì khi chính quyền không kịp lên tiếng thì truyền thông tư nhân nói ngay và hỏi ngay. Nếu chính quyền cố tình quanh co không trả lời thì báo chí lập tức đưa ra hàng loạt nghi vấn để hướng dẫn dư luận. Ngày nay tưởng đã đến lúc đảng cộng sản phải biết rằng đã hết rồi thời kỳ bưng bít dư luận. Càng bưng bít càng cho thấy chính quyền đang sợ hải sự thật bị phơi bày. Mỗi người dân trong khả năng của mình đã trở thành một ký giả, một nhà báo đồng thời cũng là một người chủ báo. Vì một sự thật đơn giản, họ có Facebook trong tay. Cho dù có Luật an ninh mạng làm lá bùa đàn áp, cho dù có lực lượng hàng chục ngàn dư luận viên, thì lãnh đạo CSVN nên nhớ hiện có gần 50 triệu người Việt Nam có Facebook, tức có 50 triệu tờ báo điện tử trong tay. Cho nên dùng một tờ báo Quân Đội Nhân Dân bằng những luận điệu ngậm máu phun người để răn đe dư luận thì thật là ấu trĩ và tốn công vô ích! https://viettan.org/nhung-ran-de-lac-que-quanh-vu-ong-trong-bi-dot-quy/
......

Tổng Trọng "hết pin"

VÀO HANG Ổ CỦA BA DŨNG, TỔNG TRỌNG HẾT PIN VÀ LIỆU CÓ AI ĐỦ TẦM ĐỂ THAY THẾ ÔNG TA? Tác giả: Quê Hương Sau khi Tổng Trọng đột quỵ tại Kiên Giang vào ngày 14/4 nghi do xuất huyết não, dư luận trong và ngoài nước thán phục cha con Nguyễn Tấn Dũng với mưu cao kế hiểm. Thực ra, sau đại hội 12 diễn ra vào tháng 1/2016 với rất nhiều mặc cả về vấn đề nhân sự, Nguyễn Tấn Dũng đành về nghỉ. Trong cuộc họp chính phủ vào cuối tháng 3/2016 trước khi về hưu, đồng chí X đã nói là “ráng làm người tử tế”, ý ông ta muốn nhắc Trọng là hãy là người tử tế. Thế nhưng, những gì diễn ra sau đó cho tới nay, thì với ông Dũng, Trọng chưa bao giờ là người tử tế. Suốt chặng đường hơn 3 năm qua, các tay chân của đồng chí X đều bị kỷ luật, dính vòng lao lý và thậm chí là thủ tiêu. Nhẹ bị kỷ luật thì có Vũ Huy Hoàng, Bùi Quang Vinh, Nguyễn Xuân Anh…. Dính vòng lao lý thì có Đinh La Thăng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Trần Bắc Hà, Hà Văn Thắm, Trịnh Xuân Thanh …. Bị thủ tiêu thì có Chủ tịch nước Trần Đại Quang…. Và với tốc độ đốt lò như hiện nay, chưa biết chừng cô công chúa của ông Dũng là Nguyễn Thanh Phượng cũng có thể trở thành củi lúc nào không hay. Và khi tình hình đã bắt đầu ngoài tầm kiểm soát thì cũng là lúc đồng chí X ra tay. Sau cú nhìn đầy hằn học của Dũng nhắm vào Trọng bị cánh phóng viên ảnh bắt được tại đám tang Trần Đại Quang diễn ra vào cuối tháng 10/2018. Trong thời gian gần đây, người ta thấy Dũng quay ngoắt làm lành với Trọng. Đặc biệt là sáng 29/3, Thường trực Ban Bí thư tổ chức hội nghị gặp mặt cán bộ cấp cao đã nghỉ hưu qua các thời kỳ. Báo chí trong nước đồng loạt cho đăng bức ảnh Nguyễn Phú Trọng bắt tay Nông Đức Mạnh trong khi Nguyễn Tấn Dũng ngước nhìn lên cười tươi, mặc dù Trọng không thèm nhìn mặt Dũng. Động thái trên khiến Trọng nghĩ rằng Dũng đã thực sự qui hàng và Trọng có phần sơ hở. Trước đó, chưa kể việc đã vài lần con trai Dũng - Nguyễn Thanh Nghị đã lấy lòng Tổng Trọng ví dụ như việc tuyên bố Phú Quốc cần có luật đặc khu, trong bối cảnh, làn sóng phản đối dâng cao cả trong và ngoài nước vào tháng 6/2018 đối với kế hoạch do Tổng Trọng đạo diễn. Việc quay ngoắt sang làm lành như thế đã khiến Tổng Trọng mất cảnh giác và tự dẫn mình vào hang cọp. Với một lịch trình làm việc bận rộn tại Kiên Giang giữa trời nắng 40 độ C không mũ nón, rồi lại vào phòng đông lạnh với nhiệt độ dưới 0 độ C, lúc thì họp hành với các sở ngành trong phòng điều hòa. Lịch trình làm việc bận rộn, di chuyển nhiều trong thời gian ngắn, nhiệt độ thay đổi liên tục, trong khi đã 75 tuổi khiến Trọng bị xuất huyết não và đột quỵ. Cần phải nói thêm rằng, khi đi công tác ở bất cứ đâu, lực lượng cận vệ của Trọng đều tính toán rất cẩn thận để tránh cho ông ta nguy cơ bị đầu độc hay ám sát. Tuy nhiên, yếu tố tự nhiên khách quan như lần này thì lực lượng cận vệ của Trọng không thể tính toán được. Cho đến hôm nay, báo chí vẫn chưa dám đưa bất cứ thông tin nào liên quan đến bệnh tình Tổng Trọng nhưng khả năng cao là … hết pin! Khi mà Tổng Trọng rơi vào tình thế này, nhiều nhà phân tích cho rằng sẽ có đấu đá nội bộ để tranh giành chức TBT kiêm CTN. Nhưng điều này sẽ không bao giờ xảy ra bởi lẽ khi Hồ Chí Minh (vừa là Chủ tịch nước vừa là lãnh đạo tối cao của Đảng) chết vào năm 1969 thì sau đó chưa ai kể cả Lê Duẩn dám ngồi vào chiếc ghế đúp của ông ta. Điều đơn giản là ông Hồ tạo ra cái ghế đúp ấy cho riêng ông ta chứ không phải là người nào khác. Chỉ có đến đời Nguyễn Phú Trọng - con rơi thứ 2 của ông Hồ sau Nông Đức Mạnh (cả 2 Tổng Bí Thư đều không có bố, tức là mẹ chửa hoang) mới dám làm điều mà cha ông ta đặt ra, sau khi đã loại tất cả các đối thủ chính trị ngang cơ để trở thành đàn anh của lớp lãnh đạo hiện tại. Và khi Trọng không làm nữa thì sẽ không ai được phép ngồi vào chiếc ghế đó, giống như trường hợp Hồ Chí Minh. Hơn nữa hiện nay Vượng, Phúc, Ngân, Nhân đều sàn sàn ngang cơ nhau thế này. Nếu 1 ai đó nắm cả 2 ghế thì những người còn lại sẽ không chịu và thượng tầng ắt sẽ đánh nhau tơi bời. Dù cho thế sự có như thế nào đi chăng nữa thì người ta vẫn tiếc và cười vào mặt Trọng. Giá như cái tên của ông ta không phải là Trọng (tức là nặng) thì giờ có khi đã giống cha mình, ngồi ngất ngưởng trên ngôi cao vài năm nữa. Nhưng người tính không bằng Giời tính đâu. Đau quá Trọng ơi!!!
......

Điểm khởi nguồn của phong trào bất tuân

Đỗ Văn Ngà| Thời buổi sơ khai, mới biết tới lửa, lúc ấy, để lấy được lửa, con người rất vất vả cực nhọc. Phải chuẩn bị đủ thứ nào là nhúm cỏ mịn loại dễ bắt lửa, rồi những thân cây khô để xoay cho chúng cọ sát tạo thành ma sát chuyển hóa thành nhiệt và bắt lửa. Quá trình của nó cực kỳ gian nan, có khi người ta phải làm đi làm lại nhiều lần đến nỗi da tay bỏng dộp vì ma sát, thì mới nhóm được một ngọn lửa le lói. Có một nguyên tắc ai cũng hiểu, nếu nến trước gió nến tắt nhưng rừng cháy gặp gió lửa bùng mạnh. Cho nên, khi nhóm được ngọn lửa leo lét thì nâng niu duy trì, nhưng khi lửa đã bùng thì muốn dập cũng khó. Đó là quy luật tất yếu của tự nhiên. Tương tự vậy, phong trào bất tuân dân sự là một phong trào rất khó hình thành. Lòng căm phẫn của nhân dân với chính quyền Cộng Sản như là những thanh củi khô. Những con người đấu tranh cho dân chủ nếu có phương pháp, nếu tập hợp được nhân lực, hình thành tổ chức tốt sẽ là tác nhân tạo lửa cho những thanh củi ấy. Trong những năm qua, biểu tình cũng nổ ra đâu đó rồi lại tắt lịm. Đó là điều tất nhiên, nến trước gió thì nến bị thổi tắt, thế thôi. Nhưng cũng có lúc gió sẽ không thể làm tắt lửa. Hiện nay đã gần 1 tháng, Nguyễn Hữu Linh dâm ô bé gái trong thang máy một chung cư ở Q4 sài Gòn, chính quyền vẫn không có dấu hiệu gì gọi là khởi tố. Đây là một sự thách thức của chính quyền Cộng Sản với nhân dân rằng “tao không khởi tố thì chúng mầy làm gì được tao?”. Và sự phẫn uất trong dân là có thật, nhiều người đã dùng hết mọi khả năng kêu gọi của mình như đứng giữa đường phố đông đúc mang một tấm bản tự viết “ấu dâm là tội ác”, hay đây đó có những chiếc ô tô có in hình tên ấu dâm Nguyễn Hữu Linh. Đây là một sự khởi dầu le lói của một phong trào bất tuân dân sự. Ở Trung Ương, đám lãnh đạo cấp cao chỉ lo chém giết nhau tranh giành. Bên ngoài biên giới quân cướp nước cứ lăm le từng ngày lấn tới, nhưng chính quyền này cứ lùi bước mãi. Với nhân dân, chính quyền này nó không còn bảo vệ họ nữa mà vứt cho bọn quan chức thứ tính muốn làm gì thì làm: tăng thuế tăng phí tùy tiện, rồi tội ác của bọn quan chức lại được bảo kê vv… Với tình hình như vậy, nếu cường độ mỗi lúc một mạnh dần sẽ ép sức chịu đựng của người dân đến đến lúc không thể chịu đựng được nữa. Điều đó phải đến, đó chính là miếng bùi nhùi rất dễ bắt lửa nếu có tổ chức đủ sức thổi bùng nó lên thành đám cháy lớn. Cộng sản sẽ phải đổ thôi, có điều là nhanh hay chậm là tùy thuộc vào chất lượng của các tổ chức chính trị đối lập với CS./.
......

Ngu hết phần thiên hạ

Ngô Trường An| Nhiều người cùng thế hệ với tôi hoặc anh chị tôi hiện nay đã ngoài 60 cả rồi. Nhưng chẳng hiểu họ giả vờ ngu hay là ngu bẩm sinh, mà không phân biệt được mốc thời gian của các giai đoạn lịch sử. Họ cứ đem chuyện HỒI XƯA để so sánh với giai đoạn hôm nay, rồi chửi rủa tôi là thằng phản động! Họ nói với nhau rằng, thì, là, mà … Ngày xưa nghèo khổ, bây giờ được như ri là quá phát triển rồi. Rằng xưa đói, cơm không có ăn, áo không đủ mặc, giờ vầy còn đòi gì nữa? Rằng xưa trên bom dưới đạn, bây giờ hòa bình dù có vất vả ngủ cũng ngon giấc, chả sợ chết chóc vì bom rơi, đạn lạc. Bla..bla …!! Cái ngu của các người là không phân định được hồi xưa là hồi xưa nào. Trong bài viết này, tôi sẽ chỉ ra cái mà các người thường gọi là “hồi xưa” ấy. Nó có 2 giai đoạn: trước 30.4.1975 và sau 30.4.1975. Là vầy: rước 30.4.75 một người lao động bình thường có thể nuôi sống vợ và 7-8 đứa con. Công chức làm cho các hãng xưởng tư nhân hoặc công chức nhà nước đều được trả lương cả vợ lẫn con, thì làm sao mà đói? Người già cả không nơi nương tựa, được chính phủ đưa vào viện DƯỠNG LÃO chăm sóc. Trẻ em mồ côi được chính phủ đưa vào viện CÔ NHI nuôi nấng. Kẻ tha phương cầu thực (chạy giặc) thì có trại TỊ NẠN nương thân. Người nghèo khổ thì có trại TẾ BẦN giúp đỡ. Kẻ lữ hành lỡ độ đường thì có QUÁN CƠM XÃ HỘI ăn uống hoàn toàn miễn phí. Vậy, đói khổ nó ở đâu ra? Trong một đất nước đang chiến tranh thì làm sao mà phát triển cơ sở hạ tầng mà so bì với thời bình? Nhưng dù sao thời đó cũng đủ trường học khang trang để học sinh ngồi học chứ không như các trường vùng cao ngày nay. Dù không phát triển, nhưng bệnh viện mỗi người một giường, chứ đéo có cảnh chen chúc dưới gầm giường như ngày nay. Dù kinh tế không bằng hôm nay, nhưng người dân chẳng gánh nợ công, mà lại được nhà nước chữa bệnh hoàn toàn miễn phí và học sinh đi học cũng chẳng tốn của cha mẹ đồng bạc học phí nào. Như vậy thì thử hỏi, hồi nào phát triển hơn? Nói bây giờ hòa bình sướng hơn hồi xưa vì không sợ tiếng súng, tiếng bom? Vậy thử hỏi các người, cuộc chiến này do ai gây ra? Ai đem bom đạn Nga Tàu vào tàn sát Miền Nam? Ngu thật hay giả ngu vậy mấy người? Còn nói về “hồi xưa” của giai đoạn sau 1975 mấy người bị đói là đúng rồi. Không đói sao được khi vừa im tiếng súng là họ đến nhà bắt nộp lúa nuôi quân hết đợt này sang đợt khác. Không đói sao được khi nhà ông có 500 đồng, họ chỉ đổi ông được 1 đồng. Không đói sao được khi ông thu hoạch mùa vụ xong đều phải gánh hết lên HTX. Không đói sao được khi nhà ông nuôi được con bò hay con heo cũng không được bán hoặc làm thịt, mà phải giao cho HTX… Không rách sao được, khi gia đình ông 3-4 người mới được xét duyệt cho mua 1m vải quần. Không te tua sao được, khi ông cần 1 cái nồi để nấu cháo, lúc đến cửa hàng mậu dịch quốc doanh thì họ đưa cho ông 1 chiếc lốp xe đạp??? Các ông phải biết cái hồi xưa đói khổ đó do ai gây ra chứ. Từ một đất nước tự do muốn đi đâu thì đi, muốn mua cái gì thì mua, muốn ăn cái gì cũng có… Tự nhiên quay sang muốn đi đâu phải xin giấy tạm trú, tạm vắng. Muốn mua cái quần, cái áo, đôi dép cũng phải chờ xét duyệt mà chưa chắc đã được. Muốn ăn thì phải xếp hàng mua phiếu nơi cửa hàng quốc doanh, mà chưa chắc đã được ăn món mình ưa thích…. Những điều đó chế độ nào gây ra cho các người vậy? Già hết rồi, có ngu thì chừa lại cho đời một ít. Sao cứ giành hết phần ngu của thiên hạ vậy mấy cha?
......

Người dân chặn xe rác vào bãi Phan Lìn

  Hơn 100 người dân bản Nà Bỏ, huyện Tam Đường, Lai Châu đã căng lều bạt chặn xe chở rác vào bãi rác Phan Lìn để phản đối tình trạng ô nhiễm tại đây. Truyền thông trong nước loan tin ngày 19/4. Theo đó, chỉ có một nguồn nước duy nhất tại bản Nà Bỏ phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của người dân nơi đây. Tuy nhiên, bãi rác Phan Lìn tại đầu nguồn nước với quy trình xử lý rác không đúng đã gây ô nhiễm nguồn nước trầm trọng, ảnh hưởng đến đời sống người dân địa phương. Tin cho biết, theo đúng quy trình, lẽ ra rác thải tại bãi Phan Lìn phải được xịt hóa chất rồi bị lấp kín, nhưng thực tế thì rác thải lộ thiên tràn ngập bãi với mùi hôi nồng nặc và ruồi nhặng bâu kín. Người dân trong nhiều ngày qua phải đi mua nước sạch để sử dụng, còn những gia đình không có điều kiện phải chịu cảnh dùng nước ô nhiễm để ăn uống, tắm giặt. Cơ quan tiếp dân tỉnh Lai Châu và các ban ngành huyện Tam Đường cũng đã gặp gỡ, đối thoại với người dân về tình trạng này, cho biết thêm đang khảo sát nguồn nước mới cho người dân Nà Bỏ trong thời gian tới. Trong những ngày qua, người dân tại một số địa phương trên cả nước cũng phản đối tình trạng nhà máy sản xuất gây ô nhiễm môi trường gây hại cho họ. Trường hợp nhà máy của Công ty Trách nhiệm Hữu Hạn Bao Bì Vĩnh Khang ở huyện Củ Chi, TP.HCM bị dân chúng địa phương phản ánh suốt 3 năm qua thải ra môi trường lượng chất ô nhiễm khiến nhiều người bị bệnh mắt và đường hô hấp. Người dân cho biết họ nhiều lần liên hệ với chính quyền địa phương và công ty yêu cầu giải quyết nhưng thực tế tồi tệ vẫn tiếp diễn. Cũng trong tuần này, nhà máy sản xuất quặng thuộc Công ty TNHH TM AMV-166 tại quận Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng bị đình chỉ sản xuất do dân chúng phản đối hoạt động của nhà máy gây ô nhiễm môi trường. Nguồn: RFA
......

Các hội đoàn dân sự phải có quyền chính trị Hiến định

Nguyễn Hồng Phúc - VNTB Dự thảo luật về hội do Bộ Nội Vụ soạn thảo, ở Điều 2.2 ghi: “Luật này không áp dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam”. Như vậy, phải chăng sẽ có sự phân biệt về “quyền chính trị” giữa các hội đoàn dân sự thành lập trong tương lai theo Luật về hội? Không áp dụng nhưng vẫn bảo đảm quyền tự do chính trị? Ở bản dự thảo luật về hội đã trình Quốc hội (khóa XIII, tải bản dự thảo tại http://bit.ly/2IjWMG4), quy định luật này không áp dụng đối với: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam”. Về vấn đề này có hai loại ý kiến, loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định của dự thảo luật là không áp dụng luật này đối với các tổ chức chính trị – xã hội được quy định tại Điều 9 của Hiến pháp. Loại ý kiến thứ hai đề nghị, Luật về hội cần điều chỉnh đối với tất cả các tổ chức hội, trong đó bao gồm cả các tổ chức chính trị – xã hội. Phía Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII đưa ra quan điểm việc không áp dụng luật này đối với 6 tổ chức chính trị – xã hội là phù hợp với lịch sử phát triển và vai trò đặc biệt quan trọng của các tổ chức đó, phù hợp với thể chế chính trị của nước ta. “Hơn nữa, một số tổ chức này đã có văn bản pháp luật điều chỉnh riêng như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật công đoàn, Pháp lệnh cựu chiến binh. Vì vậy, dự thảo luật được tiếp thu chỉnh lý theo loại ý kiến thứ nhất, quy định rõ trong luật như phương án Chính phủ đã trình Quốc hội và đây cũng là việc luật hóa quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP nhằm bảo đảm sự minh bạch và tránh gây hiểu lầm trong quá trình thi hành luật”. [trích Báo cáo số 39/BC-UBTVQH14, tải toàn văn báo cáo tại http://bit.ly/2DbaUNS] Như vậy, về các quyền chính trị của Công Ước về các Quyền Dân Sự và Chính Trị 1966 (ICCPR), mà Việt Nam gia nhập vào ngày 24/9/1982, có được thực thi với các hội đoàn dân sự thành lập theo Luật về hội? Vì sao lại phân biệt hội đoàn dân sự có hay không sự hiện diện của Đảng? Theo dự thảo luật về hội đã trình Quốc hội trước đây, thì trong “Việc công nhận điều lệ hội”, được chia theo cấp như sau: Bộ trưởng Bộ Nội Vụ công nhận điều lệ hội hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc liên tỉnh, Thủ tướng Chính phủ công nhận điều lệ hội có Đảng đoàn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện công nhận điều lệ hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, huyện. Về vấn đề này có ý kiến cho rằng, cần phải làm rõ hội có Đảng đoàn và hội không có Đảng đoàn, đồng thời phải thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng tại Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính Trị. Tiếp thu ý kiến này, dự thảo luật được tiếp thu chỉnh lý như sau: Thủ tướng Chính phủ công nhận điều lệ hội của các tổ chức quy định tại khoản 2 Điều 15 của dự thảo luật. Bộ trưởng Bộ Nội Vụ công nhận điều lệ hội hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc liên tỉnh (khoản 1 Điều 12 và khoản 1 Điều 15). Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công nhận điều lệ hội hoạt động trong tỉnh; căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện công nhận điều lệ hội hoạt động trong phạm vi huyện (khoản 2 Điều 12 và khoản 1 Điều 15). [*] Một báo cáo nội bộ của Bộ Nội Vụ viết: Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 tổ chức chính trị – xã hội: Căn cứ Điều 9 Hiến pháp năm 2013 (quy định về Mặt trận Tổ quốc và 5 tổ chức chính trị – xã hội); Quyết định số 128-QĐ/TW ngày 14/12/2004 của Ban Bí Thư về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức cơ quan Đảng, Mặt trận và các đoàn thể (các đoàn thể gồm 05 tổ chức chính trị – xã hội nêu trên) và các luật, điều lệ hiện hành của các tổ chức này, do đó việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 05 tổ chức chính trị – xã hội nêu trên không thuộc phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của các văn bản quy phạm pháp luật về hội là phù hợp. Đối với hội có đảng đoàn, các hội được công nhận là tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp và hội được thành lập, hoạt động theo Luật chuyên ngành: Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính Trị về hội quần chúng đã ghi “Không xây dựng văn bản riêng đối với một số hội đã được công nhận là tổ chức chính trị – xã hội, hội có đảng đoàn và không quy định hội có tính chất đặc thù”. Do đó, để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, quy định pháp luật về hội áp dụng chung cho tất cả các hội (trừ Mặt trận Tổ quốc và 5 tổ chức chính trị – xã hội nêu trên). [tải báo cáo tại http://bit.ly/2IjWMG4] Như vậy, trong nội dung dự thảo luật về hội sẽ được trình Quốc hội vào tháng 5/2019, cần làm rõ liệu có phân biệt về các quyền lợi chính trị giữa các hội đoàn dân sự có “đảng đoàn” với “không đảng đoàn”? Bởi Hiến pháp 2013 đã bảo hộ quyền tự do chính trị của công dân: “Điều 14.1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Nguyễn Hồng Phúc * Chú thích: “Điều 12. Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội 1. Bộ trưởng Bộ Nội vụ cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc liên tỉnh. 2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội hoạt động trong phạm vi địa phương. Căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội hoạt động trong phạm vi huyện”. “Điều 15. Thẩm quyền công nhận điều lệ hội và người đứng đầu hội, cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, giải tán hội 1. Người có thẩm quyền quy định tại Điều 12 của Luật này có thẩm quyền công nhận điều lệ hội và người đứng đầu hội, cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, giải tán hội, trừ trường hợp công nhận điều lệ hội quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Thủ tướng Chính phủ công nhận điều lệ hội của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam và Hội chữ thập đỏ Việt Nam”. Nguồn: Việt Nam Thời Báo Ông Đỗ Hoàng Điềm: Xã hội dân sự là nền tảng của quốc gia https://www.youtube.com/watch?time_continue=17&v=DNj-RGGsceg  
......

Tình hình là phang thẳng nhau rồi.

Người ngồi với Tư Sang là tên là Phan Trí Đỉnh. Người Buôn Gió! Nếu tính trong xếp hạng chức tước quân dụng bút của Tư Sang có 5 bậc , thì Đỉnh xếp tầm hạng 3. Cao nhất loại 1 là Nguyễn Công Khế, Trương Huy San... loại 2 là Hoàng Hải Vân, Lưu Trọng Văn... Hôm nay mập mờ Phan Trí Đỉnh nói tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp chết, nguyên nhân Đỉnh cũng nói ám chỉ Nguyễn Thanh Nghị ám sát Nguyễn Phú Trọng, Đỉnh nói thêm hàng hoa Ngọc Hà sắp đắt hàng. Thực sự thì hôm nay ông Trọng có tập đi, nhưng còn yếu nên ông không đi được lâu, bác sĩ nói ông cần phải vật lý trị liệu, châm cứu, có nghĩa ông phải nằm điều trị thêm thời gian. Tư Sang nham hiểm định chơi trò gạo đã thành cơm, cho quân tung tin ông Trọng chết, có nghĩa muốn phế truất ông, đẩy ông Trọng vào thế khó, nếu đang đi không nổi vậy mà xuất hiện công chúng thì khác nào tự hại mình vì mạch máu chưa ổn. Còn xuất hiện trong tình cảnh như thế hay không xuất hiện đều bất lợi, có thể dẫn dến việc đòi hỏi thay thế ông vì bằng chứng sức khoẻ ông đã quá yếu. Người thay thế sẽ là đàn em của Tư Sang là Xuân Phúc và phó Xuân Phúc. Nguyễn Thanh Nghị nhà 3x thì nhiều người biết là loại thư sinh trói gà không chặt, sức mấy mà có hạ độc thủ người như tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông Trọng cũng thừa khôn ngoan để đánh giá ai nguy hiểm mà cần bảo vệ mình, chính vậy khi biết Tư Sang đi nghỉ mát Phan Thiết sắp về, ông phải vội về Hà Nội nằm để tránh phải gặp, mặc dù bác sĩ bảo không đi máy bay được. Tư Sang cay cú xúi mấy tờ báo viết việc người xuất huyết não đi máy bay là nguy hiểm để làm mất uy tín tổng Trọng rằng khó bảo đảm sức khoẻ. Việc đổ dồn vào Nghị một công đôi việc, vừa hướng dư luận không dể ý đến phe mình, vừa trả thù riêng, vừa đánh tiếng cho dư luận biết ông Trọng yếu, cần thay ( thay nười của Tư Sang ) Nhà 3x lúc này mà không chiến lại, thật là quá dở, để Tư Sang xúi người phao tin trục lợi, mà cứ khoanh tay nhìn thì chẳng nên tí nào. Tầm này nếu nhà 3x chỉ phang lại cánh Tư Sang chỉ vì trả đũa cá nhân, hẳn phe ngoài Bắc họ sẽ ủng hộ cho hai bên đánh nhau cân bằng, họ cũng không muốn bọn Tư Sang nhân cơ hội đục nước béo cò. Bên ông Trọng lúc này chỉ có nước bịt tin và cho người viết rằng ông vẫn khoẻ này nọ, như mới hôm qua nhà báo đi theo ông Trọng nói rằng ông chỉ cảm nhẹ. Tầm đã đến này rồi, các bên ngửa bài mà phang nhau đi thôi, bên nào không phang sau phe kia nó thắng thì chuốc hoạ. Người Buôn Gió| Nguồn: facebook.com/nguoibuon.gio.9/posts/2283278645063749 Bài của Đỉnh đây. ------------------------- Không hiểu sao đang nghĩ về anh tôi chợt nhớ cuốn " Làm thế nào để giết một tổng thống '' của Linh mục Cao văn Luận. Về vụ án của cháu Đoàn thị Hương làm chết ông Kim Jong-nam, hình ảnh trích xuất camera chỉ cho thấy một mình bị cáo Việt Nam vòng tay qua người ông Kim Jong-nam từ đằng sau, còn Siti Aisyah – cô gái Indonesia vội vã chạy đi từ đằng sau. Nhưng thực ra, nhiều nhân chứng khác vẫn có thể chứng tỏ vai trò của Siti Aisyah trong cái chết của Kim Jong-nam. Trước khi chết, ông Kim vẫn có thể đi được vài bước và nói với một tiếp tân tại sân bay, "ai đó đã tạt chất gì vào mặt tôi và một người phụ nữ đã chụp vào mặt tôi với một chiếc khăn tẩm dung dịch". Phóng viên Thùy Linh phân tích, từ Selangor, Malaysia. “ Đây chính là hình thức vũ khí hoá học nhị phân, theo nhiều chuyên gia phân tích. Trong đó sẽ có hai hoặc nhiều sát thủ, mỗi người có thể đã tẩm hai hoặc nhiều tiền chất của chất độc lên mặt nạn nhân. Phương pháp này sẽ đảm bảo rằng những kẻ tấn công không bị giết chết bởi chất độc và sẽ ít bị phát hiện hơn khi đem các thành phần hoá học riêng biệt của chất độc này vào Malaysia.” Thưa các bọ mạ bạn hữu. Những ai đã đọc cuốn “ Làm thế nào để giết một tổng thống” của linh mục Cao văn Luận ??? Những ai đã băn khoăn về cái chết của Ông Kennedi ??? Thời đó xưa rồi, thời bây giờ là cái chết của ngài anh trai chủ tịch Ủn, nên tôi ngẫm nghĩ về khái niện vũ khí hóa học nhị phân thời nay. Sáng ăn trứng opla ( có ai bỏ một chút gì đó vô hại - 1 ). Khát thì chút nước cam ( có ai bỏ chút gì đó cũng vô hại - 2 ) Trưa có cái khăn lạnh để lau ( có ai bỏ chút gì đó vô hại - 3 ) Ba thứ này đơn lẻ thì vô hại. Nhưng ba thứ này đổ vào cùng một đối tượng thì chết là cái chắc. Mấy năm nay nhỡ anh gieo rắc bao ân oán, nhỡ anh đã tạo cho mình biết bao kẻ thù. Vậy mà anh lại phó hội kiểu ấy. Mấy năm qua anh dồn bao thằng đến khuynh gia bại sản, đến chết trong tủi hổ. Anh đang định ra đòn quyết định cho cuộc chiến của anh. Anh lại ngồi cạnh con trai của kẻ một mất một còn với anh. Anh tự tin quá, anh ngạo nghễ quá. Anh mất cảnh giác đã đành nhưng bè lũ bảo vệ anh cũng ngờ nghệch vậy ư ??? Tôi âm thầm uống rượu một mình, lo cho anh quá, thương anh quá. Xót xa quá anh ơi. Suốt ngày hôm nay buồn. Bọn hàng hoa Ngọc hà đang lao xao…      
......

Mua, rồi mua tiếp, chạy rồi, chạy tiếp chứ sao

J.B Nguyễn Hữu Vinh – RFA| Thi cử ngày nay có khác xưa Vụ gian lận điểm thi, dù quan chức địa phương, Bộ Giáo dục, Bộ Công an bằng mọi cách che giấu bằng cách viện ra đủ những ngôn từ mỹ miều như để bảo đảm “tính nhân văn”, “sự riêng tư”, “vì tương lai các cháu…” thì rồi cuối cùng vẫn cứ “lộ sáng” những quan chức có con cái đã gian lận điểm thi. Sở dĩ các địa phương bằng mọi cách giấu diếm tên tuổi những kẻ tham gia đường dây gian lận này, chỉ bởi một điều đơn giản: Các đối tượng gian lận điểm thi đó, toàn là con cái quan chức lãnh đạo cộng sản. Ở đó có sự tham gia của đầy đủ lãnh đạo các ban ngành, chính quyền cho đến các cơ quan chuyên môn, Từ lãnh đạo Tỉnh, bí thư Tỉnh ủy, công an, giáo dục, kiểm lâm, thuế vụ… Nghĩa là không trừ một bộ phận nào, ngành nào dù đó là những cơ quan lãnh đạo về chính trị, chính quyền, luật pháp, hành pháp… đủ cả. Và nếu như một vài đại biểu Quốc hội, nhiều người có tiếng tăm cũng như sự phẫn uất của người dân đòi ngay lập tức đình chỉ công việc, đuổi khỏi ngành, kỷ luật những người đã tham gia vụ gian lận thi cử thì hệ thống đảng và chính quyền sẽ lập tức đóng cửa. Bởi: “Cứ vi phạm mà kỷ luật hết thì lấy đâu ra cán bộ mà làm việc”.  – Nguyễn Sinh Hùng, nguyên Chủ tịch Quốc hội. Điều mà người ta nhìn thấy ở đây, là những điều không thể tin nổi vẫn có thể xảy ra với những kỳ thi quốc gia vốn yêu cầu sự nghiêm ngặt đến mức cao nhất. Khủng khiếp hơn nữa, bởi điều này xảy ra không chỉ ở một, mà là rất nhiều địa phương, không phải chỉ một kỳ thi, người ta biết rằng đã có nhiều năm, nhiều kỳ thi như vậy. Việt Nam, với ngàn năm văn hiến, kể từ kỳ thi đầu tiên năm Ất Mão 1075 đời Lý  đến nay, đã gần 1000 năm trôi qua có lẽ chưa có thời kỳ nào có những kỳ thi hỗn loạn, khủng khiếp như hiện nay. Nếu như ngày xưa, trong suốt 143 năm tồn tại, triều Nguyễn tổ chức 39 khoa thi hội, lấy đỗ 293 vị tiến sĩ, chỉ có duy nhất một người trong hoàng tộc đỗ đại khoa, đó là ông Tôn Thất Lĩnh, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1889) triều Thành Thái. Trên các bia tiến sĩ chỉ thấy lác đác vài người xuất thân là ấm sinh, ấm tử, còn lại đại đa số là con em giới bình dân. Thì ngày nay, không chỉ con mà cháu chắt, họ hàng quan chức cán bộ Tỉnh, huyện đều lũ lượt xếp hàng làm thủ khoa vào các trường Đại học do được gian lận điểm thi, còn con em nông dân, dù có “nhà nghèo học giỏi” đến mấy, cũng phải nhường chỗ cho con quan nhởn nhơ não phẳng. Nếu như ngày xưa, mà bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Thì ngày nay, thí sinh không cần mang tài liệu vào phòng thi đã đành, mà cũng chẳng cần làm bài thi, cứ để trắng giấy thi rồi sẽ có người lo đánh dấu làm bài chấm thi cho chúng. Điển hình là những bài thi trắc nghiệm đến 80 câu hỏi mà thí sinh vẫn được 0 điểm, để rồi sau đó nâng lên 9 điểm đỗ Thủ khoa vào đại học. Nếu ngày xưa, đã vi phạm quy chế thi cử, thì bất cứ ai cũng đều bị trị tội, như trong kỳ đệ tứ khoa thi Hội dưới thời vua Lê Hiển Tông, con trai nhà bác học nổi tiếng Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt, đã đổi quyển thi cho một thí sinh khác tên Đinh Thì Trung. Khi sự việc bị phát giác, Thì Trung bị đày ra Yên Quảng, Quý Kiệt bị tước bỏ học vị cho về làm thứ dân, rồi bắt giam vào ngục cửa Đông. Thì ngày nay, quan chức Cộng sản nổi tiếng “nhân văn” nên không thông báo tên tuổi thí sinh gian lận và không muốn công khai tên tuổi những cha mẹ thí sinh gian lận bởi “tính nhân văn”, “quyền riêng tư, nhạy cảm” – Cái “nhân văn” cộng sản đến thế là cùng. Có lẽ, tự hào về thành tựu giáo dục với những cái khác xưa như vậy mà Nguyễn Phú Trọng đã mạnh mồn tuyên bố: “Giáo dục của chúng ta chưa bao giờ được như bây giờ”. Những câu hỏi khó trả lời Rất nhiều câu hỏi được đặt ra, báo chí phân tích đủ mọi khía cạnh của những tác hại, hậu quả của những sự gian lận này đến công bằng xã hội, đến nhân tài đất nước, đến tương lai dân tộc… Trong đó, có câu hỏi nhiều người đặt ra: Với những thí sinh mà bài thi bị điểm 0, được nâng lên tới 26.55 điểm với chỉ 3 môn thi. Nghĩa là kiến thức những học sinh này gần như bằng không. Vậy thì khi được nâng điểm để đưa vào các trường Đại học, dù với danh nghĩa là Thủ khoa đơn, thủ khoa kép nhưng cái đầu rỗng thì làm sao học tập để có thể hoàn thành tốt  nghiệp, ra trường? Câu hỏi đặt ra khá thực tế. Bởi chuyện học đâu phải chuyện đùa hay chỉ vì “tình hữu nghị cộng sản” theo cách nói của dân gian thời kỳ trước đây rằng: Cứ mang một con lợn sang Liên Xô, mấy năm sau Việt Nam sẽ được một Phó tiến sĩ. Sẽ rất nhiều người không thể hiểu được, những học sinh trắng về nhận thức và học lực như vậy, chúng vào trường Đại học để làm gì? Bởi làm sao với những bộ não đó có thể nhồi nhét được kiến thức để có thể tốt nghiệp ra trường. Nhưng, những người đặt câu hỏi đó chỉ là những người chưa hiểu biết về hệ thống giáo dục XHCN ở Việt Nam, một nền giáo dục “Hoàn toàn Việt Nam” mà Hồ Chí Minh đã tuyên bố từ 2/9/1945. Những người đặt ra câu hỏi đó, chỉ là những người suy nghĩ về việc học và dạy trong môi trường xã hội bình thường. Ở môi trường chính trị, xã hội bình thường, thì những việc đưa cái đầu rỗng hoàn toàn vào đào tạo đại học là chuyện không bình thường. Thế nhưng, ở đất nước Việt Nam hôm nay, với một hệ thống chính trị cộng sản do đảng lãnh đạo tuyệt đối”, thì việc đó đã trở nên bình thường, bởi xã hội Việt Nam đã là một xã hội không còn bình thường. Trả lời câu hỏi: Giải pháp “Kiến tạo Việt Nam” Ngày nay, Giáo dục đã trở thành một nghề khá sôi nổi và kiếm tiền làm giàu khá thành công. Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương đương 5% GDP. Số tiền đó không nhỏ, nhưng các cơ quan Bộ, ngành, sở, phòng ban và các cơ quan cấp ủy, công đoàn, công sở… chiếm một tỷ lệ lớn trong việc chi tiêu cho những nhu cầu “đổi mới giáo dục”, “tham quan nước ngoài” “Cải cách giáo dục”, cử người đi đào tạo ở nước ngoài… là chính. Còn đồng lương cho giáo viên công chức, vẫn là đồng lương chết đói. Nhưng điều đó không hề gì. Bởi xã hội đã buộc phải quan tâm và chi tiền. Từ chỗ một số trường đại học có thể đếm trên đầu ngón tay, ngày nay, hàng trăm trường đại học đua nhau ra đời để kinh doanh. Cả đất nước được lập đại học, các tỉnh, thành, công ty… đua nhau mở trường. Thế rồi trường nhiều thì đua nhau cạnh tranh, hạ giá đầu vào bằng điểm chuẩn. Thậm chí, có những trường Đại học chỉ có thể tuyển sinh vào trường khi thí sinh mỗi môn chỉ cần đạt… 4 điểm. Bởi những trường này, từ cách tổ chức cơ sở vật chất cho đến đội ngũ giáo viên, quy mô và chất lượng hẳn nhiên là điều không cần phải bàn. Bởi có bàn cũng thừa biết là nó không có lối thoát khỏi sự chắp vá và không chất lượng. Thế nhưng cũng chẳng sao, bởi đầu vào của những trường này là con cái quan chức, học hành thì ít mà ăn chơi đập phá thì nhiều. Còn đầu ra đã có hệ thống chính trị lấy “hồng hơn chuyên” sử dụng bất chấp chất lượng, kết quả học tập. Nó đã phình to đến 11 triệu người ăn lương thì có phình to hơn nữa, cũng chẳng sao, tiền dân cứ trả. Còn con cái thuộc giai cấp “Công nông” ư? Cứ chờ đó, kiếm tiền mà mua chỗ làm việc, nếu không thì cứ thủ khoa cũng về chăn bò. Nói đến những điều đó, nhằm để nói lên rằng, việc đầu vào là những học sinh gian lận, không có kiến thức là không đáng lo. Với cái đầu rỗng tuếch và tư duy con nhà giàu, con quan chức làm vua một cõi, mà những học sinh này sẵn sàng theo gương bố mẹ chúng làm bất cứ điều gì để có kết quả, thành tích như ý muốn. Bởi cái đầu nó nhẹ, nhưng cái túi bố mẹ nó rất nặng, có thể chi phối cả hệ thống chính trị thì sá gì vài ông thầy, vài kỳ thi ở trong bậc Đại học. Thậm chí, với bước trưởng thành mở đầu bằng sự gian dối, thì sự gian dối đó sẽ tiếp tục sinh sôi nảy nở theo cuộ đời của các thí sinh này. Cũng chính vì thế, mà ở Việt Nam thời gian gần đây mới xuất hiện nhiều và ngày càng công khai, bình thường những nhà giáo đủ mọi gương xấu như ấu dâm, làm tiền sinh viên, những thầy giáo, cô giáo đổi tình lấy điểm… Tất cả những gian lận ấy, bắt nguồn từ sự gian lận trong mỗi gia đình quan chức, trong tổ chức, cơ quan và cả bộ máy chính trị hiện nay mà hình thành và phát triển. Thế rồi đám sinh viên, học sinh ấy lại ra trường với tấm giấy chứng nhận làm hành trang và tạo vỏ bọc để  bước lên làm lãnh đạo, được xác định là “Hồng phúc của dân tộc”- Nguyễn Thị Quyết Tâm, Chủ tịch HĐND Tp Sài Gòn. Thế rồi cái đám ấy đua nhau thành lập những cơ quan nhà nước mà ở đó cả gia đình, cả họ hàng làng xóm đua nhau làm quan. Thế rồi người ta thấy càng ngày càng nhiều những quan chức mà nói một câu không nên, viết vài dòng không ổn. Đó là hiện tượng quan chức luôn trong tình trạng “ngáo đá” để rồi phát biểu những câu đại loại như “Phê tê bốc”, “Không nhận hối lộ để làm nhanh giấy tờ hộ chiếu là thiếu nhân văn”, “CSGT nhận dăm ba chục ngàn ngoài đường không thể gọi là hối lộ”… hay những Bộ trưởng, Thủ tướng mà phát biểu câu nào, thì chỉ làm khổ người dân cười đến đứt ruột vì quá hài hước bởi sự ngô nghê về nội dung và hình thức. Bởi vì: Ma đưa lối, quỷ dẫn đường Cứ lần theo bước đoạn trường mà đi Tạm kết Những hiện tượng nói trên đây, chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng loạt vấn đề lớn lao rữa nát mà ngành giáo dục nói riêng, cả hệ thống nói chung đang phải đối mặt. Dù luôn trên môi miệng người cộng sản thì vẫn “Giáo dục là quốc sách”. Chỉ có điều cái gọi là Quốc sách đó đang là một vũng lầy lội những nguy cơ. Việc gian lận trong thi cử, là một điểm trong hàng vạn điểm đen của hệ thống giáo dục Việt Nam hiện tại. Tuy nhiên, đó là điểm được xã hội quan tâm gìn giữ xưa nay, mà mỗi khi phạm đến nó, nghĩa là cả hệ thống đã đến mức không còn phương nào cứu chữa. Ngay từ thời xa xưa, cha ông ta quan niệm giáo dục chính là “bách niên chi kế”, là quá trình “trồng người”. Nếu xảy ra gian lận trong quá trình học tập sẽ tạo ra những con người hư hỏng, không thể sử dụng được. Còn ngày nay, khi mà sự gian lận không chỉ trong xã hội, trong cả hệ thống chính trị đã ngấm sâu, len lỏi và mọc mầm, bắt rễ vào nền giáo dục, thì đất nước chỉ có một con đường đi đến chỗ suy vong. Gần đây, trên mạng Internet lan truyền một câu nói được cho là của Nelson Mandela. Dù có phải là của ông hay không, thì câu nói vẫn rất có ý nghĩa rằng: “Để phá huỷ bất kỳ quốc gia nào không cần phải sử dụng đến bom nguyên tử hoặc tên lửa tầm xa. Chỉ cần hạ thấp chất lượng giáo dục và cho phép gian lận trong các kỳ thi của sinh viên. Bệnh nhân sẽ chết dưới tay của các bác sĩ trong nền giáo dục đấy. Các toà nhà sẽ sụp đổ dưới bàn tay của các kỹ sư trong nền giáo dục ấy. Tiền sẽ bị mất trong tay của các nhà kinh tế và kế toán của nền giáo dục ấy. Công lý sẽ bị mất trong tay các thẩm phán của nền giáo dục đấy. Sự sụp đổ giáo dục là sự sụp đổ của một quốc gia.” Và cái thứ có sức công phá mạnh hơm bom nguyên tử, hơn cả đại bác tầm xa đã và đang sừng sững xuất hiện một cách vững chắc ở Việt Nam trong “thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất”: Nền giáo dục băng hoại./.
......

Bản chất không đổi

Đỗ Văn Ngà| Hiệp định Geneva 1954 là một hiệp định quyết định lấy vĩ tuyến 17 chia làm 2, vùng tự do phía Nam và cộng sản phía Bắc. VNDCCH phía Bắc đã ký vào hiệp định. Để gây nội chiến, ông Hồ Chí Minh và ĐCS cho người của mình cài cắm lại phía nam lấy danh nghĩa là quân nổi dậy miền Nam chống Mỹ – Diệm hoặc Mỹ – Thiệu (theo cách gọi của CS) sau này. Thực chất là để tuyển quân tại chỗ và tiếp nhận quân chính quy từ miền Bắc vượt Trường Sơn nhập vào gây ra nội chiến đẫm máu trên toàn miền Nam. Lực lượng mặt trận giải phóng Miền Nam chỉ có nhiệm vụ là nấp trong dân giết lính VNCH. Họ là quân du kích, ngày giả dạng nông dân, đêm cầm súng bắn giết. Tổ chức mặt trận này là tổ chức kháng chiến chứ không phải là tổ chức nhà nước. Nó chỉ có tuyển người để bắn và giết và chết chứ nó không hề bỏ tiền ra xây một trường học hay bệnh viện nào trên toàn cõi Miền Nam này cả. Đó là bản chất của tổ chức kháng chiến mang tên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Thế nhưng khi xem tiểu sử của ông Nguyễn Tấn Dũng thì từ năm 1961 khi mới 12 tuổi theo kháng chiến. Vậy trình độ học vấn của ông cao lắm là lớp 6. Từ năm 1961 đến 1975 là 14 năm ông trốn chui trốn nhủi theo kháng chiến – một tổ chức chỉ giết và giết không hề xây dựng và quản lý 1 trường nào trên toàn Miền Nam, thế mà ông ta có bằng Y tá – một bằng cấp đòi hỏi phải học đến 12 mới đủ kiến thức nền học chuyên môn. Vậy mà Đảng phù phép cho ông được làm y tá. Nói thẳng ra, phong cho ông Dũng làm y tá là trò của Tổ chức CS. Chỉ cần anh nào đó khoát áo y tá để lừa cho những người cầm súng chiến đấu cho đảng tin rằng, mình bị thương sẽ được đảng cứu. Chứ thực chất, họ chỉ thấy đảng cũng cử y tá cứu họ và họ tin chứ họ đâu biết trong chục thằng y tá của đảng thì hết 9 thằng y tá dỏm. Những người bị thương, chết cũng chả sao, chết thằng này tuyển thằng khác. Chính vì thế nên loại anh học lớp 6 khoác áo y tá như Ba Dũng được trọng dụng, chứ ông Dũng đào đâu ra chuyên môn đúng cho một y tá? Ngày nay thì nói tới 3 Dũng ai cũng biết vì ông quá nổi tiếng. Sau này trên con đường quan lộ ông cũng học bổ túc rồi tại chức như ngồi máy bay ngắm hoa mặt đất và cuối cùng cũng có được bằng cử nhân để ngồi vào ghế thủ tướng. Theo tiêu chuẩn của Đảng thì ông Ba Dũng ngồi vào được, vì đảng cần người cho ghế thủ tướng không phải để quản trị đất nước mà để trừng trị nhân dân. Nên hoạn lợn hay bằng cử nhân dỏm thì được hết. Bằng chỉ là làm cho ra vẻ lãnh đạo có chữ chứ bọn họ làm lãnh đạọ cần gì chữ? Những anh tây học có chữ nếu muốn vào chính trường thì phải vứt hết những gì giáo dục đã cho họ, và học lại toàn bộ những thủ đoạn thâm độc nhất, những chiêu nịnh hót giỏi nhất, những chiêu trở cờ bất ngờ nhất để trụ lại chiến đấu trong chính trường ĐCS. Nguyễn Thiện Nhân tây học thì ông cũng vứt hết để hòa vào tính lưu manh chung trong ĐCS mà tiến thân. Nguyễn Thanh Nghị con trai ông Nguyễn Tấn Dũng cũng tây học, rồi khi theo cha bước vào chính trường cũng vứt đi hết những giá trị giáo dục công phu đó. Về Kiên Giang, kết hợp với kinh nghiệm chính trường của tía cậu – ông Ba Dũng, nay Nguyễn Thanh Nghị trở thành tay làm chính trị rất đúng chất Nguyễn Tấn Dũng. Cú ngã bệnh của ông Nguyễn Phú Trọng ở Kiên Giang làm cho giới chính trị gia CS phải nhìn Nghị dưới con mắt khác. Nói thế để chúng ta thấy, dù cho quan chức CS có cho con cái tây học thực sự, thì khi trở về tiếp quản quyền lực, nó vẫn lưu manh hoàn lưu manh. Cho nên, việc các quan chức cho nâng điểm con cái của mình để thành những thí sinh đậu điểm cao vào học ngành cảnh sát rồi cơ cấu, ấy cũng là chủ trương của Đảng từ lâu. Chẳng qua người ta khui vì muốn đánh ai đó mà thôi. Những cậu ấm cô chiêu học dốt đậu cao đó là chính sách. Lưu manh hóa hạt giống đỏ để thành lãnh đạo chứ họ không cần phải kiếm chữ hay luyện chuyên môn gì cả. Chỉ đơn giản là vậy. Nó là bảng chất của đảng từ bao đời rồi./.
......

Thu phí người nuôi bệnh là sự tàn nhẫn không tình người

Quỳnh Hương! Mới đây, trên báo Pháp Luật ra hôm Thứ Năm ngày 11 tháng 4 có một bài viết: “Bộ Y Tế: Thu phí người nuôi bệnh là hợp lý”, trong khi đó trên báo điện tử của VOV thì có một bài viết ký tên Vũ Hanh, cho rằng việc thu phí người nuôi bệnh đã nói lên tình trạng quản lý yếu kém của bệnh viện. Lý do mà các bệnh viện đưa ra khi thu khoản phí này là do có quá nhiều người vào bệnh viện, sử dụng điện nước… nên phải thu tiền để cân đối. Đa số dư luận đều cho rằng chủ trương thu phí người nuôi bệnh của Bộ Y Tế là tùy tiện, bất kể nơi đâu, lúc nào của nhà nước đã thực sự gây mối bất an trong người dân, khi ai cũng sẽ là người phải nuôi bệnh ở một lúc nào đó trong suốt cuộc đời mình. Đặc biệt hơn là vấn nạn ung thư đang trở thành một đe dọa rất lớn cho tình hình sức khỏe của người Việt hiện nay. Vấn đề không phải ở vài chục ngàn trả cho bệnh viện (các bệnh viện ở TP.HCM thu 30.000 đồng/người), mà nằm ở chỗ cách thức nhà nước đối xử với người dân của mình. Bệnh nhân nằm tại các bệnh viện công đại đa số là người lao động nghèo tại thành phố hoặc ngoại tỉnh kéo về. Không ai trong số họ mong muốn “được” nằm lăn lóc dọc lối đi hay chen nhau chui xuống gầm giường để nghỉ mệt trong thoáng chốc. Vệ sinh cơ thể chắc chắn là thiếu thốn vì không được tắm rửa hay giặt giũ, chỉ vài lít nước phông tênh giải quyết cái khát hay dùng để nấu mì gói qua ngày không thể gọi là tiện ích công cộng được. Ở Việt Nam ngày nay, vào bệnh viện đã là một sự khốn khổ. Đồng tiền phải đi trước, dù cấp cứu gần chết thì phải đóng tiền mới có người hỏi tới, không thì nằm đó chờ. Một người bệnh ít nhất phải có một người đi theo nuôi bệnh bởi lực lượng y tá, điều dưỡng không thể chăm sóc người bệnh. Con nuôi cha mẹ, vợ nuôi chồng, chồng theo nuôi vợ, con cháu nuôi ông bà… Không thể không có mặt được. Không chỉ để rót miếng nước, đút miếng cháo, đưa viên thuốc mà còn phải có mặt thường trực để khi bác sĩ, y tá cần thì đáp ứng ngay. Tại các bệnh viện công đa số bệnh nhân đều là người nghèo đến từ các tỉnh, có người không đủ tiền mua thuốc, và người đi nuôi bệnh thường là sống nhờ cơm từ thiện. Chồng vừa nuôi vợ bệnh vừa chạy xe ôm là chuyện thường tình. Họ nghèo lắm, nghèo đến xác xơ. Nhà có người bệnh, nhất là những bệnh nan y kéo dài ngày chữa trị thì từ gia đình kha khá biến thành hộ nghèo và người nghèo trở thành tàn mạt điêu đứng cũng là… chuyện thường tình! Bán trâu, bán ruộng, bán vườn rồi bán nhà khăn gói lên thành phố chữa bệnh cho người thân, trắng tay cũng là… chuyện thường tình! Còn cán bộ lãnh đạo các cấp khi bệnh là có phòng riêng, có bác sĩ riêng, có y tá, điều dưỡng riêng, có chế độ chăm sóc cũng riêng. Không chỉ bản thân cán bộ mà cả gia đình của họ cũng được những ưu đãi khi đưa đến bệnh viện. Một số cán bộ giàu có khác, không chữa trị ở trong nước mà tìm cách vận động để được đưa sang chữa trị ở nước ngoài như Singapore, Nhật Bản, Hoa Kỳ v.v… với những cặp đô la, hột soàn mang theo để chi tiêu, chưa kể đến ngân sách nhà nước dành cho họ. Lãnh đạo các cấp đâu thấm cảnh chạy vay từng đồng để mua thuốc, mua nước biển. Người thân của họ đâu phải nằm ở hành lang, ở sân bệnh viện để nuôi bệnh, họ đâu phải xếp hàng để kiếm miếng cơm từ thiện qua ngày. Cho nên họ mạnh miệng cho rằng thu phí người nuôi bệnh là hợp lý. Tuyên bố như thế là chưa thấm được nỗi đau của dân, chưa đồng cảm với nỗi khổ của dân. Tất cả các bệnh viện ở Việt Nam đều quá tải, khiến bệnh nhân phải nằm ghép từ 2, đến 3-4 người/giường. Nhưng điều đáng nói là khi thanh toán thì bệnh nhân vẫn phải chịu đầy đủ theo công thức 1 người/giường/ngày nhân đơn giá thu phí. Vì thế mà dân đã nghèo tận đáy khi trở thành người bệnh mà còn bị tận thu như thế là một việc làm tàn nhẫn, huống chi bây giờ lại thu thêm tiền của người nuôi bệnh. Hầu hết các quốc gia trên thế giới và cả chế độ Miền Nam cũ, các bệnh viện công còn gọi là nhà thương thí, ở đó bệnh nhân được chữa trị không mất tiền, còn được nuôi ăn. Người nuôi bệnh có chỗ còn được cung cấp các bữa ăn do các tổ chức xã hội phân phát. Họ không hô hào vì dân nhưng họ đồng cảm với hoàn cảnh với người bệnh. Đó là cách đối xử nhân văn, nhân đạo giữa con người với nhau. Còn bây giờ nhà cầm quyền CSVN luôn tuyên truyền, hô hào là một chế độ vì dân, do dân và lo cho dân mà hành xử với nhau như thế nào? Người ta cứ nghĩ việc tận thu, càng nhiều càng tốt, sống chết mặc bay với những lý lẽ nghe qua tưởng chừng rất hợp lý. Qua chính sách thu phí đối với người nuôi bệnh của Bộ Y Tế, càng cho thấy là sau hơn 40 năm cầm quyền, đảng CSVN tìm mọi cách để tận thu và bóc lột từ người dân hơn là khắc phục những yếu kém để phục vụ người dân. Rốt cuộc chủ trương “dân giàu nước mạnh” của chế độ CSVN chỉ là khẩu hiệu để chăm chăm móc túi của dân. https://viettan.org/thu-phi-nguoi-nuoi-benh-la-su-tan-nhan-khong-tinh-nguoi/  
......

Lần đầu tiên báo chí quốc tế đề cập đến tin đồn về tình trạng sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng

Hiếu Bá Linh – Dân Luận| Không kể đến những tin đồn về tình trạng sức khỏe, câu hỏi lớn vẫn là ai sẽ kế nhiệm Nguyễn Phú Trọng. Nguyễn Xuân Phúc, Trần Quốc Vượng hay ông Phạm Minh Chính? Vì không có ứng cử viên nào có triển vọng chiến thắng rõ ràng, cho nên sự tương quan quyền lực giữa ba ứng cử viên trội nhất này – không kể đến những ứng cử viên khác – có thể dẫn đến một cuộc đấu đá khốc liệt trước năm 2021. ——————– Hôm qua ngày 19/04/2019 tạp chí The Diplomat (Nhà Ngoại giao) đăng bài báo với hàng tít „Việt Nam đang sa vào một cuộc khủng hoảng kế nhiệm?“. Ngay phía dưới tựa đề là hàng tít „Không kể đến những tin đồn về tình trạng sức khỏe, câu hỏi lớn vẫn là ai sẽ kế nhiệm Nguyễn Phú Trọng“. Sau đây là bản dịch bài báo trên: Một tin đồn về sức khỏe của nhà lãnh đạo tối cao Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng, đã gây bão khắp đất nước trên các phương tiện truyền thông xã hội sôi động trong những ngày gần đây. Ông Trọng, 75 tuổi, được cho là đã bị đột quỵ trong chuyến thăm tỉnh Kiên Giang ở miền Nam vào ngày sinh nhật của ông ta. Sự im lặng vụng về của truyền thông nhà nước chỉ làm đổ thêm dầu vào lửa, làm phát sinh các thuyết âm mưu về một vụ ám sát của Nguyễn Tấn Dũng, đối thủ trước đây của ông Trọng (tỉnh Kiên Giang được coi là thành trì của ông Dũng và con trai ông hiện đang tiếp tục nhiệm kỳ Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang). Chúng ta đã chứng kiến vụ việc tương tự xảy ra trước đây. Năm ngoái, cư dân mạng Việt Nam đã chia sẻ những tin đồn liên quan đến sức khỏe của Chủ tịch nước lúc đó là Trần Đại Quang, trong khi chính quyền cũng một mực im lặng. Cuối cùng truyền thông nhà nước đưa ra thông báo chính thức, khi ông Quang qua đời vào tháng Chín. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là con đường của ông Trọng sẽ đi theo con đường của ông Quang. Rốt cuộc, hầu như không thể xác minh thông tin đó trong một chế độ độc đoán được kiểm soát chặt chẽ như Việt Nam, nơi sự nhận biết của một chuyên gia có thể không đáng tin hơn những tin đồn được nghe trong vô số quán cà phê ở Việt Nam. Bất kể những tin đồn đó là đúng hay sai, mối quan tâm của công chúng về tình trạng sức khỏe của ông Trọng có tác động đáng kể đến chính trị Việt Nam, khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 vào năm 2021. Ông Trọng – khi đó 77 tuổi – sẽ quá già để lãnh đạo, đó là chưa kể đến quy định không chính thức: giới hạn không được làm quá 2 nhiệm kỳ. Vấn đề sức khỏe – nếu thật sự có – sẽ ngăn chặn mọi nỗ lực để ông ta có thể ở lại lâu hơn. Đầu năm 2018, Bộ Chính trị theo hướng dẫn của ông ta đã ban hành Quy định số 90, đặt „sức khỏe“ thành một điều kiện để được giữ các chức vụ chủ chốt. Động thái này được coi là một nỗ lực nhằm loại bỏ ông Quang, nhưng trớ trêu giờ đây quy định này quay lại „cắn“ ông Trọng sớm như vậy. Câu hỏi lớn đặt ra là ai sẽ kế nhiệm ông Trọng nắm giữ chức vụ kép: Tổng bí thư Đảng và Chủ tịch nước, nếu sự „nhất thể hóa“ này vẫn còn được tiếp tục duy trì. Hiện tại, thực tế không có ứng cử viên nào phù hợp với các quy định và chuẩn mực của Đảng. Những dự đoán của các chuyên gia phân biệt sự khác nhau giữa ông Trần Quốc Vượng – Sa Hoàng chống tham nhũng – ông Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Xuân Phúc và ông Phạm Minh Chính, một cựu Thứ trưởng Bộ Công an đã trở thành người đứng đầu Ban Tổ chức Trung ương Đảng đầy quyền lực. Nhưng cả 3 ứng cử viên này đều không hoàn hảo. Để đủ điều kiện cho chức vụ này, một ứng cử viên phải có ít nhất một nhiệm kỳ thành viên Bộ Chính trị (lý tưởng là hai nhiệm kỳ), dưới 65 tuổi, có kinh nghiệm làm việc trong chính phủ và thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin (thuật ngữ này được định nghĩa mơ hồ, mặc dù nó có thể liên hệ với vùng miền: tất cả các Tổng bí thư đều là người miền Bắc bảo thủ). Phạm Minh Chính & Trần Quốc Vượng Trần Quốc Vượng chưa bao giờ giữ một chức vụ lãnh đạo, chẳng hạn Bí thư Tỉnh ủy hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Ứng cử viên duy nhất được giữ chức vụ đứng đầu mà không có kinh nghiệm như vậy là Lê Khả Phiêu vào năm 1997. Tuy nhiên, ông Phiêu lúc đó đã nằm trong số năm thành viên của Ban Thường vụ Bộ Chính trị (hiện đã giải tán), và giữ một vị trí chủ chốt trong quân đội. Ông Vượng không có nền tảng đó, và tuổi của ông ta – vào năm 2021 sẽ vượt quá giới hạn của Đảng là 65 tuổi – sẽ càng làm suy yếu vị thế của ông ta. Là một nhà kỹ trị giàu kinh nghiệm và là thành viên Bộ chính trị 2 nhiệm kỳ, ông Nguyễn Xuân Phúc là một ứng cử viên dẫn đầu rõ ràng, nhưng không phải không có sự gièm pha. Ông ta sẽ đạt 66 tuổi vào năm 2021, và quan trọng hơn, ông ta đến từ miền Nam (bên dưới vĩ tuyến 17, làn ranh chia cắt đất nước trong Chiến tranh Việt Nam). Cho đến nay chưa có một Tổng bí thư nào là người miền Nam. Những tin đồn kéo dài về cáo buộc tham nhũng của ông kể từ Đại hội vừa qua cũng có thể làm suy giảm khả năng ứng cử của ông. Ông Phạm Minh Chính là một ứng cử viên trẻ tuổi với thành tích mạnh mẽ trong lãnh vực cải cách kinh tế và hành chính, ông đạt được thành tích này khi làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh, một trong những tỉnh giàu nhất đất nước Quảng Ninh. Mặc dù thế, ông sẽ chỉ hoàn thành một nhiệm kỳ thành viên Bộ Chính trị vào năm 2021. Chức vụ hiện tại của ông cũng có thể là một điểm yếu: Chưa bao giờ có một Tổng bí thư mà trước đây từng làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Có một lô – gíc rõ ràng cho điều đó, vì một người như vậy sẽ được coi là có quá nhiều quyền lực khi giữ chức vụ cao nhất và đồng thời nắm giữ tất cả các hồ sơ nhân sự cấp cao của Đảng. Đó là trường hợp gần giống như một nhân vật Liên Xô khét tiếng Lavrentiy Beria. Bên cạnh đó, việc ông Chính không thể thuyết phục và đưa ra Dự luật Đặc khu Kinh tế mà đã gây ra cuộc biểu tình bạo lực ở Việt Nam hồi năm ngoái, sẽ làm giảm uy tín của ông. Như vậy, việc đề bạt bất kỳ ai trong số ba ứng cử viên đó sẽ dẫn đến việc Đảng vi phạm các quy định chính thức và không chính thức trong việc lựa chọn người lãnh đạo. Hơn nữa, vì không có ứng cử viên nào có triển vọng chiến thắng rõ ràng, cho nên sự tương quan quyền lực giữa ba ứng cử viên trội nhất này – không kể đến những ứng cử viên khác – có thể dẫn đến một cuộc đấu đá khốc liệt trước năm 2021. Nếu điều đó xảy ra, thì một trong bốn trụ cột của „khả năng hồi phục của chế độ chuyên chế“ (Authoritarian Resilience) được đề xuất bởi Andrew Nathan là „chính sách kế nhiệm dựa trên các nguyên tắc chuẩn mực“ sẽ sụp đổ. Trong quá trình chuyển giao quyền lực, Việt Nam giống như các chế độ chuyên chế khác sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng kế nhiệm. Để tránh một kịch bản hỗn loạn như vậy đòi hỏi lãnh đạo đảng CSVN phải thể chế hóa hơn nữa quá trình kế nhiệm. Đầu tiên, họ phải tránh mọi cám dỗ để củng cố quyền lực như Trung Quốc đã thực hiện dưới sự cai trị của Tập Cận Bình, và có lẽ Việt Nam đã cố gắng làm điều đó trong nhiệm kỳ thứ hai của ông Trọng. Lãnh đạo tập thể và dân chủ trong nội bộ là những đặc điểm đặc biệt góp phần vào sự bền vững của đảng CSVN, và ở một mức độ nào đó, làm cho Hà Nội trở thành một chế độ nhân từ hơn Bắc Kinh. Frank Brandenburg giải thích, như thế nào đảng PRI của Mexico „tránh được chế độ độc tài cá nhân bằng cách cho các nhà độc tài của họ nghĩ hưu cứ sau sáu năm“. Đảng CSVN chắc chắn có thể đi theo con đường đó. Một số cơ chế kiểm tra và cân bằng – như bỏ phiếu tín nhiệm cho lãnh đạo đảng, được đưa ra hồi năm ngoái – cần được thúc đẩy và mở rộng. Thứ hai, đã đến lúc đảng CSVN xem xét phương thức các Đại biểu tham gia Đại hội Đảng bỏ phiếu trực tiếp bầu ra Tổng bí thư. Một bước như vậy đã được áp dụng ở cấp cơ sở Đảng từ năm 2009, nhưng chưa được thực hiện ở cấp cao hơn (huyện, tỉnh và quốc hội). Cách thực hành dân chủ khiêm tốn này, mặc dù hiển nhiên có những hạn chế, nhưng nó có thể giúp thiết lập một quy tắc kế nhiệm rõ ràng cho các ứng cử viên, và tạo ra xác suất cao hơn để lựa chọn những người lãnh đạo giỏi trong thành phần tinh hoa của Đảng. Bất kể cuối cùng quá trình kế vị diễn tiến như thế nào, chính trị Việt Nam sau thời ông Trọng sẽ không giống như trước đó. Sự không xác định rõ về thế hệ lãnh đạo tiếp theo sẽ đặt ra sự hoài nghi về một loạt các vấn đề, từ chiến dịch chống tham nhũng đang diễn ra đến chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, cũng như chính sách đối ngoại của nó trong kỷ nguyên giằng co giữa các siêu cường ngày càng tăng ở châu Á. Quá trình kế nhiệm kéo dài càng lâu, thì đảng CSVN càng có nhiều khả năng sẽ rơi vào tình trạng bất ổn, tại một thời điểm mà nó cần ổn định và tập trung nhiều hơn. Hiếu Bá Linh (Biên dịch) Nguồn: https://thediplomat.com/2019/04/is-vietnam-creeping-into-a-succession-crisis/ http://nghiencuuquocte.org/2013/05/25/authoritarian-resilience/  
......

Phiên tòa xử cựu Thượng tá công an hiếp dâm nữ sinh lớp 9

Việt Tân Hôm 19 Tháng 4 năm 2019 vừa qua, TAND TP Thái Bình đưa ra xét xử kín vụ án cựu Thượng tá công an cùng 3 đồng phạm hiếp dâm nữ sinh lớp 9 vào năm 2018 gây xôn xao dư luận. TAND TP Thái Bình tuyên án như sau: Bị cáo Phạm Như Hiển, 44 tuổi bị tuyên 5 năm tù tội "Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi". 3 bị cáo còn lại bị tuyên án cùng về tội "Giao cấu với người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" gồm: Phạm Văn Lam, 46 tuổi, nguyên thượng tá, Phó phòng Cảnh sát Kinh tế, Công an tỉnh Thái Bình bị tuyên phạt 3 năm tù. Từ Minh Tuyên, 47 tuổi bị tuyên phạt 2 năm tù và Phạm Đức Việt, 48 tuổi 2 năm 6 tháng tù. Xin đươc nhắc lại, vào đầu tháng 9/2018, công an thành phố Thái Bình nhận đơn trình báo của gia đình nữ sinh lớp 9 về việc nữ sinh này theo bạn đi chơi đã nhiều ngày không về, điện thoại không liên lạc được. Sau nhều ngày tìm kiếm nữ sinh lớp 9 bất ngờ trở về nhà trong tình trạng khác thường, sức khỏe suy yếu và tinh thần bấn loạn và cho biết đã bị nhóm người đàn ông xâm hại tập thể tại khách sạn trên đường Trần Nhân Tông, thành phố Thái Bình. Nhóm đàn ông đó là 4 bị cáo bị đưa ra tòa xét xử trên. Điều làm dư luận càng thêm phẫn nộ khi biết được 1 trong những kẻ xâm hại tình dục nữ sinh lớp 9 này là một đảng viên đảng CS và là một cựu thượng tá công an. Gần đây những vụ xâm hại tình dục trẻ em gây ra bởi đảng viên CSVN khá phổ biến. Như vụ ấu dâm ở chung cư Lakeside, Vũng Tàu, đã bị công luận gây áp lực đến mức thủ phạm bị xử 3 năm tù giam. Và giờ là sự kiện đình đám của vụ ông Nguyễn Hữu Linh, Viện phó Viện kiểm sát TP Đà Nẵng. Ông này chỉ mới bị truy tố khi cộng đồng mạng lên tiếng thường xuyên để không bị chìm xuống. Nói chung những bản án dành cho quan chức CSVN hay những kẻ mang thẻ đảng luôn quá nhẹ. Trong luật có qui định rõ hành vi giao cấu với trẻ em vị thành niên lên đến 15 năm tù tuy nhiên bản án này chỉ dành cho dân còn quan chức thì rất nhẹ hoặc tù treo. Gây án, làm ảnh hưởng nặng nề suốt cuộc đời trẻ vị thành niên mà chỉ bị tù 3 năm. Thật là nhờ tấm thẻ đảng nên được giơ cao đánh khẽ. [T] - FB Việt Tân
......

Khủng hoảng lãnh đạo ở Việt Nam

Phạm Trần Cuộc khủng hoảng lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam đã bắt đầu từ khi có tin Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng bị tai biến mạch máu não, tuy nhẹ, nhưng phải cấp cứu tại bệnh viện trong chuyến thăm Kiên Giang trong hai ngày 13 và 14/04/2019. Đảng và chính phủ Việt Nam không chính thức xác nhận mà cũng không phủ nhận tin ông Trọng bất ngờ ngã bệnh lúc đang chỉ đạo các lãnh đạo và cán bộ Tỉnh Kiên Giang, nhưng các mạng xã hội ở Việt Nam đã mau chóng vào cuộc đưa tin chi tiết chưa bao giờ nhanh như thế. Các Nhà báo tự do đã kể chuyện các Bác sỹ chuyên khoa của bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn được triệu hồi khẩn cấp xuống Kiên Giang chẩn bệnh, trước khi đồng ý để chiếc trực thăng đặc biệt chở ông về bệnh viện Chỡ Rẫy chữa tiếp qua đêm 15/04/2019. Sau đó, với sự đồng ý của đội Bác sỹ của Ban Bảo vệ sức khỏe lãnh đạo từ Hà Nội vào chăm sóc, ông Trọng đã được máy bay chở về Hà Nội ngày 16/4 (2019) để các Bác sỹ theo dõi tiếp. Lý do tin lớn này bị Ban Tuyên giáo che kín vì Luật Bảo vệ Bí mật Nhà nước (Luật số 29/2018/QH14), ban hành ngay 15/11/2018, có khoản cấm ghi tại Điều 7 đối với “Thông tin bảo vệ sức khỏa lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.” Vì vậy, nhiều người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài đã đổ xô đi tìm “tin ông Trọng bệnh thật hay không bệnh” trên các báo “lề Dân” nên không khí hoang mang đã lên cao trong dự luận. Tuy nhiên, đứng trước “tin sét đánh” này, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Võ Văn Thưởng (người con cưng ngoại vi của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt), có tin nói, đã khẩn cấp bay vào Sài Gòn thăm sức khỏe ông Trọng, đồng thời chỉ thị kiểm soát thông tin để không bị lộ ra ngoài. GIẤU MÀ HỞ Tuy nhiên, trong khi ông Trọng đã kết thúc bất ngờ chuyến thăm và làm việc tại Kiên Giang, và đang nằm ở Bệnh viện Chợ Rẫy ngày 15/4 (2019) thì báo- đài nhà nước, quan trọng nhất là báo điện tử của Trung ương đảng, báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, VietNamNet, VNExpress, TTXVN (Thông tấn xã Việt Nam), Đài Tiếng nói Việt Nam, VOV (Voice of Vietnam), Thanh Niên v.v… tiếp tục đăng lại bản tin của các phóng viên tường thuật các hoạt động trong hai ngày (13 và 14/04/2019) của ông Trọng tai Kiên Giang. Tỷ dụ như TTXVN viết:”Trong hai ngày (13- 14/4), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã thăm, làm việc tại tỉnh Kiên Giang, về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại, công tác xây dựng Đảng từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh đến nay, trọng tâm là năm 2018 và ba tháng đầu năm 2019; phương hướng nhiệm vụ từ nay đến hết nhiệm kỳ. Sáng 14/4, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã làm việc với cán bộ chủ chốt tỉnh Kiên Giang; nghe Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang Nguyễn Thanh Nghị báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015- 2020 đến nay….” Thống tấn xã của Chính phủ viết tiếp:” Trước đó, chiều 13/4, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm, làm việc tại một số cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang như Công ty cổ phần gỗ MDF VRG Kiên Giang (thuộc Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam) tại Khu công nghiệp Thạnh Lộc, huyện Châu Thành; Công ty Trung Sơn (thuộc Công ty cổ phần thực phẩm Trung Sơn), tại xã Trung Hóa, huyện Kiên Lương. Tiếp đó, sau khi thăm thực địa khu nuôi tôm công nghiệp quy mô lớn, thăm nhà máy chế biến thực phẩm của Công ty Trung Sơn tại xã Trung Hóa, huyện Kiên Lượng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã làm việc với ban lãnh đạo, nghe báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. (Tường thuật của Nguyễn Sự- Huy Hải (TTXVN/Vietnam) Như vậy là đã có một “khoảng trống thông tin” giữa cuộc họp “làm việc với cán bộ chủ chốt tỉnh Kiên Giang” của ông Trọng vào buổi sáng ngày 14/04 cho đến sáng ngày 16/04 (2019) là khi chuyên cơ chở ông Trọng, được nói rời Sài Gòn về Hà Nội. Điều này cho thấy, nếu ông Trọng vẫn mạnh khỏe sau buổi làm việc với cán bộ Tỉnh Kiên Giang thì ông đã về Hà Nội từ chiều 14/4 (2019), hay thăm đâu đó chứ không có chuyện báo chí nhà nước lại im hơi lặng tiếng như thế. Ngoài ra, cũng ngạc nhiên như “đổ thêm dầu vào lửa” cho truyện ông Nguyễn Phú Trọng cháy to lên khi báo đài nhà nước được lệnh, từ ngày 15/4 (2019) đồng loạt đăng toàn bộ chùm ảnh “Tổng bí thư, Chủ tịch nước làm việc tại Kiên Giang”. Càng thấy lạ khi việc đăng ảnh này kéo dài cho đến ít nhất ngày 16/04 trên một số báo, hai ngày sau khi ông Trọng đã rời khỏi Kiên Giang. Đây là một việc làm “rất không bình thường”, so với các chuyến đi thăm các cơ sở và địa phương của người đứng đầu đảng và nhà nước. Vì vậy việc làm này không ngoài mục đích “cải chính” tin của “báo lề dân” nói rằng ông Trọng ngã bệnh bất ngờ khi thăm Kiên Giang, nhưng ngược lại cũng không khỏi gây nghi ngờ “nếu không có lửa thì làm sao có khói”? CHUYỆN TRƯỚC MẮT Dù đúng hay chưa được xác nhận sức khỏe ông Trọng 75 tuổi có vấn đề, nhưng nó xẩy ra vào lúc ông tập trung trí tuệ làm hai việc quan trọng nhất trong sự nghiệp chính trị cuối đời của ông. Đó là: chuẩn bị cho chuyến thăm Hoa Kỳ lịch sử của ông đã được dự trù trong năm nay, theo lời mời của Tổng thống Donald Trump. Có nhiều đồn đoán ông Trọng muốn hoàn tất 3 việc với ông Trump: – Đạt thỏa thuận “Hợp tác chiến lược” với Mỹ để bảo đảm an ninh và sự thịnh vượng bền vững cho Việt Nam, tăng lên từ “Hợp tác toàn diện”, phần lớn đặt trọng tâm vào hợp tác kinh tế- thương mại. – Muốn Mỹ nhìn nhận Việt Nam có “nền kinh tế thị trường” để được hưởng ưu tiên thuế nhẹ cho các mặt hàng Việt Nam xuất cảng sang Mỹ. – Mua vũ khí, máy bay và tầu chiến của Mỹ với những ưu đãi đặc biệt đối với vị trí chiến lược ở Biển Đông của Việt Nam và bàn cờ chiến lược Quốc phòng của Mỹ ở Á Châu và Ấn Độ Dương. Nhưng quan trọng hơn, đối với ông Trọng là làm sao tổ chức thành công Đại hội đảng XIII, dự trù tháng 01/2021, trong đó có việc tìm người kế nhiệm, nếu thật sự ông không muốn thay Điều lệ đảng để được ứng cử nhiệm kỳ thứ 3 như đang có tin truyền miệng trong đảng. Sở dĩ có lời đồn đoán này vì Điều lệ đảng không cho phép một Tổng Bí thư giữ ghế hơn hai nhiệm kỳ (10 năm), nhưng lại rục rịch có chuyện sửa đổi Điều lệ đảng được bàn tán nơi này nơi kia từ một năm qua. CÓ AI KHÁC SÁNG GIÁ? Nhưng liệu với số tuổi 75 và mới có “tin đồn bị tai biến mạch máu não” ở Kiên Giang ngày 14/04/2019, ông Trọng có khả năng hồi phục để ra ứng cử hay nhận đề cử? Vì theo Quy định 89- QĐ/TW ngày 04/08/2017 thì ông Trọng phải có “đủ sức khỏe”. Như vậy, sau ông Trọng có ai sáng giá để thay ông, khi ông quyết định nghỉ hưu? Sau khi Chủ tịch nước Trần Đại Quang qua đời và ông Đinh La Thăng vào tù, Bộ Chính trị khóa XII còn lại 17 người, nhưng lại có thêm ông Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban Bí thư bị ốm dài hạn, dù vẫn giữ ghế nhưng đã thôi làm việc từ vài năm qua, nên chỉ còn lại 16 người. Trong số này, nổi trội nhất có 3 Ủy viên gồm: – Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng, sinh ngày 20/07/1954 tại Quảng Nam. – Phạm Minh Chính, sinh ngày 10/02/1958 tại Thanh Hóa, Trung tướng Công an, Trưởng ban Tổ chức Trung ương. – Trần Quốc Vượng, sinh ngày 05/02/1953 tại Thái Bình, Thường trực Ban Bí thư (người thay Đinh Thế Huynh) Người thứ tư, ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), sinh ngày 12/06/1953 tại Trà Vinh, là người ôn hòa, được nói là hiền lành nhưng thiếu cương quyết và được coi như thân Tây phương, và là người “của mọi người” nên khó được chọn. Vậy liệu thành phần nhận sự 4 người đang được xầm xì to nhỏ, sau tin ông Trọng lâm bệnh, có cơ may gỡ rối cho bàn cờ chính trị khỏi bị rơi vào khủng hoảng hay không thì còn phải chờ, vì Ủy ban Văn kiện Đảng khóa XIII vẫn chưa hoàn tất nhiệm vụ lấy ý kiến các địa phương. Tuy nhiên gánh nặng lo cho Đại hội đảng XIII vẫn thuộc về ông Trọng, dù ông có muốn hay không. Nhưng tương lai Việt Nam lại không thuộc về ông mà của người dân đang muốn thoát khỏi gông kìm Cộng sản. Vì vậy, căn bệnh hiểm nghèo nếu có của ông Trọng mà gây ra cuộc khủng hoảng chính trị để làm lợi cho âm mưu đánh chiếm Việt Nam của Trung Quốc thì ông sẽ là người bị lên án trước toàn dân.  
......

Có không - Tổng Bí thư+Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trong bị tai biến mạch máu não?

Cần phải tống giam Lê Nguyễn Hương Trà vì tội dùng mạng xã hội fb tung tin nhảm xúc phạm lãnh đạo Đảng nhà nước. Thiện Tùng Từ chiều ngày 14/4/2019, trên Internet, nhiều trang mạng Xã hôi dồn dập đưa tin: Tổng bí thư+Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trong  bị tai biến mạch máu não khi đi công vụ ở tỉnh Kiên Giang trong hai ngày 13 và 14/4/2019. Truyền thông Quốc doanh im hơi lặng tiếng, truyền thông Tư doanh thì rộ lên về ông Trọng bị tai biến mạch máu não chiều 14/4 tại Kiên Giang, sau bức sơ cứu, máy bay chuyển khẩn cấp Ông đến bịnh Viện Chợ Rẫy TP HCM. Dầu không muốn cũng phải tin truyền thông Tư doanh vì họ thông tin có chứng cứ với những hình ảnh được ghi tại bịnh viện Chợ Rẫy khi chuyển ông Trọng đến đó. Nếu ông Trọng không bịnh đột xuất  thì mắc mớ gì đoàn lãnh đạo cấp cao và bà Ngô thị Mận, vợ ông Trọng, vội vã bay vào Nam, hộc tốc đến bịnh viện Chợ Rẫy trước bàn dân thiên hạ? Và, nếu ông trọng không bịnh sao Ban Bảo vệ sức khỏe cán bộ TW “Bàn thảo phương án chuyển ông Trọng ra Hà Nội”?. Cốt để rõ thêm, người viết vào các trang mạng mang danh tứ trụ trếu đình, biết được: -  Trang nguyenphutrong.org  không hề nói gì về sức khỏe của ông Trọng, chỉ thấy 2 bài viết có tựa đề: “TBT+CTN Nguyễn Phú Trọng thăm và làm việc tại Kiên Giang” /  “TBT+CTN  Nuyễn Phú Trọng chỉ đạo ‘Kiên Giang hãy phát huy mạnh mẽ và hiệu quả tiềm năng thế mạnh’ …”.   - Trang nguyenxuanphuc.org  chỉ thông tin lộ trình ông Phúc thăm Rumania và Séc ở Châu Âu.   - Trang nguyenthikimngan.org  có bài  “Cần xử lý nghiêm kẻ tung tin nhảm về sức khỏe của Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng” của ẩn danh, chi ghi “theo Ngọn cờ” được đăng ở chuyên trang “An ninh – Chính trị - Xã hôi”. Bài viết nầy, tác giả lên án mạnh mẽ (có video clip) Lê Nguyễn Hương Trà, người “phát pháo” đẩu tiên về ông Trọng bị tai biến mạch máu não. Trích đẫn nội dung chính yếu về bài viết nầy: Trích: << Chủ nhật, 14/04/2019, 21:09 (GMT+7) “(An Ninh – Chính Trị – Xã Hội) - Chiều nay, trên mạng xã hội Facebook và internet xuất hiện thông tin tiêu cực về tình hình sức khỏe của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng được cung cấp bởi Facebook Lê Nguyễn Hương Trà. Thông tin trên mau chóng được loan tải mạnh trên mạng xã hội kèm theo đó là những bình luận, suy diễn đầy ác ý, làm hoang mang dư luận”. “Việc lợi dụng sự quan tâm của người dân về sức khỏe của lãnh đạo để bịa ra những chuyện kinh thiên động địa, rồi phe phái đấu đá dường như đã trở thành chiêu thức quen thuộc của nhiều đối tượng hòng gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin trong quần chúng”  “Mặt khác, những hành vi bịa đặt như trên đã xúc phạm, bôi nhọ uy tín, danh dự của cá nhân người khác mà trực tiếp ở đây là các đồng chí lãnh đạo cấp cao, gây mất uy tín của Đảng, Nhà nước; đây là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật”.  “Thiết nghĩ với những hành vi như trên cần phải được xử lý nghiêm minh, đề nghị các cơ quan chức năng sớm vào cuộc nhằm đảm bảo cho không gian mạng được lành mạnh, không gây mất uy tín cho các cá nhân có liên quan và cả Nhà nước. Đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Người dân hoàn toàn có thể bày tỏ tự do chính kiến, quan điểm của cá nhân nhưng không được lợi dụng điều đó để xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước, kích động lôi kéo gây rối, bôi nhọ xúc phạm danh dự người khác” >>. (Theo Ngọn Cờ)  Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục vui lòng gửi về  banbientap@nguyenthikimngan.org.                                               (hết trich)   Trong việc nầy, người viết có mấy thắc mắc:  -  Sao lâu nay không nói ông Trọng bị tai biến mạch máu não mà đợi đến khi ông Trọng đi Kiên Giang mới nói? – Nếu không có lửa làm sao có khói?  -  Nói lãnh đạo đau yếu là “xúc phạm lãnh đạo Đảng và Nhà nước” sao? – “Khó” vừa vừa thôi chớ?!  -  Sao cơ quan ngôn luận, truyền Thông đại chúng do dân trả lương mà trốn đâu hết, không làm tốt trách nhiệm công khai minh bạch chuyện  ông Trọng có bịnh hay không với dân? Khiến cho người ta hiểu “Nguyên tắc Việt Minh làm thinh là đồng ý”. -  Người ta nói không đúng về mình, tại sao ông Trọng không lên tiếng phản bác? – Chỉ cần ông Trọng ra mặt phản bác là xóa bỏ mọi tin đồn nhãm? -  Những chuyện bịnh hoạn của Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh, Trần Đại Quang….dư luận cũng đồn ầm lên. Hệ thống truyền thông Quốc doanh cho rằng xuyên tạc, bịa đặt… rồi mạt sát, truy chụp người ta đủ điều. Rốt cuộc thì sao?.   .v.v… “Rút kinh nghiệm” các lần trước, lần nầy, người viết đề nghị với Nhà cầm quyền: Nếu có “xử lý nghiêm trước pháp luật”  đối với Lê Nguyễn Hương Trà nói riêng, những trang báo mạng Xã hội nói chung về “tội” tung tin “xuyên tạc, bịa đặt”  về ông Trọng bị tai biến thì hãy nhẹ tay, biết đâu họ nói đúng sự thật như mấy lần trước thì sao?! – Vừa phải thôi để người ta còn tin, còn tôn trọng?. 17/04/2019       T.T  
......

Là một người Việt, tôi mang ơn các bạn

Cách đây hai năm, có 3 người phụ nữ đến trước cửa trường Lương Thế Vinh, Quận Thủ Đức tìm cách giơ khẩu hiệu để yêu cầu nhà trường phải có tiếng nói với vụ ấu dâm xảy ra một bé gái học lớp 1, mà nơi đó có những dấu hiệu bao che tội phạm. Đó là ngày 16 tháng 3, năm 2017. Một ngày thật khó quên đối với 3 người phụ nữ là Nguyễn Thị Bích Ngà, Lê Thúy Bảo Nhi và Nguyễn Thanh Loan. Những người phụ nữ này không bao giờ tưởng tượng được rằng việc đòi hỏi sự thật và thực thi công lý cho một bé gái bị xâm hại, đã khiến công an phường Linh Đông – Quận Thủ Đức dùng hàng chục an ninh thường phục, dân phòng và cả cảnh sát địa phương và giao thông chặn bắt và hành hung dã man. Một trong ba người phụ nữ đó phải đi cấp cứu vi chấn thương đầu. Trong cuộc bắt bớ và điều tra rầm rộ đến man rợ đó, công an đã chất vấn những người phụ nữ này rằng “Đâu phải người thân của mày đâu mà mày phản ứng”. Loại câu hỏi như vậy vẫn thường được thấy trong các vụ bắt giữ và điều tra khi người dân vì ý chí muốn lên tiếng cho cộng đồng, vì những giá trị chung. Giống như kiểu nhà cầm quyền muốn tách từng chiếc đũa ra khỏi bó đũa nguyên khí Việt. Những chiếc đũa bị tách ra và âm mưu bẽ gãy, là những chiếc đũa đạo đức cá nhân, tình đồng bào và ý chí công dân trong một quốc gia. Những người phụ nữ ấy bị đàn áp bởi loại chủ trương muốn con người Việt co cụm và hèn nhát. Chủ trương âm mưu muốn con người Việt Nam sống chết mặc bây, dễ bảo. Và như vậy, đất nước và con người Việt Nam thật dễ kiểm soát. Có thể âm mưu đó thành công trong một giai đoạn, vì có không ít người đã cảm thấy sợ hãi, và tự dặn mình rằng chuyện xã hội không còn là chuyện của mình. “Lo làm ăn đi”, lời đe dọa quen thuộc này vang lên ở rất nhiều nơi. Người Việt được gợi ý rằng phần tự do nhất của họ hôm nay là “làm” và “ăn”. Còn suy nghĩ là chuyện của người có quyền. Năm 2018, một vụ ấu dâm điển hình khác ở chung cư Lakeside, Vũng Tàu, đã bị công luận gây áp lực đến mức thủ phạm bị xử 3 năm tù giam. Sự kiện này là một nấc thang mới về mặt dân quyền, khi dân chúng quá tức giận, sau vụ tình nghi bao che thủ phạm là người nhà “ai đó” ở Thủ Đức, thì đến nhân vật NKT ở Vũng Tàu bị tố cáo, là đảng viên lão thành và là cựu quan chức của bộ máy chính quyền. Vấn đề được liên tục bàn tán trên các trang mạng, là chính quyền sẽ bao che đảng viên của mình như thế nào đây? Vụ án xử NKT thật nhọc nhằn, dằng dai đến mức luật sư đại diện cho gia đình nạn nhân phải gửi thư kêu cứu lên thủ tướng và tổ chức Unicef tại Việt Nam. Cuối cùng khi có kết quả giơ cao đánh khẽ, thủ phạm đã tức giận đến mức đốt thẻ đảng của mình, như một lời trách cứ rằng vì sao có hồng bài ấy, mà đảng vẫn không cứu nỗi ông ta. Có thể cũng có người muốn cứu ông ta, nhưng ý chí khát khao công lý của đám đông không chịu khuất phục trước mờ ám và công lý lụn bại đã dẫn đường đến một happy-end. Người mẹ trong vụ án đó cũng có một ý chí kiên cường, khi chấp nhận mọi thứ, để sau mình, không còn mây đen trên những mái đầu trẻ thơ, nơi bà đang sống. Năm 2019, sự kiện đình đám là vụ ông Nguyễn Hữu Linh, Viện phó Viện kiểm sát TP Đà Nẵng không chối được chứng cứ sàm sỡ bé gái trong thang máy ở chung cư Galaxy 9, quận 4, Sài Gòn. Nhưng có vẻ như một lần nữa, việc xử tội một đảng viên cao cấp – một giai cấp đặc biệt ở Việt Nam – là điều thật khó. Lần này, những việc thô bỉ như chặn bắt, điều tra đánh đập người phản ứng với nạn ấu dâm đã không thể diễn ra như hai năm trước được nữa. Nhưng việc lần lữa, tìm phương cách “tốt nhất” cho vụ án này diễn ra không chỉ ở các tin tức giả được tổ chức trên mạng, bao gồm cả hành động trong giới cầm quyền và tư pháp. Mới đây, một thẩm phán hiện đang làm việc cho nhà nước, đã từng khẳng định với tôi rằng “sẽ không thể bắt tội được Nguyễn Hữu Linh. Vì dù có hành động nhưng không có cách nào chứng minh được ý chí của Linh là ấu dâm, và đó chỉ là âu yếm trẻ em”. Thậm chí ông ta còn nói rằng đã có những luật sư liên hệ với gia đình của ông Linh, tự tin rằng họ nắm chắc phần thắng trong vụ bảo vệ ông Linh, thậm chí sẽ kiện ngược gia đình nạn nhân. Ý chí – phần mà khoa học A.I ở các quốc gia tiên tiến nhất vẫn chưa dám áp dụng để đưa vào nền tư pháp, nhưng ở Việt Nam, các tội danh “tuyên truyền để chống chế độ”, “âm mưu lật đổ” vẫn sàm sỡ kết tội con người hàng ngày. Thậm chí, 12 bạn trẻ ở Biên Hòa bị 10 tháng tù do biểu tình chống Luật đặc khu, bởi bị xét về ý chí là họ muốn “gây rối trật tự công cộng”. Và trong vụ án của ông Linh, ý chí đã được nhắc đến như giải pháp có thể cứu nguy, giới thiệu sự trong trắng của một đảng viên cao cấp. Sự va chạm ý chí vẫn đang diễn ra từng ngày. Sự va chạm nảy lửa giữa người dân Việt Nam khát khao một đất nước tốt đẹp hơn, ít đồi bại hơn, ít quyền lực bao che… như đang chất vấn nhà cầm quyền – một dấu hỏi về khả năng có còn xứng cho việc cầm quyền hay không. Người ta vẫn nhắc nhau từng ngày về việc trì hoãn khởi tố thủ phạm Nguyễn Hữu Linh. Dân chúng có đủ mọi cách để nhắc: bằng các lời bình trên mạng, bằng cách đến trước cửa nhà thủ phạm để selfie và căng biểu ngữ tố cáo. Những cây bút của nhà nước được chỉ đạo phản ứng bằng cách lên giọng chỉ trích những hành động như vậy, là vô đạo đức. Nhưng ngay cả trong hành động bị gọi là “vô đạo đức” ấy để nhằm nhắc về một thủ phạm ấu dâm đang bình yên bất thường trước các chứng cứ, những con người ấy đang chịu hy sinh phần mình, để bày tỏ một ý chí phế truất bộ mặt đạo đức giả của nhà cầm quyền, đang tỏ ra không quyết liệt trước tội ác. Đó là ý chí của một dân tộc, đầy thông minh và không cam chịu trước bất công và cường quyền. Hãy nhớ, khi những công dân dám hy sinh những vấn đề cá nhân của mình cho ý nghĩa chung của xã hội, thì đó cũng là lúc một xã hội mới khỏe mạnh đang hình thành, vận động vì ý nghĩa của từng cá nhân. Từ những người phụ nữ bị đánh đập hôm qua ở Thủ Đức, cho đến những bạn trẻ vô danh hôm nay hành động trước căn nhà số 30 ở Đà Nẳng, cho đến những chiếc áo lẻ loi phản đối, xuất hiện trên đường phố. Tất cả, tôi thấy mình mang ơn ý chí của các bạn.
......

Tội ác đã phơi bày

Luân Lê Những bậc cha mẹ không giáo dục con và không đủ tin tưởng vào năng lực của con, đương quyền chức, ăn lương của dân, lại phản bội dân và dùng mọi thủ đoạn đê tiện, bỉ ổi nhất để làm những điều tội lỗi đến cùng. Cách nuông chiều và sắp đặt cuộc đời con cái ở xứ này và cách vận hành xã hội theo lối chạy chọt, mua bán đã trở thành một dòng xoáy không thể kiểm soát hay bứt thoát ra được. Nó huỷ hoại cả kẻ xấu lẫn người tốt. Chúng đang tâm huỷ hoại hết thảy mọi thứ. Vậy sao chúng vẫn có thể ngồi trên đầu nhân dân và ăn lương của dân, và rồi vẫn có kẻ mặc sắc phục công an, kẻ khoác chiếc áo nhà giáo hay kẻ làm lãnh đạo, công chức một tổ chức công nào đó, vẫn nghiễm nhiên sống ngạo nghễ trước những tán tụng của những người khác trong xã hội. Nhìn vào bảng danh sách này, có thấy con cái ai là người dân thường lam lũ không? Chẳng lẽ ngẫu nhiên bao nhiêu kẻ sẵn sàng đánh đổi việc bị bắt vào tù mà không có những cuộc mặc cả hay ngã giá giữa kẻ bán và người mua hay kẻ dùng quyền uy ra lệnh? Xã hội bị suy đồi vì những kẻ như dưới đây lại đang quá đông đảo và thậm chí chúng có quyền hành để thực hiện tội ác đến cùng mà người tốt thì không còn chốn dung thân. Qua chấm thẩm định lại, có 114 thí sinh đã được nâng tổng điểm các môn từ 26,8 đến  29,95 điểm. Trong danh sách các thí sinh được nâng điểm thi tốt nghiệp THPT của Hà Giang có tên con em nhiều lãnh đạo tỉnh. Thậm chí có tên cả con Bí thư tỉnh ủy Triệu Tài Vinh. Vụ gian lận điểm thi ở Hà Giang: 114 thí sinh nâng điểm, không ít người nâng hơn 20 điểm https://vi.sott.net/article/3765-Vu-gian-lan-diem-thi-o-Ha-Giang-114-thi-sinh-nang-diem-khong-it-nguoi-nang-hon-20-diem
......

Chó cắn áo rách

canhco's blog Báo Pháp luật hôm Thứ Năm ngày 11/4 có bài viết: “Bộ y tế, Thu phí người nuôi bệnh là hợp lý” thật sự làm dư luận trở nên bất an. Không thể gọi là shock hay quan tâm, vì vấn đề thu tiền của dân ngày một tùy tiện, bất kể nơi đâu, lúc nào của nhà nước đã thức sự gây mối bất an trong quần chúng khi ai cũng sẽ là người nuôi bệnh trong một lúc nào đó suốt cuộc đời mình. Vấn đề không phải ở vài trăm ngàn phải trả cho bệnh viện, nó nằm ở chỗ cách thức nhà nước đối xử với người dân của mình. Từ nhiều năm qua bệnh viện Việt Nam đã được Bộ y tế cho phép tự cân đối thu chi nên mọi quyết định về tiền nong đối với bệnh nhân điều được Ban giám đốc bệnh viện nghĩ ra và duyệt xét. Tuy nhiên sau bao năm, cách thức đầu voi đuôi chuột này tỏ ra không mấy hiệu quả, bệnh viện ngày một quá tải, bệnh nhân 4 người thậm chí có nơi 6 người một giường là hình ảnh chung rất điển hình của bệnh viện công ngày nay. Bộ Y tế gần như bất lực trước thảm trạng này và các bệnh viện tự chòi đạp trong sự thiếu thốn ngân sách để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi nhân đạo. Túng quá hóa liều, mặc dù biết rằng đưa ra quyết định thu tiền người nhà của bệnh nhân là một giải pháp thiếu nhân văn nhưng thừa phản cảm vẫn được nhiều bệnh viện bàn đến. Bài báo nêu ý kiến của BS Võ Đức Chiến, Giám đốc BV Nguyễn Tri Phương, theo ông thì hiện nay do giá viện phí chưa được tính đúng, tính đủ nên BV gặp không ít khó khăn và giải pháp thu tiền người nhà bệnh nhân có thể sẽ được nghĩ tới. Còn BS Lê Quang Thanh, Giám đốc BV Từ Dũ Tại khu dịch vụ BV Từ Dũ, người nuôi bệnh thứ nhất không phải đóng phí, người thứ hai phải đóng phí 100.000 đồng/ngày. Bệnh nhân nằm tại các bệnh viện công đại đa số là người lao động nghèo tại thành phố hoặc ngoại tỉnh kéo về. Không ai trong số họ mong muốn “được” nằm lăn lóc dọc lối đi hay chen nhau chui xuống gầm giường để nghỉ mệt trong thoáng chốc. Vệ sinh cơ thể chắc chắn là thiếu thốn vì không được tắm rửa hay giặt giũ, chỉ vài lít nước phông tên giải quyết cái khát hay dùng để nấu mì gói qua ngày không thể gọi là tiện ích công cộng được. Không chỉ các bệnh viện công có suy nghĩ thu tiền người nhà bệnh nhân mà giới chức y tế cao cấp nhất cũng đồng tình. Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cho rằng hiện nay các BV đã thực hiện tự chủ tài chính, chủ trương của Bộ Y tế cố gắng tạo điều kiện cho các cơ sở y tế làm chủ về kinh phí để có nguồn trả lương cho nhân viên và thực hiện nhiều công tác khác. Do đó theo Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến, những khoản thu hợp pháp, không sai luật thì BV vẫn được quyền thu. Dĩ nhiên là pháp luật không cấm những cái được gọi là “quyền” đó nhưng thử hỏi, tiền thuế mà người dân đóng cho nhà nước là gì? Người dân có “quyền” hưởng lợi ích về an sinh xã hội trong đó có quyền được dùng những phương tiện tối thiểu tại các cơ quan nhà nước hay không? Nếu bệnh viện công nào cũng có chính sách thu tiền người nhà của bệnh nhân thì những nơi này có gì để cung cấp cho người dân mà đòi thu tiền như một thứ lệ phí. Nước ư? Bao nhiêu lít nước cho mỗi người một ngày để phải đóng tới 3 trăm ngàn cho mỗi người ở lại? Hành lang bệnh viện ư? Bao nhiêu mét vuông cho một chỗ nằm đáng được gọi là nơi nghỉ ngơi cho một con người? Nhà cầu, quạt trần, điện đóm nếu tính ra thì mỗi đầu người như vậy tiêu tốn hết bao nhiêu? Cứ tính cho chính xác và hạch toán như một công ty tư doanh làm bất cứ điều gì cũng phải có lợi rồi công khai trước dư luận xem người dân ứng phó ra sao rồi hẵng thu tiền của họ. Tuy nhiên cho dù có hợp lý thế nào trong tính toán vẫn không che được cái bất hợp lý lớn nhất trong hệ thống y tế của Việt Nam. Đó là tính chất nhân đạo đúng nghĩa mà một bệnh viện dù tư nhân hay công lập cũng đều phải thấu hiểu. Đã hơn 40 năm người dân Miền Nam trải qua cuộc đổi đời lớn nhất của dân tộc. Cái mà họ hy vọng nhất là cuộc sống thoải mái, xã hội bình đẳng và chính phủ biết lo lắng cho người dân. Cả ba ước ao ấy vẫn chưa bao giờ ló dạng mặc dù cây kim chỉ thời gian đã sắp chạm ngưỡng nửa thế kỷ sau ngày giải phóng. Cuộc sống của người dân có thoải mái theo nghĩa đen lẫn bóng vẫn chưa định dạng, xã hội không hề có khái niệm bình đẳng vì các hố sâu ngăn cách giàu-nghèo, cán bộ-nhân dân vẫn hàng ngày hiển hiện khắp nơi. Chính phủ đẩy nỗi lo cho nhân dân vào cụm từ xã hội hóa nhưng thình thoảng châm vào vài ba ý tưởng nghịch lý đến khó hiều về mọi vấn đề quốc kế dân sinh. Tất cả đang đẩy người dân vào con đường không những cùng khổ mà còn bị khinh miệt đến đau lòng. Bệnh viện là nơi cứu người và bệnh nhân có bổn phận phải thanh toán viện phí là điều không ai chối cãi, tuy nhiên nếu vì chân lý này lại rắp tâm leo thêm một bậc nữa thì trở thành trấn lột hợp pháp không khác gì các BOT bẩn tràn ngập trên các quốc lộ hiện nay. Ngành y từ nhiều năm qua vốn dĩ không được người dân xem trọng vì cả hai mặt: Bác sĩ, nhân viên thi nhau hành hạ bệnh nhân qua các hình thức đòi quà mới nhận được dịch vụ tốt nhất. Cạnh đó là tâm lý con nhà quan, xem bác sĩ như người phục dịch đã khiến cho quan hệ hai bên ngày một cách xa và cả hai nhìn nhau với đôi mắt ngờ vực thay vì thân thiện. Nay, nếu thu thêm lệ phí của người nuôi bệnh thì khác nào châm thêm xăng vào nhúm lửa đang âm ỉ cháy trong các nơi được gọi là nhà thương. Hình ảnh không mấy đẹp đẽ của các bệnh viện công rồi đây sẽ tăng thêm lời nhiếc móc, sỉ vả mà giới áo trắng là người lãnh đủ hậu quả của vài đồng tiến lẻ từ người dân nghèo khó. Chính phủ có thể chi vài ngàn tỷ cho một dự án có vấn đề nhưng lại rất “tiết kiệm” vài trăm tỷ cho sự an lòng của người cùng khổ. Nói theo dân gian, chó chỉ thích cắn người áo rách./.
......

Toàn cảnh diễn biến vụ AVG liên quan đến anh em Vượng Vin, Thanh Phượng

(tài liệu kham khảo của Tiến Thịnh) Lê Quốc Quân! Ông Vũ là con trai thứ 3 của ông Phạm Dương (tên thật là Phạm Nhật Quang). Ông Dương quê Hà Tĩnh, lấy vợ ở Hải Phòng, sinh 3 người con gồm: Phạm Nhật Vượng (1968), Phạm Thị Lan Anh (1970), Phạm Nhật Vũ (1972). Cả ba người con của ông Phạm Dương đều sinh ra trên đất Hải Phòng. Cùng với người anh trai Phạm Nhật Vượng, ông Phạm Nhật Vũ từng làm ăn tại Liên Xô (cũ), gọi là mafia Nga. Sau này, khi trở về Việt Nam, hai anh em họ Phạm bắt tay vào khai thác “tư bản thân hữu”, kinh doanh bất động sản, truyền thông, khoáng sản với chính quyền. *** Câu chuyện bắt đầu vào năm 2012, khi Nguyễn Thanh Phượng cùng đám mafia Nga, “bộ đôi Masan” Nguyễn Đăng Quang và Hồ Hùng Anh (chủ Techcombank, rể tướng Hưởng) âm mưu thực hiện vụ áp-phe đình đám để thâu tóm 49% còn lại của mobifone (nhà nước 51%) trong phi vụ sát nhập Gtel vào Mobifone. Gtel khi đó đang trong tình trạng thua lỗ triền miên, khách hàng liên tục bỏ mạng, công nghệ di động 2G lạc hậu, chính phủ từ chối cấp giấy phép 3G, đối tác VinpelCom bỏ của chạy lấy người, để lại 450 triệu USD đã đầu tư vào hạ tầng mạng di động. Với kết quả kinh doanh bết bát như vậy, Masan khi đó chỉ cần bỏ ra 50 triệu USD là có thể mua lại toàn bộ cổ phần của Gtel. Công ty cổ phần chứng khoán Bản Việt do Nguyễn Thanh Phượng làm chủ tịch theo kịch bản sẽ được chỉ định thầu làm tư vấn cho vụ sát nhập và có nhiệm vụ định giá Gtel lên cao chót với ở mức 500 triệu USD mặc cho những kết quả kinh doanh ảm đảm. Sau khi sát nhập thành công Gtel với Mobifone (mobifone được định giá 2 tỷ USD), Masan sẽ chiếm 20% cổ phần trong liên doanh mới. Thông qua việc tăng vốn góp bằng “mồm” để đầu tư 4G, Masan sẽ nâng tỷ lệ cổ phần nắm giữ lên 30% và bộ ba Phượng – Quang – Anh nghiễm nhiên đút túi 3 tỷ USD sau khi bán toàn bộ số cổ phần đã đầu tư 4G này cho các nhà đầu tư nước ngoài (lúc này Mobifone được dự đoán có giá trị IPO khoảng 10 tỷ USD). KẾ HOẠCH ĐỔ BỂ PHÚT THỨ 89 Dù có tính toán kỹ lưỡng đến đâu, Nguyễn Thanh Phượng cùng bộ đôi Masan cũng không thể biết được kế hoạch của mình lại bị đổ bể phút chót bởi một con người đang cận kề cái chết: ông Lê Ngọc Minh – chủ tịch đương nhiệm lúc đó của Mobifone – người đang bị ung thư giai đoạn cuối. Là một người trọn đời gắn bó với sự phát triển của Mobifone, ông Minh không cam tâm để tâm huyết của mình cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Mobifone trong suốt 20 năm, phút chốc đổ xuống sông, xuống biển. Khi tình hình sức khỏe ngày càng đi xuống, ông Minh quyết tâm dành quỹ thời gian còn lại của mình để làm nên một câu chuyện lịch sử: cứu Mobifone khỏi sự sát nhập với Gtel. Ông Minh đã cung cấp toàn bộ thông tin chi tiết về kế hoạch của Phượng cho phe “Tổng bí thư” để cầu cứu, đồng thời bằng mọi cách trì hoãn quá trình cổ phần hóa Mobifone, đưa Credit Suisse vào làm tư vấn cổ phẩn hóa Mobifone chứ không phải là Bản Việt, gửi toàn bộ chi tiết kế hoạch của nhóm Nguyễn Thanh Phượng và Masan cho các báo lề trái qua đó tạo nên một cơn bão dư luận vào thời điểm đó. Với sức ép của dư luận cùng ý chí sắt đá của cố Chủ tịch Lê Ngọc Minh, kế hoạch của Nguyễn Thanh Phượng cuối cùng bị đổ bể. Ông Minh, với tâm thế của một người không có gì để mất, đã tạo nên một điều kỳ diệu và giúp Mobifone tiếp tục phát triển ổn định trong hai năm kế tiếp. Cay cú trước hành động phá rối của ông Minh, Nguyễn Thanh Phượng ngay lập tức đẩy ông Minh khỏi Mobifone ngay khi doanh nghiệp này tách khỏi Tập đoàn VNPT và sát nhập về Bộ Thông tin – Truyền thông năm 2014. Tiếp theo đó, Nguyễn Thanh Phượng bí mật sắp xếp với lãnh đạo Bộ Thông tin truyền thông Son/ Tuấn để đưa đệ tử thân cận Lê Nam Trà ngồi vào chiếc ghế mà ông Minh để lại. KẾ HOẠCH THÂU TÓM LẦN 2 Khi đã đẩy được Lê Nam Trà vào ghế Chủ tịch Mobifone, Nguyễn Thanh Phượng ung dung tính toán để thực hiện tiếp kế hoạch của mình. Việc đầu tiên là Trà/ Son/ Tuấn gạt bỏ Credit Suisse và chỉ định thầu tư vấn cổ phấn hóa Mobifone phải là Công ty chứng khoán Bản Việt. Kịch bản cũ đã bị lộ! không thể tiếp tục dùng quân bài Gtel, nên Nguyễn Thanh Phượng cùng Lê Nam Trà phải lựa chọn một quân cờ mới, đó là AVG của Phạm Nhật Vũ, em trai Phạm Nhật Vượng. Vượng là một doanh nhân thân cận và thọ ơn 3X và cũng trung thành của gia đình 3x. Tương tự như Gtel, AVG chỉ là một đống đổ nát chuẩn bị phá sản với số lượng thuê bao ít ỏi, công nghệ truyền hình vệ tinh thế hệ đầu đã lạc hậu, không tự sản xuất được nội dung nên không có doanh thu phát sinh từ quảng cáo. Tình trạng kinh doanh bết bát, AVG lỗ lũy kế đến 1.000 tỷ đồng và nợ gần 2.000 tỷ tiền đầu tư cơ sở hạ tầng. Để hợp lý hóa việc sát nhập AVG, một doanh nghiệp kinh doanh truyền hình chứ không phải viễn thông, Lê Nam Trà đã móc nối với Lãnh đạo Bộ Thông tin – Truyền thông để xin chủ trương của chính phủ cho phép Mobifone đầu tư vào lĩnh vực truyền hình. Với sự giúp đỡ của Nguyễn Thanh Phượng, con gái Thủ tướng Dũng, chủ trương này nhanh chóng được chính phủ phê duyệt. 3X BỊ HẤT CẲNG Ở HỘI NGHỊ TW13 Khi phe Thủ tướng Dũng có dấu hiệu đuối thế trước phe của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại HNTW 13, Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà nhận thấy hai điều: không thể mạo hiểm bằng mọi giá sát nhập AVG vào Mobifone và không thể hoàn thành việc cổ phần hóa Mobifone vào cuối nhiệm kỳ Thủ tướng (trước tháng 06/2016) vì đó sẽ là thời điểm ông Dũng cần đàm phán với phe ông Trọng để toàn bộ êkip được hạ cánh an toàn. Việc cổ phẩn hóa Mobifone chắc chắn sẽ do chính phủ mới phụ trách. Không còn làm chủ được cuộc chơi, vụ áp-phe lần 2 của Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà đứng trước nguy cơ đổ bể. Để vớt vát công sức mấy năm dàn trận, Nguyễn Thanh Phượng cùng Lê Nam Trà quyết định “ăn non”: hoàn tất kế hoạch việc Mobifone phải mua lại 95% cổ phần của AVG ngay trước khi HNTW 14 diễn ra (ký hợp đồng vào trưa ngày 25/12/2015). SAI PHẠM KHỔNG LỒ CỦA KẾ HOẠCH “ĂN NON” Giá trị thật sự của AVG được tính toán không đến 1.000 tỷ đồng, tuy nhiên Lê Nam Trà đã ký quyết định mua lại 95% với giá 8.900 tỷ, cao hơn giá trị thực 8.000 tỷ đồng. Số tiền này được Vin Group (PHẠM NHẬT VƯỢNG) giải ngân cho Lê Nam Trà cùng một số lãnh đạo của Bộ Thông tin – Truyền thông thay vì bằng tiền thì bằng các bất động sản trong – ngoài nước và các tài khoản ngân hàng nhiều triệu USD ở nước ngoài, mỗi người bỏ túi từ 5%-10%. Để kịp hoàn tất hợp đồng mua bán trước HNTW 14, Lê Nam Trà đã chỉ đạo không chuẩn bị hồ sơ, lập dự án trình Bộ Kế hoạch – Đầu tư và Bộ Tài chính thẩm định theo đúng quy trình (vì nếu làm đúng quy trình chắc chắn sẽ không được duyệt) mà chỉ thông qua móc nối với một số lãnh đạo Bộ Thông tin – Truyền thông để trình thẳng lên Chính phủ. Dù rất vội vã mua AVG, nhưng sau khi hoàn tất hợp đồng, do lo sợ tính pháp lý không đảm bảo, Lê Nam Trà chỉ đạo nhân viên giữ kín toàn bộ thông tin và không được gây ra bất cứ động tĩnh nào (BCA đóng dấu mật là vậy). Mobifone có thành lập Ban Truyền hình để tiếp quản AVG và phát triển kinh doanh truyền hình nhưng đến thời điểm này vẫn án binh bất động, chờ đợi vụ việc chìm xuống. Ngay sau khi bài báo “Lê Nam Trà – tay trong con gái Thủ tướng phá hoại 20 năm phát triển bền vững của Mobifone” được đăng trên các báo lề trái vạch trần các sai phạm ở Mobifone dưới thời Lê Nam Trà, Lê Nam Trà mới vội vã đính chính: “Chúng tôi đang tiếp quản AVG” trên các báo lề phải. Việc mua AVG đã làm chậm tiến độ cổ phẩn hóa Mobifone và làm giảm mạnh giá trị vốn hóa của Mobifone. Mobifone đã hoàn thành việc xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên giá trị số sách vào ngày 30/06/2015. Tuy nhiên với việc mua lại AVG vào ngày 25/12/2015, việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ phải thực hiện lại dựa trên giá trị sổ sách vào ngày 31/12/2015. Ngoài ra, với việc đưa vào kế hoạch kinh doanh dự phòng lỗ 700 tỷ đồng cho AVG trong năm 2016, nợ đọng của AVG 2.000 tỷ, lỗ lũy kế 1.000 tỷ, giá trị vốn hóa của Mobifone chắc chắn sẽ giảm vài tỷ USD so với con số 10 tỷ USD được ước tính ban đầu. Trong bối cảnh nợ công ngày càng tăng, ngân sách sẽ bị thất thoát đi vài tỷ USD chỉ vì một nhóm người chia chác nhau cái lợi 8.000 tỷ đồng (gần 400 triệu USD). Tháng 2 năm 2012, Nguyễn Thanh Phượng, cô con gái duy nhất của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chính thức giữ chức chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt (Viet Capital Bank). Như vậy, tại thời điểm đó, bà Phượng nắm trong tay tới 4 công ty khác nhau cùng có tên là Bản Việt gồm công ty đầu tư chứng khoán Bản Việt (VCSC), công ty quản lý quỹ đầu tư Bản Việt (VCAM hay Vina Capital) và công ty bất động sản Bản Việt (VCRE). Tháng 09 năm 2015, Công ty đầu tư chứng khoán Bản Việt (VCSC) được chỉ định thầu thực hiện tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án cổ phần hóa và IPO cho Mobifone. Trong khi đó, Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Bản Việt (Vina Capital) từ 2013 đã âm thầm mua lại 90% các trạm xã hội hóa của Mobifone. Với những động thái này, Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà đang âm mưu những gì? THÂU TÓM NGÂN HÀNG GIA ĐỊNH Tháng 7 năm 2011, Ngân hàng Gia Ðịnh bán 100 triệu cổ phiếu với giá 10.000 đồng/cổ phiếu nhằm tăng vốn điều lệ từ 2000 tỉ đồng lên thành 3000 tỉ đồng. Công ty VCSC Bản Việt của bà Phượng đứng ra lãnh vai trò tư vấn phát hành cổ phiếu, nên qua đó, Nguyễn Thanh Phượng đã mua lại một lượng đáng kể cổ phần của ngân hàng Gia Định rồi trở thành thành viên Hội Ðồng Quản Trị, đổi tên ngân hàng này thành “Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt”. Kịch bản tương tự hoàn toàn có thể xảy ra với Mobifone khi VCSC tiếp tục nắm vai trò tư vấn cổ phần hóa. Thông qua việc phát hành cổ phiếu, tăng vốn điều lệ, tăng vốn góp để phục vụ phát triển công nghệ 4G, Nguyễn Thanh Phượng sẽ mua được phần lớn cổ phiếu được bán ra với vỏ bọc các Quỹ đầu tư nước ngoài. Liệu sau đó, Mobifone có bị đổi tên thành Tổng công ty Viễn thông Bản Việt? Vina Capital đang nắm trong tay hơn 90% tổng số trạm xã hội hóa của Mobifone với số vốn bỏ ra được vay từ Ngân hàng Bản Việt. Trong số 3 nhà mạng lớn, Mobifone là đơn vị có số lượng trạm ít hơn cả nên nhu cầu tăng số lượng trạm là rất cấp thiết. Mobifone đặt mục tiêu phát sóng thêm hơn 12.000 trạm mới trong 2016. Kịch bản nào nếu VSCS “tư vấn” Mobifone mua lại từ Vina Capital toàn bộ số trạm xã hội hóa này và hoàn trả bằng cổ phiếu với giá gốc 10.000 đồng/cổ phiếu. Nguyễn Thanh Phượng đương nhiên sẽ có thêm được một số lượng lớn cổ phần của Mobifone với giá cực rẻ. CỤ TỔNG/ AVG/ AMAX CỦA THANH PHƯỢNG? Những chi tiết về gia đình, học vấn, tiền bạc, các công ty hay những lời đồn đại về Nguyễn Thanh Phượng người ta đã nói rất nhiều. Nào là Nguyễn Thanh Phượng thâu tóm các ngân hàng, mỏ quặng hay những chiến lược lobby, vận động hành lang cho cha mình và vạch kế hoạch tương lai cho 2 người anh em trai bất tài ham chơi của mình. Và gần đây, thương vụ Mobifone mua AVG đã làm nổi sóng dư luận. Người ta đồn đoán rằng, người lên kế hoạch cho thương vụ mua bán, ăn tiền nhà nước lên đến vài trăm triệu đô la này chính là Nguyễn Thanh Phượng. TBT Nguyễn Phú Trọng muốn tiến tới nhà của đồng chí X thì buộc phải diệt được thành trì Nguyễn Thanh Phượng và cũng là godfather (godmother) gia tộc Nguyễn Tấn Kiên Giang. Nguyễn Thanh Phượng thực sự có phải là chủ mưu thương vụ làm thất thoát ít nhất 7000 tỷ này hay không? Và nếu có thì tại sao trong bản kết luận thanh tra vừa rồi đưa ra, gần như không lục tìm thấy dấu vết liên quan đến Nguyễn Thanh Phượng có dính líu đến đại án chấn động này. Ngoài việc, có một sự nhầm lẫn về ¼ công ty định giá AVG là VCBS (thuộc Ngân hàng VietComBank) và VCSC (thuộc Tập đoàn Bản Việt của Nguyễn Thanh Phượng). Từ cuối tháng 8/2017, khi lời đồn thổi trở nên râm ran thì TGĐ VCSC (Bản Việt) khẳng định rằng, công ty họ không khải là đơn vị định giá, mà là công ty thuộc VietCombank. Có những nguồn tin nội bộ thì cho rằng công ty tư vấn của Nguyễn Thanh Phượng cũng tham gia vào việc này nhưng bị loại từ vòng gửi xe. Con đường đến với Bản Việt và Nguyễn Thanh Phượng của TBT Nguyễn Phú Trọng đến đây là vào ngõ cụt. Quay lại, có 4 đơn vị tư vấn thẩm định giá thương vụ AVG là AASC, VCBS, Hanoi Value và AMAX. AASC và VCBS đều là những thương hiệu lớn, thì Hanoi Value và AMAX đều là công ty rất bé, vốn điều lệ chỉ là 1 và 3,8 tỷ đồng. Với khả năng như vậy, thì việc được tham gia tư vấn cho một dự án lớn tính bằng trăm triệu đô đến tỷ đô như vậy là quá kì lạ. Đặc biệt, giá trị thẩm định được 4 công ty tư vấn này đưa ra đều khác nhau và chênh nhau rất nhiều. Hai công ty đầu đưa ra những con số không tưởng, từ 1-1,5 tỷ đô la . Hai công ty bé kia đưa ra những con số thấp hơn khá nhiều, và thấp nhất là AMAX là hơn 16 ngàn tỷ. Tất nhiên, như chúng ta đều biết, con số quá bé so với giá trị thực của AVG mà TTCP vừa đưa ra. Giá trị mà TTCP đưa ra là 1900 tỷ, chưa tính lỗ lũy kế đến 2017 cỡ 1 ngàn tỷ và thua lỗ tại 2 dự án mà Phạm Nhật Vũ đã mua với giá rất cao nhằm mục đích rút ruột AVG trước khi bán. Một năm sau khi thương vụ hoàn thành, Hanoi Value đã chuyển thành công ty mỹ viện, chuyên chăm sóc sắc đẹp. AMAX vẫn là một công ty nhỏ với vốn điều lệ giữ nguyên 3,8 tỷ và gần như không có gì nổi bật sau khi được nhận một thương vụ rất lớn như thế. Người đại diện pháp lý và là Tổng giám đốc là Võ Văn Mạnh, một Thạc sỹ giảng dạy tại Fulbright. Như vậy, manh mối liên quan đến Nguyễn Thanh Phượng gần như không tồn tại trên bản KLTT. Tuy vậy, trong bản KLTT cũng như gần đây những bài báo được chỉ thị liên tục tấn công vào AMAX, 1 trong 4 đơn vị tư vấn, dù rằng AMAX là đơn vị cho giá thấp nhất. Trong khi 3 đơn vị kia cho giá cao hơn rất nhiều và gần như không tưởng. Ngay cả kết quả thấp nhất của AMAX cũng bị KLTT nói rõ là “không có cơ sở”. Nhưng tại sao báo chí lại xoáy vào AMAX mà bỏ quên đơn vị kia? Và manh mối nằm ở đây. AMAX chính là công ty của Phượng, dù Phượng không hề đứng tên hay sở hữu chút cổ phẩn nào ở đó. Và 3 đơn vị kia chỉ là chân gỗ được sắp xếp vào và cố tình hét giá cao nhất để AMAX được nhận làm kết quả. Tuổi Trẻ và Thanh niên, 2 tờ báo mạnh mẽ nhất và có vẻ như được cờ lệnh từ trên đều đưa những thông tin kĩ lưỡng về AMAX và những người trong nghề báo điều tra đều nhận ra là “đánh có bài bản”. Điểm cuối của những bài điều tra chắc chắn sẽ là AMAX, nói đúng hơn, là tìm đến công chúa Nguyễn Thanh Phượng. Tuy nhiên, Nguyễn Thanh Phượng không hề có cổ phần hay dính líu mặt pháp lý gì đến AMAX. Vậy, làm cách nào để nắm được đuôi của một con cáo vô cùng ma mãnh, quỷ quyệt và khôn ngoan vô cùng đó? Chỉ có một cách, là khởi tố vụ án thật nhanh KHỞI TỐ AVG VÀ CHÂN TƯỚNG AMAX TTCP đã đề nghị khởi tố vụ án để điều tra. Và muốn túm được đuôi công chúa, đó là con đường duy nhất trước khi manh mối bị hủy hoặc các đối tượng quan trọng trốn ra nước ngoài. Sau khi khởi tố vụ án, vì có dấu hiệu của tội lừa đảo của 4 đơn vị tư vấn (vì đưa ra kết quả sai và dựa vào những điều không đúng như việc kinh doanh tăng trưởng hay giá trị thương hiệu,…) nên có thể triệu tập 4 đơn vị tư vấn kia lên. Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ (biện pháp gì không biết, hi hi), để 3 công ty kia khai nhận là được Phượng sắp xếp làm chân gỗ và cố tình hét giá cao lên. Đồng thời, tìm ra bằng chứng chính AMAX là cò mồi của Nguyễn Thanh Phượng câu con cá Mobifone gần 7000 tỷ kia. Tuy nhiên, tiến trình này phải tiến hành nhanh chóng và sử dụng những điều tra viên có trình độ nhất; nếu không, rất khó tìm ra được bằng chứng hoặc để các đối tượng quan trọng đào thoát thì cả chiến dịch vây bắt trở thành công cốc. Tướng Lý Anh Dũng, cục trưởng A92, người được Nguyễn Phú Trọng tin cẩn, nhanh chóng giải quyết hoặc chuyển người khác phụ trách vụ đánh bạc liên quan đến Nguyễn Thanh Hóa, Phan Văn Vĩnh và có thể cả Phạm Quang Nghị, để dồn hết tâm sức phi vụ này, lập đại công để nhận chức Thứ trưởng và Bộ trưởng trong tương lai. P/S: Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc Son, Lê Nam Trà, Cao Duy Hải, và AVG… đang ra sức chạy tội. Với số tiền khủng sau những phi vụ như thế này, họ thừa tiền để thuê luật sư hay đội ngũ dư luận viên, định hướng viên,…cũng như nhiều cách khác để chạy tội. Nhưng có lẽ Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc Son,… và đội quân chạy tội đang dày công vô ích. Chuyện mặc áo Juvetus, ăn cơm tù, ra vành móng ngựa gần như không thay đổi được. Con mồi mà TBT Nguyễn Phú Trọng săn ở đây to hơn rất nhiều so với họ. Con mồi này chính là công chúa Nguyễn Thanh Phượng, là người nắm giữ tương lai của gia tộc Nguyễn Tấn Kiên Giang và đối thủ từng làm ông bật khóc ngay trước ống kính truyền hình khi không kỷ luật thành công đồng chí X vào năm 2012. Khi vào thế cờ, thì người ta sẵn sàng thí hết cả bàn cờ để bắt tướng, chứ không riêng gì vài con tốt lụt đâu.  
......

“Những sự thật bên trong” Vụ Án Trịnh Vĩnh Bình.

Nguyễn Quang Duy! Đài VOA vừa đưa tin ông Trịnh Vĩnh Bình thắng kiện, Hà Nội phải bồi thường 37,5 triệu Mỹ Kim thiệt hại và 7,9 triệu án phí. Ông Bình rời phiên tòa với khuôn mặt tươi cười hai tay giơ cao ra dấu chiến thắng (V=Victoria) nên không cần phải bàn tới. Lạ là Bộ Tư pháp Việt Nam ngay lập tức xác nhận thông tin, nhưng cho biết theo quy định Tòa “các bên có trách nhiệm phải giữ bí mật”. Việc chi trả bồi thường “phải giữ bí mật” là Hà Nội chính thức xác nhận không theo tiêu chuẩn hạch toán ngân sách quốc tế và không muốn cho dân biết vụ việc. Tại sao Hà Nội phải che dấu kỹ vụ án này? … “những sự thật bên trong”… Trên Facebook, ông Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh Niên, cho biết từng cung cấp “những sự thật bên trong” cho bà Phó Chủ Tịch nước Nguyễn thị Bình để phát biểu tại Quốc hội: “…bắt nguồn từ việc một cán bộ an ninh kinh tế có tên Ngô chí Đan ở Vũng Tàu. Ngô chí Đan là em rể của Phương Vicarent. Họ cùng nhau áp lực với Trịnh Vĩnh Bình để đòi chia chát. Những người này có thế lực rất mạnh ở địa phương và cả một số cán bộ then chốt ở Trung ương.” Ông Khế cho biết: “Thủ tướng Phan văn Khải biết hết vụ việc và cũng rất xót xa nhưng khi tôi hỏi việc này, ông cũng lắc đầu bất lực.” Ông cho biết thêm: “…bạn tôi, anh Nguyễn Trọng Minh lúc đó bức xúc quá viết một tâm thư gởi Bộ Chính trị. Sau đó, anh cũng bị kỷ luật, tôi cũng không nắm rõ, việc kỷ luật anh có dính dáng gì đến nội dung bức thư này hay không?” Ông Khế kết luận: “Trường hợp Trịnh Vĩnh Bình là vì, có những người ở cấp trên đã nghe báo cáo không trung thực từ những người cấp dưới không minh bạch và tham nhũng…” Ông Khế không cho biết cấp trên là ai? Cấp dưới là ai? Và tại sao chỉ vì một cán bộ an ninh cấp địa phương mà ông Phan văn Khải và bà Nguyễn Thị Bình đành phải lắc đầu bất lực? Ngô Chí Đan và Phương Vicarent là ai? Trong một vụ án khác xử đầu tháng 12/2003, Trung tá công an Ngô Chí Đan bị kỷ luật và bị cách chức Trưởng phòng an ninh điều tra công an Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT), còn Phạm Văn Phương thì chịu bản án 27 năm tù giam. VnExpress ngày 4/12/2003 đưa tin, Nguyễn Minh Hoàng khai trước tòa Phương Vicarrent đã nhận 200 triệu đồng để đưa vào "tổ chức" ở Vũng Tàu: “Bây giờ chủ trương của lãnh đạo ta thoáng lắm, sắp tới sẽ thí điểm cơ cấu phó chủ tịch tỉnh không cần đảng viên. Nếu chú thích anh sẽ tác động để cơ cấu chú làm phó chủ tịch”. Cũng VnExpress ngày 3/12/2003 đưa tin, Nguyễn Minh Hoàng khai trong một lần đi nhậu có mặt Trung tá công an Ngô Chí Đan, Phương Vicarrent nói: "Nguyễn Trọng Minh không nghe lời tao nên bị trị, còn Tuấn Minh nếu không nghe cũng giống như Trọng Minh vậy". Nguyễn Trọng Minh nguyên Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT người được Nguyễn Công Khế nhắc tới bên trên, còn Tuấn Minh đương kim Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT thời ấy, mà Phương Vicarrent còn coi không ra gì. Nhưng có thật thế lực đằng sau Phương Vicarrent mạnh như vậy? Trịnh Vĩnh Bình bị bắt. Năm 1987, Vua chả giò Hòa Lan Trịnh Vĩnh Bình sang công ty chả giò, đem 2,3 triệu Mỹ kim tiền mặt và 96 ký vàng về Việt Nam đầu tư, chỉ sau 8 năm tài sản ông tăng lên 30 triệu Mỹ kim gấp gần 8 lần tiền vốn. Làm giàu mau chóng nhưng ông Bình không đút lót Phương Vicarent nên ngày 5/12/1996 ông Bình bị Ngô Chí Đan, khi ấy là Thiếu tá công an, ra lệnh bắt, điều tra và đưa ra tòa xét xử. Trước sự can thiệp mạnh mẽ của Chính phủ Hòa Lan, ngày 13/5/1998, Thủ tướng Phan Văn Khải gửi thư cho Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương đề nghị xem xét trường hợp vì ông Bình “không có lỗi đến mức phải xử”. Nhưng chỉ thị Thủ Tướng Khải không được thi hành, tháng 8/1998 ông Bình bị Toà án Nhân Dân tỉnh BR-VT kết án 13 năm tù, đóng phạt 400 triệu đồng và tịch thu toàn bộ tài sản về tội sang nhượng bất hợp pháp để trốn thuế và tội hối lộ. 3 văn bản vụ án… Đài VOA có phổ biến 3 văn bản liên quan đến vụ án: Văn bản thứ 1 về cuộc họp ngày 3/5/1998 với sự hiện diện của Thứ trưởng Bộ công an Nguyễn Khánh Toàn và nhiều viên chức cao cấp. Theo văn bản này “hoạt động của ông Trịnh Vĩnh Bình từ năm 1990 đến khi bị bắt là vi phạm pháp luật Việt Nam rất nghiêm trọng” và việc “xử lý Trịnh Vĩnh Bình đúng pháp luật vừa đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật, vừa bảo vệ chủ quyền Việt Nam và giải quyết được vấn đề đối ngoại”. Văn bản thứ 2 ký ngày 12/6/1998, Ban Thường vụ Đảng tỉnh BR-VT gửi Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Thủ tướng Phan Văn Khải để xin ý kiến chỉ đạo. Theo văn bản này Ban Thường vụ tỉnh đề nghị tòa án xét xử ngay vì “... đã có kết luận tội của Bình. Sau khi có bản án thi hành, sẽ thực hiện chính sách khoan hồng của ta. Như vậy Bình sẽ không nói xấu ta được vì đã tuyên án. (Phương án này ta nắm đằng chuôi).” Văn bản thứ 3 được đóng dấu “Mật” do Trưởng ban Thường vụ tỉnh BR-VT, Trần Đình Hoan, gửi Trung ương Đảng và các cơ quan thuộc Đảng ủy BR-VT ký ngày 23/6/1998. Văn bản này chỉ đạo “việc tổ chức xét xử cần được chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ,… giải quyết vụ án theo ý kiến chỉ đạo trên và báo cáo kết quả với Thường vụ Bộ Chính trị… có thể cho [ông Bình được] tại ngoại theo yêu cầu của Đại sứ quán Hà Lan và sau khi Bình được xét xử thì trục xuất khỏi nước ta.” Đài VOA cho biết đã liên lạc với giới chức có thẩm quyền để xác minh 3 văn bản nói trên nhưng đều bị từ chối cộng tác. Ông Trịnh Vĩnh Bình kháng án, được giảm còn 11 năm tù, xong “trốn” về Hòa Lan. Ông Bình chưa cho biết cách thức ông rời khỏi Việt Nam. Có tin đồn Thủ Tướng Phan văn Khải đã âm thầm thu xếp để ông đi, nhưng theo hai văn bản Đài VOA có được thì ông có thể đã bị trục xuất. Vụ án kinh tế? Đại tá, Luật sư Lê Mai Anh, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng Hội Luật gia Việt Nam, cho Đài VOA biết qua 1 cuộc phỏng vấn là “hồ sơ không có chứng cứ cụ thể, chính xác”, bản án chỉ dựa vào lời cung của các nhân chứng: “[Họ] trọng cung hơn là trọng chứng. Mà cung cũng là ép cung, mớm cung hoặc dọa cung là có. [Họ] sử dụng cung nhiều quá mà chứng lại không có”. Theo ông Anh: “Ông ấy đứng tên người khác là theo đúng hướng dẫn của chính phủ Việt Nam. Vì lúc ấy, họ không cho người có quốc tịch nước ngoài mua (đất đai, nhà xưởng…) nên ông ấy phải nhờ người khác đứng tên. Ông đã thực hiện đúng như ý của họ. Sau đấy họ lại cho là ông ấy mua đất đai, nhà xưởng… là không hợp pháp. Thì chẳng hiểu thế nào là hợp pháp nữa. Bảo ông ấy thế nào thì ông ấy làm đúng như thế. Chứ ông ấy có làm sai đâu”. Chủ tịch Bà rịa - Vũng tàu ăn hối lộ? Theo thông tin đưa lên trên mạng vào tháng 5 và 6/2005 của một người tự xưng là người trong cuộc ký tên Trần Quốc Hoàn, Tổng cục II có chứng cứ Trịnh Vĩnh Bình đã hối lộ Nguyễn Trọng Minh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh BR – VT để được giới thiệu với Thủ Tướng Phan Văn Khải. Nguyễn Trọng Minh đã phải làm bản tường trình với thường vụ Bộ chính trị về việc nhận tiền Trịnh Vĩnh Bình "biếu". Ông Minh bị mất chức Chủ tịch vì vụ việc này. Ông Minh chính là bạn và là người được Nguyễn Công Khế nhắc tới bên trên. Còn ông Trịnh Vĩnh Bình luôn phủ nhận ông đã dùng tiền mua chuộc giới chức cộng sản. Vụ án chính trị? Cũng theo Trần Quốc Hoàn thì mọi công dân nước ngoài khi vào hoạt động kinh doanh tại Việt Nam đều bị các cơ quan an ninh âm thầm giám sát. Trường hợp của ông Trịnh Vĩnh Bình, một thành viên của Ðảng dân chủ tự do Hòa Lan, nên bị cả Bộ công an và Tổng cục II, Bộ quốc phòng theo dõi. Khi Trịnh Vĩnh Bình bị Thiếu tá công an Ngô Chí Đan bắt, Tổng cục II ra mặt, vụ án vượt khỏi tầm kiểm soát Bộ Công An, Bộ Công An buộc phải cộng tác với Tổng cục II. Bị truy tố trước tòa có ông Lê (Tạ?) Quang Luyện bị tội nhận hối lộ của Trịnh Vĩnh Bình 510 triệu đồng. Ông Luyện từng là thư ký riêng của Chủ tịch tỉnh BR-VT Nguyễn Trọng Minh. Ông Luyện giới thiệu ông Bình với ông Nguyễn Trọng Minh, để ông Bình mua chuộc ông Minh giới thiệu với Thủ Tướng Phan Văn Khải, lũng đoạn tầng lớp lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Gia đình vợ ông Luyện, có quan hệ với Phó chủ tịch nước bà Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Mạnh Cầm Bộ trưởng Bộ ngoại giao lúc đó. Bộ Chính Trị trực tiếp chỉ đạo Cũng theo Trần Quốc Hoàn Thường vụ Bộ chính trị đã phải họp mở rộng về vụ án Trịnh Vĩnh Bình. Thủ tướng Phan Văn Khải và Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đề nghị đình chỉ vụ án và giải oan cho Trịnh Vĩnh Bình. Tổng cục II công bố tội trạng của ông Luyện và mối quan hệ giữa gia đình ông Luyện với bà Bình và ông Cầm. Ông Khải và bà Bình đành bất lực. Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, Bộ Trưởng Công An Lê Minh Hương, Bí thư Trung ương Đảng Phạm Thế Duyệt, Giám đốc công an tỉnh BR-VT Châu Văn Mẫn và bí thư tỉnh ủy BR-VT Lê Văn Dỹ cho ý kiến là phải kiên quyết xử lý vụ án. Nhưng từng ý kiến của các vị Ủy viên Bộ chính trị đều không có tính quyết định bằng các chứng cứ của Tổng cục II đưa ra, khẳng định rằng Trịnh Vĩnh Bình vào Việt Nam là để hoạt động gián điệp, núp dưới cái "vỏ" doanh nhân. Từ một âm mưu tống tiền do Thiếu tá công an Ngô Chí Đan và Phương Vicarent dàn dựng, chuyển thành một vụ án kinh tế, rồi biến ra thành một vụ án chính trị và Bộ chính trị phải trực tiếp chỉ đạo vụ án. Cả phía an ninh quân đội và công an đều cho rằng họ đã "bắt non" Trịnh Vĩnh Bình, nên phải xử theo một vụ án kinh tế. Phá vỡ vụ án “gián điệp”, Thiếu tá Ngô Chí Đan, nguyên Trưởng phòng PA 24 Công an BR-VT được thăng thưởng cấp Trung tá. Trung tá Ngô Chí Đan bị kỷ luật và cách chức Trưởng phòng trong vụ án khác nói đến bên trên và hiện ông đang là luật sư, thành viên Đoàn Luật sư tỉnh BR-VT, cho thấy hệ thống pháp quyền của đảng Cộng sản Việt Nam. Các thông tin bên trên có thể chưa hoàn hảo nhưng phần nào giúp chúng ta thấy rõ hơn vụ án Trịnh Vĩnh Bình không đơn giản như “những sự thật bên trong” ông Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh Niên, đã báo cho bà Phó Chủ Tịch nước Nguyễn thị Bình để phát biểu tại Quốc hội. Trịnh Vĩnh Bình Kiện Hà Nội… Bộ Chính Trị không ngờ ông Trịnh Vĩnh Bình khi về được Hòa Lan đã đâm đơn kiện Hà Nội trước Tòa Án Quốc Tế. Vụ kiện trước tại Trung tâm Trọng tài Thương mại Stockholm, Hà Nội đã phải âm thầm bồi thường cho ông Bình 15 triệu Mỹ Kim, lần này lại thua kiện phải bồi thường lên đến 45,4 triệu Mỹ Kim. Đáng nói là ông Bình kỳ vọng tiền bồi thường lên tới 1,2 tỷ Mỹ Kim vì thế biết đâu ông Bình sẽ tiếp tục kiện Hà Nội đòi thêm. Phán quyết lịch sử… Tháng Tư Đen 1975, Hà Nội xé Hiệp Định Đình Chiến Paris ký với sự chứng kiến của Liên Hiệp Quốc để “giải phóng” miền Nam. Binh sỹ và công chức miền Nam bị bắt tù, không hề được đối xử theo luật “tù nhân chiến tranh”, nhiều người chết trong tù. Dân miền Nam bị cướp nhà, cướp đất, cướp tài sản, bị đuổi đi kinh tế mới, phải bỏ nước ra đi, nhiều người chết trên đường tìm tự do. Hà Nội coi thường Luật Pháp Quốc Tế đến độ vừa rồi cho gián điệp sang tận Đức bắt Trịnh Xuân Thanh và có thể đã bắt Trương Duy Nhất tại Thái Lan. Tháng Tư Đen 2019, Hà Nội phải chính thức nhìn nhận thua kiện ông Trịnh Vĩnh Bình, một công dân Hòa Lan gốc Việt, thì quả thật phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế là một phán quyết lịch sử đối với người Việt Nam. Hà Nội tìm mọi cách “giữ bí mật” nhưng càng muốn “giữ bí mật” thì người Việt càng mong tìm ra sự thật, để từ từ lộ ra những thâm cung bí sử của đảng Cộng sản Việt Nam. Bài liên quan Trần Quốc Hoàn, Tổng Cục II - Vai Quyết Định Trong Vụ Án Trịnh Vĩnh Bình https://vietbao.com/a12991/tong-cuc-ii-vai-quyet-dinh-trong-vu-an-trinh-vinh-binh Trần Quốc Hoàn, Sự Thật Về "vụ Án Phương Vicarrent" https://vietbao.com/a14177/su-that-ve-vu-an-phuong-vicarrent  
......

Pages