Nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp khủng hoảng vì dầu khí?

An Viên dịch (VNTB)| Thời báo Tài chính (FT), ngày 23/9 đã đăng tải nội dung bài viết, trong đó nhấn mạnh nền kinh tế của Việt Nam có thể gặp khủng hoảng trong tương lai, nguyên nhân đến từ… dầu khí. Chính phủ Hà Nội đang chật vật để chống lại cuộc khủng hoảng năng lượng trong tương lai, gây nguy cơ mất điện và cản trở một trong những nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất Á Châu. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cảnh báo rằng tình trạng thiếu điện có thể xảy ra sau năm 2021 và chỉ đạo nhóm quan chức phải đẩy nhanh các dự án nhà máy điện đang bị đình trị. Việt Nam là nền kinh tế mà sản xuất dựa nhiều nguồn năng lượng điện, và điều này càng trở nên quan trọng hơn khi Việt Nam đang trở thành địa điểm thụ hưởng từ cuộc thương chiến Mỹ – Trung. Nhưng giờ đây, Hà Nội phải đối mặt với khủng hoảng năng lượng tiềm tàng cùng lúc ở cả ha mặt trận: thiếu hụt năng lực sản xuất và Trung Quốc đang gây khó dễ cho các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông. Đối với một quốc gia đang cố gắng ‘đu dây’ giữa quan hệ Mỹ – Trung về cả ngoại giao lẫn kinh tế, thì Hà Nội giờ đây phải đối mặt với những lựa chọn quyền lực ngắn hạn và có ý nghĩa địa chính trị trong thời gian tới. Andrew Harwood cho FT biết, nguồn cung từ dự trữ dầu khí trong nước của Việt Nam đã gặp phải những thách thức, dù đó đến từ khả năng tài chính của công ty dầu khí quốc gia, hay tranh chấp hàng hải và căng thẳng chính trị. Và giờ đây, nổi lên mối quan tâm về việc, Hà Nội sẽ đáp ứng nhu cầu năng lượng trong tương lai như thế nào. Cho đến nay, Hà Nội phụ thuộc rất nhiều vào than đá, dầu và thủy năng. Tuy nhiên, một số dự án như vậy đã bị trì hoãn trong những năm gần đây do tình trạng quan liêu hoặc đến từ các nhà đầu tư nước ngoài không có khả năng đảm bảo các khoản bảo lãnh cho chính phủ cho các dự án. Hà Nội năm 2016 đã từ bỏ một chương trình điện hạt nhân. Các nhà phân tích thuộc phía chính phủ Hà Nội và ngành công nghiệp Việt Nam cho biết, Việt Nam hiện đang hướng mắt về năng lượng mặt trời, nghiên cứu việc nhập khẩu khí đốt hóa lỏng quy mô lớn và xem xét nhập khẩu điện từ các nước láng giềng. Đầu tháng này, một trang trại điện năng từ mặt trời trị giá 391 triệu USD, lớn nhất Đông Nam Á, đã bắt đầu hoạt động tại tỉnh Tây Ninh. EVN cho biết hồi tháng trước, hơn 4.000 hộ gia đình đã lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời trên mái nhà trong ba tháng qua với tổng công suất 200MW. 300MW khác sẽ được bổ sung thêm vào cuối năm 2019. Sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường năng lượng mặt trời trên mái nhà vào năm 2019 là một dấu hiệu cho thấy chính phủ đã tiến hành đa dạng hóa sản xuất điện, với sự nhấn mạnh vào năng lượng tái tạo như là giải pháp của thành phố thông minh. Tuy nhiên, Andrew Harwood nói thêm: Vẫn còn phải xem liệu sự tăng trưởng nhanh chóng của năng lượng tái tạo kể từ năm 2018 đủ để chống lại nguy cơ cắt điện trong ba năm tới hay không. Điện năng đã kìm hãm sự tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển khác. Nam Phi đã phải đối mặt với tình trạng mất điện thường xuyên vì đã không đầu tư đủ công suất trong những năm gần đây để theo kịp nhu cầu. Nhu cầu về điện ở Việt Nam đang tăng khoảng 9% một năm, nhanh hơn nền kinh tế, vốn tăng hơn 7% trong năm 2018. Trong một dấu hiệu của sự nhạy cảm của vấn đề, không có đại diện chính phủ nào đề cập với FT vấn đề này. Tuy nhiên, một quan chức đã xác nhận rằng có một số rủi ro về tình trạng thiếu điện trong những tình huống cực kỳ bất ngờ, rất có thể là khi các hồ chứa nước cung ứng cho các dự án đập thủy điện sắp hết. Hà Nội đang theo đuổi các sửa chữa kỹ thuật để thu hẹp khoảng cách điện bao gồm cả nhập khẩu điện từ Lào. Các quan chức cũng đã thảo luận về khả năng nhập khẩu điện từ Trung Quốc, mặc dù điều này sẽ tạo ra sự nhạy cảm về mặt chính trị. Các công ty và quan chức Mỹ đang thúc đẩy LNG là một giải pháp cho nhu cầu điện của Việt Nam, bán nó một phần như một cách để giảm thặng dư thương mại kỷ lục của đất nước với Mỹ, một điểm gây căng thẳng với chính quyền Tổng thống Trump. Tuy nhiên, khí hóa lỏng sẽ không phải là giải pháp đủ để chống lại khủng hoảng năng lượng sắp xảy ra. Khả năng Việt Nam sẽ khai thác khí đốt ngoài khơi đang được ra. Từ đầu tháng 7, một tàu khảo sát của Trung Quốc, Haiyang Dizhi 8, đã thực hiện một cuộc khảo sát ngoài khơi bờ biển phía nam – khu Bãi Tư Chính, một nơi đang được thăm dò bởi Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Rosneft của Nga. Đầu tháng này, truyền thông xã hội Việt Nam truyền nhau tin đồn về việc ExxonMobil đã thông báo cho Thủ tướng Phúc rằng họ đã rút khỏi Cá voi xanh, dự án khí đốt ngoài khơi lớn nhất của Việt Nam. ExxonMobil, đã từ chối bình luận về tin đồn. Phát ngôn viên chính phủ của Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng, cho biết dự án này đã được thực hiện theo kế hoạch. Gần đây, PVN đã đăng tải bài viết ‘Gia tăng trữ lượng dầu khí – Yếu tố sống còn’ trên chuyên trang của mình./. Nguồn: https://www.ft.com/content/7daf8bf6-d535-11e9-8367-807ebd53ab77  
......

Những ‘món nợ’ của một tân Phó Đề Đốc

Đại tá Huấn trong lễ khánh thành tượng Lone Sailor, Guam, 30-4-2019 (The Guam Daily Post). Mạnh Kim – VOA| Bài báo của tác giả Tom McCarthy trên The Daily Oklahoman đề ngày 20-5-1975 với hình cậu thiếu niên Nguyễn Từ Huấn ở trang nhất có nhắc đến chi tiết cậu thiếu niên Từ Huấn có khả năng trở thành nghệ sĩ violin. Tuy nhiên, tên tuổi ông Huấn sau này được vinh danh không phải trên sân khấu giao hưởng. Ông khoác áo nhà binh. Con đường binh nghiệp đã giúp ông trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên đạt đến cấp bậc Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ… Thiếu tá Huấn (thứ hai, phải sang) trong những ngày làm việc tại Iraq. (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) Năm 1981, sáu năm sau khi đến Mỹ cùng hàng trăm người Việt Nam tỵ nạn khác sau ngày 30-4-1975, ông Nguyễn Từ Huấn tốt nghiệp Đại học Okahoma State với bằng cử nhân điện cơ. Không dừng lại, ông lấy tiếp các bằng thạc sĩ tại ba đại học: Đại học Southern Methodist, Đại học Purdue và Đại học Carnegie Mellon (hạng tối ưu) chuyên ngành kỹ thuật thông tin. Sau đó, ông làm việc cho một cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng, thuộc bộ phận thiết kế các hệ thống điều khiển điện tử trên chiến đấu cơ. Năm 1991, cuộc chiến Vùng Vịnh nổ ra. Ông Huấn đăng ký vào quân ngũ. Năm 1993, ông trở thành sĩ quan Hải quân trừ bị. Trong thời gian này, ông làm việc thêm ở Bộ Năng lượng. Với vị trí kỹ sư phụ trách dự án đặc biệt chuyên nghiên cứu kỹ thuật dẫn hai tia proton phóng với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng sao cho chúng có thể chạm nhau (superconducting super collider), từ đó cung cấp các dữ liệu nhằm giúp hiểu thêm về hiện tượng Big Bang cũng như các hiện tượng khác trong vũ trụ, ông Huấn là một trong số rất ít người Việt có mặt trong nhóm nghiên cứu này. Từ Bộ Năng lượng, ông chuyển sang làm việc cho General Motors (GM), phụ trách thiết kế các hệ thống điện tử cho xe hơi. Tại đây, ông phát minh một số sáng chế mà hiện GM vẫn sử dụng… Một trong những bằng sáng chế của ông Huấn. (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) Năm 1993, internet chưa phát triển, cả nước Mỹ chỉ có khoảng 20 website. Tuy nhiên, ông Huấn đã nghĩ đến việc làm thế nào có thể sử dụng network để phục vụ quân đội và hỗ trợ tác chiến. Ý tưởng của ông được một đề đốc ủng hộ. Ông Huấn được mời vào Ngũ Giác Đài tường trình cho giới lãnh đạo Hải quân. Tiếng nói của anh thiếu úy Huấn trở nên lạc lõng giữa những hoài nghi. Cho đến thời điểm đó, rất ít người có thể hình dung cái gọi là “network warfare”. Không đầy 10 năm sau, khi nước Mỹ bước vào cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai (2003), kỹ thuật chiến tranh không gian mạng đã trở thành một trong những yếu tố quyết định thắng bại. Cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai cũng là thời điểm thiếu tá Huấn được đưa sang Afghanistan và Iraq, với vai trò sĩ quan chỉ huy đơn vị kỹ thuật giúp phá hủy các thiết bị kích nổ bom từ xa của khủng bố… “Một trong những thử thách khó nhất đối với tôi là phải đi một bước trước kẻ thù” – ông Huấn trả lời phóng viên Eric Schmitt trên New York Times số ra ngày 6-2-2006. “Cách đây 44 năm, tôi là một trong những người tỵ nạn, lòng lo lắng cho một tương lai bất định nhưng vẫn cảm thấy vô cùng biết ơn khi đến được đây. Những hình ảnh tôi còn nhớ rõ mồn một khi đặt chân đến Trại Asan ở đảo Guam này, giờ là công viên Asan Beach, là những thủy thủ và thủy quân lục chiến Mỹ phơi mình dưới cái nắng cháy da, dựng lều và lán thức ăn, phát nước uống và đồ ăn nóng, giúp đỡ và chăm sóc mọi người với thái độ tử tế và kính trọng… Những người lính đó đã mang lại cảm hứng cho tôi cống hiến cho Hải quân Mỹ đến tận hôm nay”… Phát biểu trên của Đại tá Nguyễn Từ Huấn trong dịp khánh thành tượng Lone Sailor tại Guam ngày 30-4-2019 đã cho thấy tại sao ông quyết tâm gia nhập và cống hiến cho quân đội (tượng đài Lone Sailor do chính ông Huấn khởi xướng với sự thực hiện của US Navy Memorial). Ông có một sứ mạng khác trong lẽ sống của mình. Ông định hình cuộc đời ông bằng những định nghĩa khác với những đo lường về vật chất. Với ông, có nhiều cách để “trả nợ” nước Mỹ nhưng ông đã chọn binh nghiệp, vì quân đội mới là hình ảnh đại diện bảo vệ cho quốc gia nơi đã cưu mang những người tỵ nạn như ông, một quốc gia từng là ngọn hải đăng cho những giá trị nhân bản, về tự do, dân chủ và nhân quyền. “Món nợ” đối với nước Mỹ không phải là món nợ lớn nhất đối với ông Huấn. Có một món nợ khác chất chứa gánh nặng lương tri thậm chí nặng nề hơn. Nó có ý nghĩa lớn hơn cả. Nó ám ảnh ông như một lời thề mà ông nguyện phải làm, như một cách để báo hiếu cho cha ông – cố Đại tá Chỉ huy trưởng Trường thiết giáp VNCH Nguyễn Tuấn, như một cách để làm mẹ ông mỉm cười nơi chín suối, như một cách để “trả lời” cho một cuộc chiến tàn khốc từng làm điêu linh dân tộc mà toàn bộ gia đình ông là nạn nhân, để cuối cùng, cho thấy rằng, hòa bình có giá trị như thế nào và tại sao bằng mọi giá phải bảo vệ hòa bình. Câu chuyện bi thương của ông đã được kể đi kể lại với rất nhiều tình tiết không có thực. Và khi thuật lại câu chuyện, một số nhân vật luôn được đẩy ra phía trước như thể họ là nhân vật chính. Cũng khó có thể tránh điều đó vì câu chuyện đã trở thành một phần của lịch sử cuộc chiến. Tuy nhiên, những thước phim chính xác đáng lý cần phải lột tả thời khắc kinh hoàng xảy đến với gia đình ông chứ không phải những gì xảy ra sau đó. Đó là hình ảnh kiên cường của bố và mẹ ông trước họng súng của đặc công Cộng Sản. Hơn 50 năm trôi qua, ông Huấn chưa bao giờ quên những gì ông chứng kiến. Ông không thể quên tràng súng liên thanh điên cuồng nã vào bảy người trong gia đình mình – vào bố, vào mẹ, vào các người anh và cả đứa em út mà mẹ bế trên tay, khi họ đang bị bắt làm con tin, ngay trong những ngày mà hai bên đã thỏa thuận ngưng chiến. Ông không thể quên cảnh người anh thở hắt ra làn hơi cuối cùng và cảnh người em bị bắn thủng bụng ruột đổ ra ngoài. Ông không bao giờ có thể quên được cảnh mẹ ông, bị bỏ nằm đó đau đớn, chảy máu và rên xiết nhiều giờ cho đến chết. Ông cũng không thể quên cảnh đặc công cầm lưỡi lê đâm vào lon bia để uống, dọn đồ ra ăn, giữa những nạn nhân bị thương đang rên xiết và giữa những thi thể vừa bị thảm sát man rợ. Gia đình cố Đại tá Nguyễn Tuấn (tất cả đều bị sát hại, trừ ông Nguyễn Từ Huấn-đứng giữa; ảnh chụp năm 1967). (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) Rồi có một đặc công chĩa súng vào đầu Huấn khi phát hiện đứa trẻ 9 tuổi duy nhất còn sót lại. Dưới ánh sáng hỏa châu từ bên ngoài, tay đặc công cộng sản đối diện ánh mắt không hề lộ chút sợ hãi của cậu bé Huấn. Một vết đạn, từ vụ thảm sát trước đó, trúng vào đầu khiến mặt mày Huấn bê bết máu. Có lẽ đó cũng là lý do khiến toán đặc công không buồn bận tâm ban cho Huấn “một phát đạn ân huệ”, bởi nghĩ rằng ông sẽ không thể nào sống nổi. Tuy nhiên, ông đã không chết. Vài giờ của một thời khắc sáng mùng hai Tết Mậu thân 1968 đã trở thành cơn ác mộng dài lê thê đi theo suốt cuộc đời ông. Thay vì gục ngã, thay vì đầu hàng số phận khi đặt chân đến Mỹ với hoàn cảnh một thiếu niên tỵ nạn nghèo khó, ông Huấn đã chiến thắng tất cả thách thức và khó khăn, một cách ngạo nghễ. Nước mắt thương mẹ và nỗi đau nhớ cha cùng các anh em trong gia đình đã không làm ông ngã quỵ mà giúp ông mạnh mẽ đứng lên, bằng hình ảnh không phải là nạn nhân một cuộc chiến mà một mảnh đạn đến giờ vẫn còn lưu trong đầu. Ông đã trả được “món nợ” cho lương tri, cho lẽ làm người, cho công dưỡng dục của hai vị chú thím cưu mang nuôi nấng ông, và nhất là cho lẽ làm con đối với hai bậc sinh thành. Tháng 10-2019 tới đây, lễ thăng chức Phó Đề đốc cho ông Nguyễn Từ Huấn sẽ được tổ chức tại Washington DC. Với kinh nghiệm cùng sự tận tụy, tân Phó Đề đốc Huấn còn sẽ đảm nhận một chức vụ mới: Tham mưu phó Bộ tư lệnh hải dương hệ thống Hải quân (Naval Sea Systems Command-NAVSEA), đặc trách an ninh mạng. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt lại có thêm một nhân vật đáng để tự hào. Ông đã trả hết nợ chưa? Chắc là chưa – ông nói. Làm thế nào tôi có thể yên tâm thản nhiên nhìn Trung Quốc đe dọa quê hương mình từng ngày từng giờ mà không chút xót xa lo nghĩ? – ông Huấn tâm sự. Ông còn ôm nặng một món nợ lớn khác: “nợ” mình là người Việt Nam.  
......

Đường cao tốc Bắc – Nam: Thấy gì qua việc chọn thầu?

Phạm Minh Hoàng Cứ “theo thông lệ”, thì mỗi khi có biến hoặc muốn thông qua một đạo luật gây tranh cãi, nhà nước với sự hỗ trợ của truyền thông và “trung đoàn 47” lại tung ra một vài tin nóng sốt để “định hướng dư luận”. Biến ngày hôm nay là gì nếu không là Bãi Tư Chính và thái độ khiếp nhược của nhà cầm quyền trước sự hung hăng ngày càng trắng trợn của Trung Quốc. Nhiều người, trong đó có cả công chức, đảng viên cũng đồng thanh yêu cầu chính phủ Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế Ngày 24 tháng Chín vừa qua, Bộ Giao Thông Vận Tải đã thông cáo về sơ tuyển lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức đấu thầu quốc tế đối với 8 dự án của tuyến đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông. Theo đó, đến cuối tháng Bảy, sau 2 tháng kể từ lúc phát hành hồ sơ mời sơ tuyển, Bộ Giao Thông Vận Tải đã nhận được 60 bộ hồ sơ dự tuyển. Trung Quốc áp đảo với 30 bộ hồ sơ tham gia sơ tuyển tại tất cả 8 dự án; còn lại 15 bộ hồ sơ quốc tế của các nhà đầu tư Hàn Quốc, Pháp, Philippines. Các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có 15 bộ hồ sơ tham gia sơ tuyển. Kết quả đánh giá của bên mời thầu và quá trình thẩm định của cơ quan nhà nước cho thấy, 4 dự án không có nhà đầu tư vượt qua sơ tuyển; 2 dự án chỉ một nhà đầu tư vượt qua sơ tuyển; một dự án có 2 nhà đầu tư và một dự án có 3 nhà đầu tư vượt qua sơ tuyển. Trước thực tế trên, Bộ Giao Thông Vận Tải quyết định hủy sơ tuyển theo hình thức đấu thầu rộng rãi quốc tế; điều chỉnh hồ sơ mời sơ tuyển phù hợp với hình thức đấu thầu rộng rãi trong nước để lựa chọn nhà đầu tư cho 8 dự án. Việc này được cho sẽ giúp “đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển năng lực doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng”. Đọc qua thông cáo nói trên, nhiều người chắc cảm thấy yên lòng vì “đã loại Trung Quốc”! Đặc biệt là vì lý do “đảm bảo an ninh quốc phòng”. Tuy nhiên, chuyện có đơn giản như vậy không? Trước tiên, một lãnh đạo Cục Giám Định của Bộ Xây Dựng đã thú nhận rằng năng lực và kinh nghiệm đấu thầu của chúng ta còn quá hạn chế, và nếu không tìm ra sai sót nào thì không thể phân biệt đối xử để ngăn chặn nhà thầu Trung Quốc khi đấu thầu quốc tế, vì chúng ta đã là thành viên của WTO rồi. Cũng có thể là dùng hàng rào kỹ thuật, nhưng khổ nỗi nhà thầu Trung Quốc cũng có đầy đủ các thông số kỹ thuật đòi hỏi. Vì thế không thể gạt bỏ trong hồ sơ dự thầu của họ. Nói tóm lại, cạnh tranh sòng phẳng là chúng ta chưa đủ tầm. Vậy tại sao 15 nhà thầu Trung Quốc cho dự án cao tốc Bắc – Nam bị loại một cách không thương tiếc. Trung Quốc đã từng xây dựng đập Tam Hiệp và tuyến đường sắt Thanh Hải – Tây Tạng khiến cả thế giới ngả nón, huống chi 1.300 km cao tốc Bắc Nam. Cứ cho là Trung Quốc bị loại, nhưng còn các nhà thầu Hàn Quốc, Pháp… không lẽ họ cũng không đủ trình độ? Và sau cùng, để thực hiện cao tốc thì phải đi vay, và phần lớn vốn vay lại đến từ Trung Quốc. Để vay vốn của họ thì Việt Nam phải chấp nhận nhà thầu Trung Quốc thực hiện gói thầu như một điều kiện vay. Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư xác nhận như vậy. 1.372 km đường cao tốc Bắc – Nam có tổng mức đầu tư khoảng 314.000 tỷ đồng (khoảng 14 tỷ USD chưa tính trượt giá). Trên nguyên tắc nhà nước bỏ ra khoảng 45%, còn lại đi mượn. Nhưng với tình hình phải tính lại GDP như gần đây khiến nỗi băn khoăn về ngân quỹ lớn hơn bao giờ hết. Và càng băn khoăn thì lại phải tìm đến ông láng giềng với những ràng buộc không tránh khỏi. Vậy thì tại sao nhà nước đột nhiên ưu ái doanh nghiệp trong nước và thẳng tay với doanh nghiệp Trung Quốc? – Dưới sự phản đối của người dân? Nên nhớ tháng Sáu, 2018, hàng chục ngàn người xuống đường phản đối Luật Đặc Khu và An Ninh Mạng nhưng sau khi dẹp tan, họ vẫn âm thầm thông qua. Thậm chí qua vụ trục xuất người Trung Quốc vi phạm pháp luật gần đây, nhiều người còn cho rằng nhà nước Việt Nam cũng đã âm thầm thông qua Luật Dẫn Độ hồi nào không hay. – Giao cho doanh nghiệp trong nước! Nhiều người đã lên mạng kiểm tra thì thấy các doanh nghiệp trúng thầu đã bị tai tiếng rất nhiều khi làm ăn cẩu thả. Có những tuyến đường chính thức thông xe từ 2 tháng Chín, 2018, nhưng 1 năm qua đã gây bức xúc vì liên tục tái xuất những sống trâu, lún, võng và ổ gà, ổ voi. Câu hỏi đặt ra là phải chăng có sự chia chác trong này? – Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) hoặc theo hình thức nào đi nữa thì đâu có ai cấm việc chuyển thầu hoặc thuê nhà thầu Trung Quốc thực hiện thì sao? – Lý do “đảm bảo an ninh quốc phòng” do Bộ GTVT đưa ra coi bộ không thuyết phục lắm, vì nếu quả thực là vậy thì công khai chỉ chọn nhà thầu trong nước ngay từ đầu, đợi chi đến lúc nhận 45 hồ sơ nước ngoài rồi mới quyết cho mất công. Thú thật, nếu đứng vào vị trí nhà thầu nước ngoài, cho dù đó là Hàn, Pháp hay Trung Quốc, điều này chắc chắn làm cho họ hụt hẫng nếu không muốn nói là tức giận. – Thông cáo của Bộ GTVT chỉ liên quan tới 8 dự án gồm 550 cây số nghĩa là chỉ khoảng 1/3 tổng công trình, phần còn lại sẽ phải đấu thầu tiếp. Vậy chưa biết nhà nước sẽ tính sao. – Và sau cùng, cứ “theo thông lệ”, thì mỗi khi có biến hoặc muốn thông qua một đạo luật gây tranh cãi, nhà nước với sự hỗ trợ của truyền thông và “trung đoàn 47” lại tung ra một vài tin nóng sốt để “định hướng dư luận”. Biến ngày hôm nay là gì nếu không là Bãi Tư Chính và thái độ khiếp nhược của nhà cầm quyền trước sự hung hăng ngày càng trắng trợn của Trung Quốc. Nhiều người, trong đó có cả công chức, đảng viên cũng đồng thanh yêu cầu chính phủ Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế. Tóm lại, hả hê thì có thể, nhưng lo lắng vẫn còn lơ lửng trên đầu vì áp lực từ phương Bắc vẫn còn quá lớn mà lãnh đạo Hà Nội thì vẫn an trú trong “16 vàng – 4 tốt”. Phạm Minh Hoàng https://viettan.org/duong-cao-toc-bac-nam-thay-gi-qua-viec-chon-thau/    
......

Tự do không tự nhiên rơi xuống

nhacsituankhanh| Trong một thời gian rất ngắn, có ít nhất hai vụ kết án và bắt giữ công dân Việt đã diễn ra. Cả hai vụ đều thiếu sự công minh và thiếu cả tư cách của một quốc gia có luật pháp về quyền con người. Hai người phụ nữ lớn tuổi, tiểu thương ở Đồng Nai, bị kết án 11 năm tù vì đã viết biểu ngữ và kêu gọi chống luật đặc khu vào năm 2018. Chị Vũ Thị Dung, một trong hai người, bị bắt cóc khi đi đám cưới của bạn. Và cả chị Dung lẫn chị Nguyễn Thị Ngọc Sương đều không được yêu cầu luật sư hay gặp mặt gia đình trong một thời gian dài, cho đến khi họ chuẩn bị ra tòa. Thậm chí, ra trước phiên tòa giả hình ấy, người nhà của hai phụ nữ ấy cũng không được vào dự.   bà Vũ Thị Dung 06 năm tù giam và bà Nguyễn Thị Ngọc Sương 05 năm tù . Gần hơn là vụ bắt giữ công dân Nguyễn Vượng ở Lâm Đồng. Cả trăm công an rầm rộ bao vây nhà của anh, bắt đi, lục soát căng thẳng – mà theo mô tả thì không khí còn nghiêm trọng hơn cả vụ vây bắt 4 người Trung Quốc làm và tàng trữ 13 tấn ma túy ở Gia Lai. Nguyễn Vượng chỉ dùng công cụ livestream của facebook để bày tỏ chính kiến của mình, bày tỏ sự dứt khoát với chủ nghĩa cộng sản. Dù quan điểm chính trị riêng của Nguyễn Vượng được bảo vệ bằng Hiến pháp Việt Nam, nhưng tiếc là ở đất  nước mà chúng ta đang sinh tồn, Hiến pháp thuộc về nhân dân, đành thúc thủ trước bạo cường và man rợ thuộc về nhà cầm quyền. Hiến pháp Việt Nam vẫn ghi rằng bất đồng chính kiến với chủ nghĩa cộng sản là quyền, chứ không phải là tội. Rất nhiều những chuyện quái gở như vậy đã xảy ra tại Việt Nam, đến mức dần trở thành chuyện bình thường. Và bình thường đến mức bị nhạt nhòa trước mắt của đám đông. Đoàn Thị Hồng, bà mẹ có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi vẫn bị công an bắt cóc và phớt lờ lời chất vấn từ phía luật sư. Những vụ điều tra dài ngày kèm thêm sự khủng bố tinh thần nhiều hình thức trong trại tạm giam để buộc nhận tội như trường hợp anh Lưu Văn Vịnh, Nguyễn Văn Đức Độ… đều là những vết nhơ của đời sống có luật pháp, nhưng lại không được nhiều sự chia sẻ, không được nhiều người dám cùng lên tiếng kêu đòi công lý cho họ. Sợ hãi và thủ phận vẫn còn là một màn sương dày đặc, không cho con người nhìn thấy nhau, không cho.phẩm giá và lẽ phải của con người được trỗi dậy. Nhưng đám đông người Việt lại vẫn luôn truyền tai nhau một cách hớn hở về những thông tin Hoa Kỳ thương chiến với Trung Quốc, ra những đạo luật về vấn đề Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ, Hồng Kông… như một phép cứu cánh tinh thần. Nhưng đã đến lúc mọi người cần phải nói với nhau tỉnh giấc, thoát khỏi giấc mơ chờ sung rụng. Sẽ chẳng có tổng thống Trump nào, hay sự tan rã nào của Trung Quốc sẽ tự nhiên đem lại dân chủ và nhân quyền cho người Việt Nam cả. Chỉ vỗ tay và hy vọng thì không đủ. Một nước Việt Nam cần những con người cùng nhau thực sự hành động để đi đến những sự thay đổi mang tính hiện thực. Sẽ chẳng có trái sung ngon ngọt nào rơi vào cái miệng sợ hãi và há to chờ thời mang tên Việt Nam. Bài tập đầu tiên cho những đổi thay, là từ ngay bây giờ, mỗi con người cần quan tâm hơn và lên tiếng về việc vì sao người dân Việt đang rên xiết với đất đai bị cướp bóc, vì sao những người tù nhân lương tâm đang bị đối xử hà khắc và oan ức từng ngày, vì sao luật pháp đang bị chà đạp bởi những kẻ đang cầm nắm quyền lực… Hãy tự hỏi mình, bạn đã tìm thấy sự phẫn nộ trước sự bất công đang chà đạp đồng bào chưa? Bạn đã bao lần quay mặt để được yên phận mình mà không ray rứt trước nỗi đau của người cùng màu da, tiếng nói? Đừng tự so sánh với Hồng Kông, đừng lo sợ tương lai Việt Nam sẽ như Tây Tạng…nếu chỉ là chờ đợi thụ động. Nếu có một thể chế mới ngẫu nhiên xảy đến, đất nước này nhiều khả năng sẽ lại bị cầm nắm bởi bọn cơ hội, hèn nhát và vô lương tâm mà thôi. Bởi nuôi dưỡng hèn nhát, chúng ta sẽ nhận lại hèn nhát. Nuôi dưỡng sự ích kỷ, chúng sẽ là nạn nhân của ích kỷ. Tôi viết những dòng này, bởi có không ít người Việt hôm nay thích chọn làm khán giả thông minh trước thời cuộc hoặc đóng vai tiên tri đại ngôn sáng thế, né tránh thực tế đầy nước mắt, máu và oan khiên của đồng bào mình. Đừng quên bất kỳ sự thay đổi nào trong lịch sử, khán giả vô tâm hay tiên tri đại ngôn rồi chỉ lộ hình là kẻ ăn bám và đánh cược với thời đại. Bạn không thấy dân tộc này đã mang nặng và đủ đau về những kẻ như vậy sao?  
......

Quốc tế vận Bãi Tư Chính: Việt Nam hay Trung Quốc thắng thế?

Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc (Ảnh: China Geological Survey) Phạm Chí Dũng - VOA| Sau tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào ngày 18/9/2019 đòi “Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính”, người ta có thể tự hỏi vì sao Bắc Kinh lại tự tin và ngạo mạn đến thế. Cái gì đã khiến Trung Quốc quá tự tin và ngạo mạn? Nhất là từ cái cái cách hé miệng ấp úng “Chúng ta đã kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng mọi biện pháp đối với các hoạt động của nước ngoài vi phạm chủ quyền trên biển của ta” của Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc vào ngày 4/9/2019 trong một cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 tại Hà Nội, nhưng vẫn không hề dám nhắc đến cái tên Trung Quốc. Dù đó là lần đầu tiên ông Phúc ’can đảm’ có được một phát ngôn về tình hình ở Biển Đông kể từ khi Trung Quốc đưa tàu Hải Dương 8 vào hoạt động tại khu vực Bãi Tư Chính từ ngày 3/7/2019. Phát ngôn đó xảy ra trong bối cảnh tàu Hải Dương 8 thậm chí còn lấn tới sát vùng biển Phan Thiết, trong lúc không có một tàu hải quân nào của Việt Nam ra ngăn chặn, theo đúng là tinh thần câu vè dân gian ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’. Vào cuối tháng 7 năm 2019, chỉ một ngày sau khi phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam là Lê Thị Thu Hằng cho biết Hà Nội đã “trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam” - một cử chỉ can đảm mang tính quá hiếm muộn của giới chóp bu Việt Nam về thế buộc phải đối đầu với “thiên triều”, Trung Quốc đã lần đầu tiên phản ứng khi phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc là Hoa Xuân Oánh đã lên tiếng cáo buộc Việt Nam “vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với bãi Tư Chính kể từ tháng Năm,” “Trung Quốc đã thể hiện quan điểm của mình và đang liên lạc với phía Việt Nam” và “Chúng tôi kêu gọi phía Việt Nam xử lý phù hợp vụ việc”. Nhưng khi đó Bắc Kinh chưa trịch thượng đến độ dám đòi “Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính”. Sang tháng 8 năm 2019, Trung Quốc đã lần thứ hai ra tuyên bố về Bãi Tư Chính, khi Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng cho rằng, tàu Hải Dương Địa Chất số 8 hoạt động trong vùng biển thuộc quyền tài phán của nước này và yêu cầu quốc gia có liên quan tôn trọng. Ngay trước đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam vẫn mấp máy đọc bài “yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu khỏi vùng biển của Việt Nam, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán, các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam”. Rõ ràng thái độ tự tin và ngạo mạn của ‘đảng anh’ Trung Quốc trong vụ Bãi Tư Chính đã gia tăng dần qua từng tháng, tỷ lệ nghịch với toàn bộ biểu cảm ‘kịch liệt phản đối’ nhưng không dám có bất kỳ phản ứng mạnh mẽ nào của chính thể ‘đảng em’ Việt Nam, không chỉ không dám hé môi cái tên Trung Quốc trên đầu môi chót lưỡi của giới chóp bu Hà Nội mà cho tới lúc này, khi cuộc chiến khoan dầu đã kéo dài gần trọn một quý, các tàu hải cảnh và tàu chiến Việt Nam vẫn chẳng dám nổ một phát súng, dù chỉ bắn lên trời, để cảnh cáo tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc. Trong khi hệ thống tuyên giáo và báo đảng Việt Nam vẫn ‘tự sướng’ bằng cái cách thầm thì trong nội bộ ‘ta nhất định thắng’ và những bài báo theo kiểu ‘Việt Nam nhận được sự ủng hộ lớn lao của cộng đồng quốc tế về chủ quyền ở Bãi Tư Chính’, thì sự thật đắng chát mà không một quan chức hay tờ báo nào của đảng CSVN dám nói ra là thất bại của Việt Nam tại Hội Nghị Các Bộ Trưởng ASEAN diễn ra ở Thái Lan vào cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám 2019. Ở hội nghị đó, bất chấp phía Việt Nam đã tìm cách vận động các quốc gia ASEAN để phản đối xâm phạm Bãi Tư Chính nói riêng và rộng hơn là Biển Đông, tuyên bố của Hội nghị đã chỉ đề cập khá chung chung và “quan ngại” về tình hình Biển Đông mà không hề nhắc đến cái tên Trung Quốc. Thắng lợi ngoại giao và quốc tế vận của Trung Quốc - cần phải thừa nhận như thế - đã khởi sự từ thời điểm trên, ngay vào lúc tàu Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho nó bắt đầu xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như một cách vừa ăn cướp vừa la làng. Thắng lợi của ‘Mười sáu chữ vàng’ Kết quả phản ứng Trung Quốc quá mờ nhạt, hoặc gần như không có gì, tại Hội Nghị Các Bộ Trưởng ASEAN hẳn đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định có phản ứng hay không của nhiều quốc gia trên thế giới đối với Trung Quốc về căng thẳng ở Biển Đông. Sau gần 3 tháng từ ngày nổ ra vụ Bãi Tư Chính, hoặc đã là năm thứ ba kể từ lúc Trung Quốc xua tàu bao vây, gây hấn và ‘tống tiền’ Bộ Chính trị Việt Nam ở khu vực này, thực tế quá ư trần trụi và cay đắng là phần lớn trong số các ‘đối tác chiến lược toàn diện’ của Việt Nam đã chẳng có ý kiến gì hoặc ngó lơ vụ Bãi Tư Chính, để mặc cho ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ là Trung Quốc - cụm từ mà giới quan chức Việt Nam vẫn hỉ hả tụng ca về người bạn ‘Bốn Tốt’ của mình - hành hạ ‘đảng em’ đến mức ‘đái cả ra quần’. Một sự ghẻ lạnh lạ lùng xâm phủ bộ mặt chính thể độc tài ở Việt Nam - luôn tự hào có rất nhiều quan hệ đối tác chiến lược. Thậm chí ngay cả những quốc gia có lợi ích trực tiếp về liên doanh khoan dầu ở Bãi Tư Chính là Nga - tập đoàn dầu khí Rosneft ở mỏ Lan Đỏ, và Tây Ban Nha - hãng dầu khí Repsol ở mỏ Cá Rồng Đỏ, cũng không một lời chia sẻ với nỗi đau thất thần của Hà Nội, càng chẳng có cử chỉ tối thiểu nào ‘lên án’ Trung Quốc. Cử chỉ bị coi là câm nín của giới lãnh đạo Việt Nam và việc chẳng một quan chức cao cấp nào trong ‘tam trụ’ - từ Nguyễn Phú Trọng đã từng cầu an ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam’ đến Nguyễn Xuân Phúc từng nghiêng ngoẹo cụng ly với Tập Cận Bình vào năm 2016, và cả Nguyễn Thị Kim Ngân uốn éo trước mặt họ Tập về ‘đại cục’ ở Bắc Kinh… đã dìm xác suất ‘kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế’ xuống đáy hy vọng, xứng đáng bổ sung thêm một ‘không’ nữa vào chính sách ‘ba không’ gậy ông đập lưng ông của Hà Nội: không kiện Trung Quốc! Rốt cuộc, tất cả từ không dám nổ súng cảnh cáo, không dám nhắc tên Trung Quốc và không dám kiện Trung Quốc đã khiến Bắc Kinh không chỉ ngày càng coi thường ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, mà còn giành ưu thế vượt mặt giới chóp bu Việt Nam trong hoạt động vận động quốc tế. Cách tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính, và bây giờ còn muốn đuổi Việt Nam ra khỏi đó, rất có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong “đường lưỡi bò 9 đoạn,” tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế “thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc” vào năm 2019. Nếu ngày càng nhiều quốc gia thờ ơ với vụ Bãi Tư Chính, đó sẽ là cơ hội để Bắc Kinh khuếch tán chiến dịch vận động các nước trong Liên Hiệp Quốc ủng hộ ‘chủ quyền’ của Trung Quốc ở khu vực này. Và nếu Trung Quốc đạt được một sự ủng hộ của một số nước nào đó, dưới dạng tuyên bố hoặc nghị quyết quốc tế, đó sẽ là cơ sở và tiền đề cực kỳ quan trọng để ‘Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa’ tiến hành một chiến dịch quân sự tốc chiến xâm chiếm Bãi Tư Chính của Việt Nam. Tốc chiến trước khi Việt Nam khai thác hết dầu để nuôi đảng! Còn ngay trước mắt, gần ba tháng đã lao qua ở Bãi Tư Chính… Cho tới lúc này Trung Quốc đã đạt được những mục tiêu ban đầu của chiến dịch này, không chỉ khiến nhiều quốc gia trên thế giới và dư luận quốc tế dần bớt mối quan tâm đến một Biển Đông giằng co nhàm chán, mà còn biến Bãi Tư Chính từ vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thành nơi ‘tranh chấp không thể tranh cãi’ giữa hai kẻ vẫn quen ca hát 16 chữ vàng "Sơn thủy tương liên, văn hóa tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan".  
......

Sau tuyên bố ‘chủ quyền’, Trung Quốc sẽ tấn công Bãi Tư Chính?

 Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào ngày 18/9/2019 đòi “Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính” là chưa từng có, rất có thể là bước dọn đường dư luận để nhảy sang hành động tiếp theo: chiến tranh. Thường Sơn – (VNTB)| Nếu ngày càng nhiều quốc gia thờ ơ với vụ Bãi Tư Chính, đó sẽ là cơ hội để Bắc Kinh khuếch tán chiến dịch vận động các nước trong Liên Hiệp Quốc ủng hộ ‘chủ quyền’ của Trung Quốc ở khu vực này. Và nếu Trung Quốc đạt được một sự ủng hộ của một số nước nào đó, dưới dạng tuyên bố hoặc nghị quyết quốc tế, đó sẽ là cơ sở và tiền đề cực kỳ quan trọng để ‘Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa’ tiến hành một chiến dịch quân sự tốc chiến xâm chiếm Bãi Tư Chính của Việt Nam. Tốc chiến trước khi Việt Nam khai thác hết dầu để nuôi đảng! Cho tới lúc này Trung Quốc đã đạt được những mục tiêu ban đầu của chiến dịch này, không chỉ khiến nhiều quốc gia trên thế giới và dư luận quốc tế dần bớt mối quan tâm đến một Biển Đông giằng co nhàm chán, mà còn biến Bãi Tư Chính từ vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thành nơi ‘tranh chấp không thể tranh cãi’. Còn cử chỉ bị coi là câm nín của giới lãnh đạo Việt Nam và việc chẳng một quan chức cao cấp nào trong ‘tam trụ’ – từ Nguyễn Phú Trọng đã từng cầu an ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam’ đến Nguyễn Xuân Phúc từng nghiêng ngoẹo cụng ly với Tập Cận Bình  vào năm 2016, và cả Nguyễn Thị Kim Ngân uốn éo trước mặt họ Tập về ‘đại cục’ ở Bắc Kinh… đã dìm xác suất ‘kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế’ xuống đáy hy vọng, xứng đáng bổ sung thêm một ‘không’ nữa vào chính sách ‘ba không’ gậy ông đập lưng ông của Hà Nội: không kiện Trung Quốc! Rốt cuộc, tất cả từ không dám nổ súng cảnh cáo, không dám nhắc tên Trung Quốc và không dám kiện Trung Quốc đã khiến Bắc Kinh không chỉ ngày càng coi thường ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, mà còn giành ưu thế vượt mặt giới chóp bu Việt Nam trong hoạt động vận động quốc tế. Cách tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính, và bây giờ còn muốn đuổi Việt Nam ra khỏi đó, rất có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong “đường lưỡi bò 9 đoạn,” tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế “thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc” vào năm 2019. Kịch bản ngày càng lộ rõ là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ chiến dịch, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong “đường lưỡi bò” mới được Trung Quốc vẽ bổ sung. Nguy cơ Việt Nam bị tấn công đang hiển thị dần sau một tháng. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào ngày 18/9/2019 đòi “Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính” thực chất là một tối hậu thư đối với giới ‘văn dốt, võ dát’ ở Ba Đình. Sau tuyên bố này, rất có thể Trung Quốc sẽ bước sang một giai đoạn mới – hành động mới về quân sự: bước đầu tấn công các tàu hải cảnh của Việt Nam đang bảo vệ Bãi Tư Chính. Sau đó, cuộc chiến sẽ leo thang với sự đụng độ giữa các tàu chiến của hai bên. Trước đây, Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị của ông ta ngỡ tưởng cúi đầu chịu nhục thì sẽ được Tập Cận Bình và Bắc Kinh ‘tha bổng’. Nhưng giờ đây, Bộ Chính trị Việt Nam không còn đường lùi nữa. Càng lùi càng chết, càng khiến Trung Quốc ngạo mạn và lấn tới. Đến giờ phút này, giới chóp bu Việt Nam phải quyết định cho chính số phận tồn vong của nó: thêm một lần đánh đu với người anh em cộng sản Bắc Kinh sẽ rất dễ khiến lục phủ ngũ tạng của dân tộc Việt Nam bị kẻ thù phanh thây – theo đúng cái cách mà chính quyền Trung Quốc đã làm để mổ sống nội tạng các tín đồ Pháp Luân Công.  
......

Người Việt trẻ và phong trào tuần hành khí hậu

  Nguyễn Trang Nhung - RFA| Vậy là Climate Strike đã “đến” Việt Nam. Và tuần hành khí hậu đầu tiên đã diễn ra vào Chủ Nhật vừa qua, 22 tháng Chín, tại Sài Gòn. Những người Việt Nam quan tâm tới biến đổi khí hậu cuối cùng có thể mỉm cười, hay ít ra là không còn băn khoăn rằng khi nào người Việt Nam sẽ hưởng ứng phong trào tuần hành khí hậu. Khởi phát vào tháng Tám, 2018 từ nhà hoạt động thiếu niên 16 tuổi người Thụy Điển Greta Thunberg, phong trào tuần hành khí hậu giờ đây đã lan rộng ra toàn cầu. Xem thêm: Cô bé Greta: Gáo nước lạnh tạt vào mặt các lãnh đạo thế giới www.viettin.de/node/1412 Vào thời gian đầu, khi Greta còn ngồi lì tại tòa nhà quốc hội Thụy Điển vào mỗi thứ Sáu, có lẽ ít ai nghĩ rằng ảnh hưởng của cô sẽ rộng lớn như vậy vào một năm sau. Thứ Sáu vì tương lai (Fridays for future) từ đó đã trở thành khẩu hiệu cho một trong những phong trào xã hội quy mô nhất thế giới. Theo thông tin từ fanpage của Greta, hơn 4 triệu người tại 163 quốc gia đã tham gia tuần hành khí hậu vào thứ Sáu vừa qua.[1] Trở lại một ngày thứ Sáu vào tháng Ba, 2019, người quan sát đã có thể thấy sự bùng nổ của phong trào với 1769 nơi tại 112 quốc gia đăng ký hưởng ứng tuần hành khí hậu.[2] Vào thời điểm đó, tại Đông Nam Á, trong 5 nước tham gia không có Việt Nam, và ở phạm vi rộng hơn là châu Á có sự tham gia của 2 nước đông dân nhất là Ấn Độ và Trung Quốc. Khi một phong trào đến Việt Nam, thường đó là khi nó đã quá lớn để người Việt Nam bỏ qua. Và đây là một phong trào như vậy. Dù phong trào đến Việt Nam muộn, song đó vẫn là một tín hiệu vui. Như facebooker Hong Hoang cho biết trên FB của mình,[3] tuần hành khí hậu tại Sài Gòn được đề xướng bởi một bạn trẻ Việt Nam. Sau khi bạn trẻ này không thấy ai tổ chức tuần hành, bạn trẻ đó quyết định tự làm cùng một số bạn trẻ khác. Group FB của các bạn ban đầu có những người nước ngoài tham gia, sau đó có các bạn trẻ Việt Nam đăng ký, và kết quả là khoảng 60 – 70 người đã xuống đường với những thông điệp ý nghĩa về chống biến đổi khí hậu. Điều đáng lưu ý là các bạn trẻ thực hiện hoạt động này hoàn toàn độc lập, không thuộc tổ chức hay dự án nào. Các bạn trẻ này, như Hong Hoang nhận định, thực sự cảm nhận được tính cấp bách của vấn đề biến đổi khí hậu và đã vượt qua được nỗi e dè của bản thân. Quả là bước đầu tiên thường khó khăn, đặc biệt là ở một xã hội mà các quyền tự do biểu đạt còn hạn chế như Việt Nam. Và khi đã tiến được bước đầu tiên, mọi sự về sau nhìn chung sẽ dễ dàng hơn. Tuần hành khí hậu tại Sài Gòn là chỉ dấu cho thấy chúng ta có thể hi vọng vào các bạn trẻ Việt Nam ngày nay. Dù họ thừa hưởng một di sản thiếu thốn từ thế hệ trước, từ suy nghĩ cho đến hành động, vì thế hệ trước đã không nghĩ đủ và làm đủ trách nhiệm với chính thế hệ mình lẫn thế hệ sau, thì bằng cách nào đó, các bạn trẻ vẫn tìm ra con đường sáng để đi và rồi thắp lên cho chúng ta hi vọng. Thông báo tuần hành khí hậu vào 27 tháng Chín tại Sài Gòn. Ảnh: Fanpage Climate Strike HCM Vào thứ Sáu tới đây, 27 tháng Chín, tuần hành khí hậu sẽ lại diễn ra, và các bạn trẻ sẽ lại gióng lên những thông điệp đánh thức chúng ta về cuộc khủng hoảng khí hậu và cuộc diệt chủng khó tránh nếu chúng ta không nỗ lực để ngăn cản. Là một người không còn trẻ, tôi thấy vui khi các bạn đã khiến cho những người như tôi thêm hi vọng vào tương lai. Các bạn hãy tiếp tục hướng đến tương lai qua những ngày thứ Sáu. Đó là tương lai của các bạn, đó là tương lai của đất nước, và đó cũng là tương lai của cả hành tinh. Nguyễn Trang Nhung — Chú thích: [1] Thông tin từ fanpage của Greta https://www.facebook.com/gretathunbergsweden/posts/921713098196511 [2] Các con số được fanpage của Greta dẫn theo website fridaysforfuture.org https://www.facebook.com/gretathunbergsweden/posts/791708124530343 [3] Facebook Hong Hoang https://www.facebook.com/hongnc/posts/10220046548738466 Nguồn: RFA  
......

“Ở Việt Nam không có khủng bố”

Phạm Nhật Bình - Viettan| Đó là phát biểu của ông Trần Văn Vệ, Trung Tướng, Chánh Văn Phòng Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra thuộc Bộ Công An CSVN và là Phó Trưởng Ban thường trực của Hội Nghị Tư Lệnh Cảnh Sát Đông Nam Á (ASEANPOL) lần thứ 39, trong buổi lễ khai mạc vào sáng ngày 18 tháng Chín, 2019 ở Hà Nội. “Việt Nam chưa có khủng bố”, được một viên tướng công an, đặc trách về điều tra đưa ra trong bối cảnh Hà Nội gia tăng các cuộc bắt giữ và trấn áp những nhà hoạt động xã hội, dân quyền và mạng xã hội từ năm 2016 cho đến nay, cho thấy có gì đó khá mâu thuẫn, khi họ đang cố tình quy chụp tội danh khủng bố đối với một số người và những tổ chức yêu nước, qua các cuộc trấn áp này. “Khủng bố” cũng không là từ ngữ xa lạ đối với người Việt ở Miền Nam trước năm 1975. Đó là từ ngữ mô tả sự gieo rắc chết chóc chẳng những cho đối phương mà còn cho người vô tội nhằm mục đích làm cho người ta sống sợ hãi để kẻ khủng bố đạt được một mục tiêu chính trị. CSVN là tay tổ về khủng bố, chính họ là thủ phạm trực tiếp vạch kế hoạch và chỉ huy hàng loạt hành động khủng bố trong thời chiến trên khắp Miền Nam. Với hành vi khủng bố ngấm vào máu, lãnh đạo CSVN đã không chỉ áp dụng đường lối cai trị bạo lực và sắt máu trên cả nước sau năm 1975 mà còn gán ghép “khủng bố” đối với những ai không phục tùng họ. Cho nên khi Tướng Vệ tuyên bố “ở Việt Nam không có khủng bố” khiến cho dư luận bật ngửa. Bởi vì tuyên bố này rõ ràng đi ngược với những gì Việt Nam hành động trong thời gian qua, điển hình là vụ đích thân Bộ Trưởng Công An Tô Lâm chỉ huy một nhóm khủng bố bắt Trịnh Xuân Thanh ở Berlin. Trong khi cố tình gán ghép, cáo buộc các tổ chức tranh đấu ôn hoà là khủng bố để xử họ theo điều 299 của Bộ Luật Hình Sự 2017 thì chế độ cộng sản làm sao giải thích được bản chất hành động của mình từ trước đến giờ? Có thể nói là chính đảng CSVN là tập đoàn khủng bố có tổ chức nên họ có đầy đủ thủ đoạn tinh vi để khủng bố người dân trong nước và cả trong phạm vi thế giới. Từ việc đeo bám, canh giữ, đe dọa, cô lập đến cho côn đồ giả danh chận đường đánh đập, cướp tài sản, bắt cóc các thành phần đấu tranh đều nhằm mục đích gây sợ hãi của bài học khủng bố mà người cộng sản thuộc nằm lòng. Đó cũng không còn là hành động trấn áp thông thường mà là màn dạo đầu của những cuộc bắt bớ hàng loạt người tham gia biểu tình như trong năm 2018. Theo định nghĩa thông thường, khủng bố là một hành động bạo lực cố tình đe dọa đến tính mạng và tài sản người khác. Nếu xem xét theo ý nghĩa này, hiện nay trên thế giới CSVN là một nhà nước khủng bố đúng nghĩa nhất từ quá khứ đến hiện tại. Tính từ năm 1953, cuộc cải cách ruộng đất “long trời lở đất” thực hiện trong khoảng thời gian 4 năm ở Miền Bắc chính là một cuộc khủng bố trắng nhằm tiêu diệt thành phần mà đảng CSVN ghép vào tội “địa chủ ác ôn” mà người cộng sản nói là đem lại công bằng xã hội. Nhưng thật ra bên trong vỏ bọc “địa chủ ác ôn”, chính là để triệt hạ những người mà đảng quy vào tội phản quốc, Việt gian, đảng phái phản động, thành phần phản cách mạng còn sót lại sau năm 1954. Hay như vụ đàn áp Nhân Văn Giai Phẩm, một phong trào văn hoá đòi tự do trong sáng tác của văn nghệ sĩ Miền Bắc, đảng Cộng Sản đã bộc lộ một cách rõ ràng chính sách độc quyền tư tưởng của họ. Người dân Miền Nam trước 1975 không ai quên cảnh chết chóc, tang thương trong những vụ đặt mìn, pháo kích vô tội vạ vào khu dân cư giết hại dân lành. Ngay như các em học sinh nhỏ tuổi vô tội cũng không thoát khỏi bàn tay quân khủng bố. Ngày 10 tháng Ba, 1974, 23 em học sinh trường Tiểu Học quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường đã ngã gục trong sân trường vì đạn pháo kích 82 ly của Việt Cộng. Với ngần ấy dữ kiện, đích thực đảng CSVN là một đảng khủng bố có tổ chức mà ngày nay không còn lừa bịp được ai. Thế nhưng trong lúc đó, họ lại lu loa kết án cá nhân này, tổ chức nọ là khủng bố hay âm mưu lật đổ chính quyền. Chuyện lố bịch nhất là ngày 9 tháng Tám, 2019, trong khi công bố danh sách liên quan đến khủng bố do Liên Hiệp Quốc chỉ định thì Bộ Công An CSVN đã mập mờ công bố thêm 2 tổ chức chính trị của người Việt ở Hoa Kỳ trong đó có đảng Việt Tân. Bộ Công An đã liệt kê 2 tổ chức này vào danh sách “khủng bố và tài trợ khủng bố” mà không hề trưng ra bất cứ bằng chứng nào. Nhưng sự quy chụp hàm hồ này của CSVN không thể nào qua mặt dư luận, vì chủ trương của đảng Việt Tân là đấu tranh bất bạo động để tháo gỡ độc tài, xây dựng dân chủ và canh tân đất nước. Đó là những mục tiêu tranh đấu chính trị hết sức ôn hoà không ai có thể phủ nhận. Điều đáng nói là tại sao qua Hội Nghị ASEANPOL lần thứ 39 tại Hà Nội, nhà cầm quyền CSVN lại cho tướng công an lên tiếng “ở Việt Nam không có khủng bố”. Phải chăng CSVN muốn che đậy những bất ổn xã hội, để qua đó thu hút đầu tư, thương mại và du lịch trong bối cảnh xung đột khó lường giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay. Nói tóm lại, CSVN chỉ luôn mồm rêu rao lý thuyết còn trong hành động thì chúng tung toàn công an mật vụ ra đối phó với người dân. Cho nên lời nói của tướng công an Trần Văn Vệ “Việt Nam không có khủng bố” chỉ để bịp những người ngu ngơ, nhẹ dạ. Còn Bộ Công an, bao giờ cũng là ổ khủng bố lớn nhất!  
......

Nhục cho đảng - bà Ngân dẫn phái đoàn thăm Hàn Quốc, 9 người đã bỏ trốn.

Le Anh| Hôm 13 tháng Chín, 2019, nhiều cơ quan truyền thông Hàn Quốc loan tin, có 9 người trong phái đoàn do bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân dẫn đầu bỏ trốn. Mặc dầu sự việc đã xảy ra vào đầu tháng 12, 2018. Khi nguồn tin này được tung ra trong thời điểm này, thay vì phải loan tin từ 1 năm trước, đã làm cho một số dư luận chú ý. Đặc biệt là Việt Nam. Theo tin tức từ cơ quan truyền thông Hàn Quốc cho biết, tham dự chuyến thăm này do bà Ngân dẫn đầu, có khoảng 162 cán bộ tháp tùng. Trong phái đoàn này gồm có 20 bộ trưởng và thứ trưởng, được đi riêng trên chuyến bay của Vietnam Airlines. Đây là điểm chú ý nhất, đã làm cho người dân Việt Nam rất phẫn nộ. Nhiều người cho rằng, chỉ đi thăm theo lời mời của Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Moon Hee Sang, thì tại sao phải kéo cả một lực lượng hùng hậu, làm cho người ta cứ tưởng bà Ngân kéo cả bầu đoàn thê tử, bà con, dòng họ đi xuất ngoại tham quan. Theo điều tra của các báo Hàn Quốc , thì những người bỏ trốn này đã móc nối với các đường dây trung gian để hợp thức hóa hồ sơ, đưa tên vào danh sách chuyến đi. Một số nguồn tin cho biết, sự việc này Chính phủ Hàn Quốc cũng không biết cho đến đầu năm 2019, khi có 1 trong 9 người ra trình diện, 1 người bị bắt, còn lại 7 người hiện giờ không biết ở đâu? Sau khi sự kiện này được công bố trên các cơ quan truyền thông Hàn Quốc thì đã xảy ra làn sóng phẫn nộ trong dư luận Việt Nam. Nhiều người cho rằng, - Có cần phải sử dụng tiền thuế của người dân để kéo cả lực lượng hùng hậu để đi thăm Hàn Quốc không? Nhiều người rất thắc mắc: - Ai là người trong phái đoàn gian lận đưa những người không trách nhiệm vào danh sách của phái đoàn? - Sự việc xảy ra, rõ ràng là có hối lộ? - Việc thực hiện đường dây gian lận này không chỉ có một người và có thể có liên hệ với cấp lãnh đạo? - Bà Ngân là người lãnh đạo, không lý nào không biết có người gian lận đưa người trà trộn vào danh sách phái đoàn, có nghĩa là những người này không nằm trong diện được chỉ định tham dự chuyến viếng thăm? Điều này cho thấy cách làm việc tắc trách của bà Chủ tịch Quốc hội Ngân. Ngoài ra có người nghi ngờ cho rằng, có thể bà Ngân biết sự việc này nhưng làm ngơ, vì những nhân vật đó có thể quen biết với bà hoặc chính bà là người đề nghị các nhân vật bỏ trốn đưa vào danh sách của phái đoàn? Khi sự việc xảy ra, đây là cái tát vào mặt Đảng và những người lãnh đạo Đảng CSVN. Đặc biệt là đối với bà Chủ tịch Quốc hội. Dù cho bà Ngân biết hay không biết liên quan đến 9 người trong phái đoàn bỏ trốn thì bà cũng phải chịu trách nhiệm, vì chính bà là người đại diện Việt Nam dẫn đầu phái đoàn. THẬT LÀ NHỤC QUỐC THỂ! Cho đến giờ này, chưa thấy báo lề Đảng lên tiếng, có lẽ tin này thuộc loại nhạy cảm, nên Ban Tuyên giáo đã chỉ thị cho các báo Đảng im lặng? Lê Ánh
......

Ls Đặng Đình Mạnh tường thuật phiên toà Đồng Nai kết án hai phụ nữ yêu nước 11 năm tù

Manh Dang| VỤ ÁN HAI BÀ “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”[1]. -------//------- bà Vũ Thị Dung và Nguyễn Thị Ngọc Sương Sáng ngày 23/09/2019, Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao tại TP.HCM đưa ra xét xử hình sự phúc thẩm đối với hai bà Vũ Thị Dung và Nguyễn Thị Ngọc Sương cùng bị truy tố về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCNVN” theo điều 117 Bộ Luật Hình Sự. Có ba luật sư tham gia bào chữa cho hai bà gồm LS Trịnh Vĩnh Phúc, LS Nguyễn Văn Miếng và LS Đặng Đình Mạnh. Trước đó, tại cấp sơ thẩm, TAND Tỉnh Đồng Nai đã tuyên xử bà Vũ Thị Dung với mức án 06 năm tù giam và bà Nguyễn Thị Ngọc Sương 05 tù giam. Trao đổi với nhau ít phút trước khi tòa án xét xử, bà Vũ Thị Dung nhờ luật sư nhắn với gia đình “Chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cả rồi !”. Vào phiên tòa, điều đáng nói nhất là khi LS Đặng Đình Mạnh mở đầu phần bào chữa thì liên tục bị Hội đồng xét xử cắt ngang nhiều lần với các lý do khá tùy tiện và sau đó, lần lượt cả LS Nguyễn Văn Miếng và LS Trịnh Vĩnh Phúc cũng bị cắt ngang lời bào chữa, nhưng các luật sư vẫn kiên trì tiếp tục thực hiện việc bào chữa cho đến hoàn tất. Kết thúc tranh luận vào lúc 10h10’, thì sau 10 phút nghị án, lúc 10h20’, hội đồng xét xử đã trở ra tuyên y án sơ thẩm về tội danh và hình phạt. Tóm tắt về diễn biến vụ án theo quan điểm của cơ quan truy tố như sau : Bà Vũ Thị Dung và bà Nguyễn Thị Ngọc Sương là hai tiểu thương buôn bán tại một chợ ở Định Quán, Đồng Nai. Ngày 09/10/2018, bà Vũ Thị Dung đã mua 04 quyển vở học sinh rồi tự viết vào 103 trang giấy với các nội dung đả kích Đảng CSVN và ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư Đảng CSVN; Kêu gọi biểu tình chống Trung Quốc, Luật đặc khu; Xuyên tạc tình hình đất nước; Kích động hận thù giữa các dân tộc; Giới thiệu các trang Facebook, YouTube tên Tân Thái, Benny Trương là hai trang của các đối tượng chống cộng cực đoan ở nước ngoài … nhằm chống Nhà nước CHXHCN VN. Rồi giao cho bà Nguyễn Thị Ngọc Sương đi rải ở những nơi công cộng. Đến ngày 13/10/2018 thì cả hai bà đều bị bắt. Do tòa án cấp sơ thẩm tuyên hai bà có tội cùng hình phạt đều dựa vào bản Kết luận giám định tư pháp. Thực chất đây là bản kết luận về “Giám định tư tưởng” ! Cho nên, bản Kết luận giám định tư pháp đã được các luật sư tận tình “mổ xẻ” tại tòa bên cạnh sự ngăn trở quyết liệt không kém của hội đồng xét xử. Đương nhiên, hòa cùng với tòa án một cách hết sức khéo léo, trong lời tranh luận của mình, vị đại diện VKS cũng đã lờ đi hầu hết những điểm khuất tất tày đình mà luật sư đã chỉ ra trong bản Kết luận giám định tư pháp. Về yếu tố khách thể bị xâm phạm: Tội danh theo điều luật 117 Bộ Luật Hình sự có nội dung : ““Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCNVN”[2]. Như trong chính văn thức của điều luật thể hiện, thì đối tượng bị xâm phạm (yếu tố khách thể) là Nhà nước CHXHCN VN. Tuy nhiên, tìm trong suốt 103 tài liệu của bà Dung tự tay viết, thì lại không hề có 01 tờ nào có nội dung đề cập đến Nhà nước cả ?! Mà chỉ có 11 tài liệu đề cập đến Đảng CSVN và ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư Đảng CSVN mà thôi. Đương nhiên, không có quy định nào cho phép đồng hóa tổ chức đảng và tên tuổi cá nhân ông Trọng lại chính là Nhà nước cả. Nội dung này vị đại diện VKS có tranh luận, nhưng lại tiếp tục nhắc đến tên tổ chức đảng và tên tuổi người lãnh đạo thay vì nhắc đến Nhà nước !? Về vấn đề kích động biểu tình bất hợp pháp: Về pháp lý, biểu tình là một quyền hiến định, được quy định tại điều 25 của hiến pháp. Muốn biết một cuộc biểu tình bất hợp pháp hay không thì phải có Luật biểu tình để đánh giá. Vì Luật biểu tình sẽ quy định những thể thức để công dân thực hiện quyền biểu tình, nếu không thực hiện đúng theo thể thức quy định, thì cuộc biểu tình đó mới bị xem là bất hợp pháp. Hiện nay, trong bối cảnh quốc hội chưa ban hành luật biểu tình, thì không có cơ sở pháp lý để giám định viên đánh giá biểu tình bất hợp pháp. Nếu cho rằng, cứ biểu tình là bất hợp pháp thì thực tế giám định viên đang chà đạp hiến pháp khi phủ nhận quyền biểu tình của công dân. Nội dung này vị đại diện VKS lờ, không tranh luận. Vấn đề kêu gọi xuống đường chống giặc ngoại xâm Trung Quốc => Xuyên tạc hiện tình đất nước: Từ nhiều thập kỷ qua, chính quyền Trung Quốc nhất quán từng bước xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải nước ta là một sự thật khách quan không thể chối cãi. Toàn bộ Hoàng Sa và một phần Trường Sa thực tế đang bị Trung Quốc xâm chiếm. Bà Vũ Thị Dung đã nói sự thật chứ không xuyên tạc hiện tình đất nước. Nội dung này vị đại diện VKS lờ, không tranh luận. Vấn đề kích động hận thù giữa các dân tộc : Từ trước đến nay, khi phê phán, phản đối Trung Quốc là đều ám chỉ chính quyền Trung Quốc, là thực thể chính trị có chủ trương không tốt với VN. Chưa bao giờ khái niệm Trung Quốc được dùng để ám chỉ người dân Trung Quốc cả. Thế nhưng, giám định viên đã tự tiện bịa đặt, gán tội rằng : Nói chống Trung Quốc tức là đồng nghĩa với việc chống người dân Trung Quốc để gây hận thù giữa các dân tộc ?! Đây là sự bịa đặt trắng trợn và ác ý. Nội dung này vị đại diện VKS lờ, không tranh luận. Vấn đề giới thiệu, tuyên truyền cho các trang mạng xã hội chống cộng: Giám định viên cho rằng hai bà đã có hành vi bất hợp pháp khi giới thiệu, tuyên truyền về các trang mạng xã hội Facebook và YouTube mang tên Tân Thái và Benny Trương. Về phương diện pháp lý cho đến nay, không có văn bản chính thức nào của cơ quan có thẩm quyền cấm đoán người dân xem, đọc, chia sẻ các trang mạng có tên nêu trên cả. Mà “Vô luật bất hình”, không có điều luật cấm đoán thì không có tội, đồng thời, người dân có quyền làm bất kỳ điều gì mà luật pháp không cấm. Vì thế, giám định viên khẳng định một sự việc là bất hợp pháp trong khi không có điều luật cấm đoán là không có cơ sở pháp lý. Nội dung này vị đại diện VKS lờ, không tranh luận. Vấn đề kết luận các bị cáo “hướng tới kêu gọi lật đổ Nhà nước CHXHCN VN”: “Hướng tới” tức là đang nói đến một hành vi chưa xảy ra và cũng không rõ có xảy ra trong tương lai hay không ? Nhưng giám định viên đã “bói” là sẽ xảy ra và điều đó là có tội !? Điều này trái với nguyên tắc “suy đoán vô tội” hiện đã được pháp luật hình sự VN thừa nhận. Nội dung này vị đại diện VKS lờ, không tranh luận. Cuối cùng, một bản Kết luận giám định tư pháp hàm hồ, bịa đặt, đầy rẫy những nhận định sai trái, vi phạm pháp luật … như vậy đã được cả hai cấp tòa dễ dãi chấp nhận làm chứng cứ quyết định việc hai bà phạm tội và tuyên hình phạt 06 năm tù giam đối với bà Vũ Thị Dung và 05 năm đối với bà Nguyễn Thị Ngọc Sương. Có lẽ, khi chủ trương tuyên xử y án theo quán tính quen thuộc, cả hệ thống chính trị xứ sở này đã không nhận ra dấu hiệu bất thường từ xã hội. Từ khi nào mà những bà nội trợ chân yếu tay mềm, những chị tiểu thương thấp cổ bé miệng đã dám lên tiếng về quốc sự, chấp nhận sự dấn thân phi thường, bất chấp tù đày đến như vậy? Không phải khi sự bất công đã lên đến tận cổ và sự uất nghẹn đã làm mờ đi nỗi sợ hãi rồi hay sao? Xứ sở chúng ta chỉ có thể thay đổi, phẩm giá dân tộc chỉ có thể được phục hồi … chính từ những sự hy sinh phi thường như vậy. Luật sư tham gia bào chữa cho hai bà gồm LS Trịnh Vĩnh Phúc, LS Nguyễn Văn Miếng và LS Đặng Đình Mạnh. 23/09/2019 Manh Dang --------------- [1] Con dân nước Việt phải biết tác giả câu nói này. [2] Tội danh theo điều 117 Bộ Luật Hình sự 2015 “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCNVN” chính là biến thể của Tội danh "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" rất nổi tiếng theo điều 88 Bộ luật Hình sự cũ trước đây (1999).  
......

Một thỏa thuận sai lầm?

Chu Vĩnh Hải| Việt Nam đã có một thời mạnh mẽ và quyết liệt trong vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo, thế nhưng tại sao Việt Nam ngày càng hèn yếu trước Trung Quốc trong việc bảo vệ chủ quyền? Nguyên nhân nằm ở đâu? Luật Biển của Việt Nam là điển hình của sự quyết liệt và mạnh mẽ. Dự án luật biển này được soạn thảo vào khoảng năm 2002, nhưng một số lãnh đạo Việt Nam dưới áp lực khuynh loát của Trung Quốc đã không trình lên quốc hội. Mãi đến ngày 21 tháng Sáu, 2012, Quốc Hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua Luật Biển với số phiếu áp đảo là 495/496. Tại sao Luật Biển được thông qua? Vào ngày 26 tháng Năm, 2011, ba tàu hải giám của Trung Quốc đã ngang ngược cắt cáp của tàu thăm dò Bình Minh của Việt Nam đang thăm dò trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Hàng ngàn thanh niên, trí thức đã biểu tình trước Đại Sứ Quán Trung Quốc tại Hà Nội và Tổng Lãnh Sự Trung Quốc tại TP. HCM. Những chống đối mạnh mẽ của người dân và tiếng nói của những cán bộ về hưu phê phán sự yếu hèn của giới lãnh đạo Việt Nam với Trung Quốc đã buộc nhà nước Việt Nam trình Quốc Hội thông qua Luật Biển xác nhận chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng. Dù đã có Luật Biển, nhưng tại sao Việt Nam vẫn yếu ớt? Có phải văn kiện “Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” là nguyên nhân làm cho Việt Nam hèn nhát? Vào ngày 12 tháng Mười, 2011, báo Vnexpress bản điện tử có bản tin “Việt – Trung thỏa thuận nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển“. Toàn văn bản tin như sau: “Ngày 11/10, Việt Nam và Trung Quốc đã ký thỏa thuận nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển gồm 6 điểm, trong đó có việc thiết lập đường dây nóng cấp chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thông tin. Trong chuyến thăm tới Trung Quốc hôm qua, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hồ Cẩm Đào đã chứng kiến lễ ký các văn kiện hợp tác quan trọng giữa hai Đảng, hai Nhà nước. Trong các văn kiện trên, có văn kiện Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo đó, Đoàn đại biểu Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhất trí cho rằng, giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc là phù hợp với lợi ích căn bản và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực. Hai bên nhất trí căn cứ vào những nhận thức chung mà Lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được trong vấn đề trên biển, trên cơ sở “Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” năm 1993, xử lý và giải quyết vấn đề trên biển tuân theo những nguyên tắc dưới đây: 1. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. 2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển. 3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam – Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác. 4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này. 5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn. 6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.” (hết trích) Có một điều rất dễ nhận ra là, bản thỏa thuận này không đề cập đến gì đến việc giải quyết chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đã cưỡng chiếm của Việt Nam vào năm 1974 và năm 1988. Tại sao phía Việt Nam không đưa vấn đề hai quần đảo vào thỏa thuận? Khi không đưa hai quần đảo vào thỏa thuận, có phải Việt Nam đã không có cơ sở lên tiếng phản đối Trung Quốc? Điều thứ hai dễ dàng nhận thấy trong bản thỏa thuận này là không có các khoản mục nêu rõ phạm vi thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Chính sự mù mờ về phạm vi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa trong bản thỏa thuận này đã giúp Trung Quốc ngang ngược hơn trong việc ngang nhiên và phi lý khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông và Bãi Tư Chính, làm cho Việt Nam yếu thế hơn trong việc bảo vệ chủ quyền? Điều thứ ba dễ dàng nhận thấy là bản thỏa thuận này nặng về chính trị, qua đó vuốt ve để Việt Nam hành xử nhẹ nhàng với các yêu sách và vụ việc do Trung Quốc gây ra ở Biển Đông. Đã đến lúc Việt Nam thảo luận với Trung Quốc nhằm hủy bỏ, hoặc đơn phương hủy bỏ văn kiện “”Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” để mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn trong việc bảo vệ chủ quyền của đất nước ở Biển Đông nói chung và Bãi Tư Chính nói riêng.    
......

TNLT Nguyễn Văn Hóa tố cáo bị cán bộ quản giáo dọa cắt gân chân

RFA| Tù chính trị trẻ Nguyễn Văn Hóa, người đang thụ án 7 năm tù giam với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước”, lên tiếng tố cáo anh bị một cán bộ quản giáo thuộc phân trại K1, trại giam An Điềm, tỉnh Quảng Nam, dọa cắt gân chân hồi tháng 7 trong thời gian bị giam riêng. Bà Nguyễn Thị Huệ sau cuộc thăm gặp em trai mình hôm 20 tháng 9 năm 2019 nói với Đài Á Châu như sau: “Vào thời điểm tháng 7, khi mà Hóa đang ở bên K1 thì có cán bộ ở đây cũng có hành động dọa nạt, đòi cắt gân chân của Hóa. Giam riêng thì Hóa có nói thì bị ở một mình trong phòng từ 15-20m2. Trong phòng họ giam cả ngày lẫn đêm, vệ sinh và ăn uống đều ở trong phòng giam riêng.” Cũng theo chị gái của Nguyễn Văn Hóa, trong thời gian 4 tháng bị giam riêng biệt, anh bị nhốt hoàn toàn trong phòng, không được phép ra ngoài hít thở khí trời như những người khác đồng thời có camera theo dõi mọi sinh hoạt 24/24. Phóng viên gọi điện thoại cho trại giam An Điềm theo số điện thoại được phổ biến trên Internet nhưng không thể kết nối. Theo người tù bị tuyên án về an ninh quốc gia này, anh mong muốn được gia đình xem xét kháng cáo lên Giám đốc thẩm vụ án của mình. Nguyễn Văn Hóa cũng đồng thời đề nghị đại diện các Đại sứ quán của các nước phát triển đến thăm những tù nhân lương tâm đang thụ án tại đây, với mong muốn nói lên nguyện vọng chính đáng cũng như thực trạng giam giữ các tù nhân nơi này. Anh Nguyễn Văn Hóa, sinh năm 1995, là phóng viên cộng tác với Đài Á Châu Tự Do ở Việt Nam, anh là người tích cực đưa tin, phỏng vấn những người dân ở vùng chịu thảm họa môi trường do Formosa gây nên hồi năm 2016. Đầu năm 2017, Hóa bị công an bắt giữ khi đang quay phóng sự gần khu vực tòa án thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Trong một bức thư gửi cho gia đình anh nói mình bị công an “bắt cóc” 9 ngày và giam giữ trong một khách sạn sau đó mới có lệnh bắt chính thức. Đến ngày 27/11 cùng năm anh bị tuyên án 7 năm tù giam với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước”.  
......

Huế - Bác sĩ gạ tình không được thì đánh người !

Ảnh Lê Quang Huy Phương Le Dung Vova| Ngày 18/9/2019 Cô sinh viên thực tập tên Thu Thanh , quê ở TX Hương Trà - Huế. Bị Bác sỹ da liễu Lê Quang Huy Phương đánh nhập viện. Nguyên nhân là: Bác Sỹ Lê Quang Huy Phương đã gạ tình cô bé Sinh Viên này và bị từ chối và nổi máu đàn bà, động tay động chân quánh sơ sơ làm cô bé nhập viện. Hiện tại vẫn còn đang điều trị tại khoa hậu phẫu. Được biết, BS Phương là con trai của Bác sỹ Thạch có phòng khám tư ở địa chỉ "155 Phạm Văn Đồng, Vỹ Dạ, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế". Đây không phải là lần đầu BS nổi máu dê, gạ tình để chịch các em thực tập sinh. Có lẽ lần này BS đã gặp sự phản kháng mạnh mẽ của em sinh viên thực tập này và đánh em ấy. Theo thông tin được biết nhà cô gái ấy thuộc diện nghèo khó, muốn được cuộc sống tốt hơn. Ai ngờ lại gặp con bs 75 này. Sau vụ việc này, không hiểu bác sỹ Phương dâm làm kiểu gì mà tất cả lại im lặng đáng sợ. Sự việc này làm dấy lên cái đạo đức và nghề nghiệp của một người bác sĩ chân chính trong một xã hội. Làm ảnh hưởng tới danh tiếng của các bác sỹ khác. Mong mọi người đọc được hãy copy và chia sẽ cho tất cả mọi người đều biết trong ngành Y có một thằng giang hồ mang áo bác sỹ. Bát nháo quá, y đức gì như vậy ? Ps : báo cũ từ bảy tám năm trước đã viết về cha con Bs này rồi, công cầm dao chém người nữa !
......

Phái đoàn USCRIF gẵp gỡ đại diện dân oan vườn rau Lộc Hưng

Hình ảnh đại diện bà con dân oan VRLH chụp cùng Phái đoàn Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ. Từ trái qua phải: Ông Cao Hà Chánh, Phạm Thanh Nghiên, Cao Hà Trực, bà Anurima Bhargava- Uỷ viên, ông Dominic Nardi và bà Tina L. Mufford. (Phạm Thanh Nghiên) Trưa ngày 17/9/2019, phái đoàn Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) đã có cuộc gặp gỡ với một số đại diện của dân oan Vườn rau Lộc Hưng. Cuộc gặp nhằm mục đích tìm hiểu về sự kiện nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phá huỷ 503 căn nhà và cưỡng chiếm mảnh đất VRLH hồi đầu tháng 1/2019. Đặc biệt là ảnh hưởng, hậu quả sau biến cố trên đối với đời sống tôn giáo của người dân tại khu đất này. Phía USCIRF gồm Uỷ viên Anurima Bhargava. Hai nhân viên là bà Tina L. Mufford và ông Dominic Nardi. Về phía Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ có ông Gaetan W. Dambergott- Viên chức chính trị, người mới nhậm chức tại Sài Gòn. Đại diện cho bà con dân oan VRLH có ông Cao Hà Chánh, Cao Hà Trực và tôi, Phạm Thanh Nghiên, vừa với tư cách một cư dân Vườn rau và là một blogger độc lập. Cuộc gặp được diễn ra tại một nhà hàng thuộc quận 1, gần trụ sở Lãnh sự quán vì phái đoàn USCIRF mời chúng tôi ăn trưa trong lúc trao đổi công việc. Chúng tôi đã trình bày về sự kiện ngày 4 và 8/1, về thảm cảnh mà hàng trăm con người mất nhà mất đất đang phải gánh chịu. Đoàn Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đối với đời sống tôn giáo của bà con Lộc Hưng sau khi mảnh đất này bị phá huỷ và cưỡng chiếm. Kết thúc buổi làm việc, chúng tôi có trao cho phải đoàn những tài liệu cần thiết liên quan đến sự kiện Vườn rau Lộc Hưng. Xin chia sẻ thêm một chi tiết đáng chú ý. Trong khi chúng tôi ăn trưa và trao đổi công việc trong nhà hàng thì an ninh mật vụ cũng dọn chỗ rình mò, thập thò ở bên ngoài. Đoàn USCIRF ra về trước, dân oan chúng tôi rời nhà hàng ít phút sau đó. Khi chúng tôi vừa bước ra thì lập tức từ phía bên kia đường, nhiều kẻ lạ mặt đồng loạt giơ điện thoại lên quay phim chụp hình. Một số kẻ bám theo chúng tôi bằng xe gắn máy. Tuy nhiên, anh em chúng tôi đã cắt được đuôi. Một ngày sau đó (18/9) , phái đoàn cũng có buổi gặp gỡ với một số Chức sắc tôn giáo thuộc Hội đồng Liên tôn tại Chùa Giác Hoa. Đại diện phía Hội đồng Liên tôn cũng đã trao cho phái đoàn một Bản phúc trình, tóm tắt các vi phạm về tự do tôn giáo tại VN. Đồng thời nêu một số kiến nghị đối với đoàn USCIRF. Cùng ngày, phái đoàn cũng đã đến thăm Đức Tăng thống Thích Quảng Độ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Từ Hiếu- Sài Gòn. Vì lý do tế nhị nên thông tin này đã đến trễ 5 ngày so với sự kiện đã diễn ra. (Hình ảnh đại diện bà con dân oan VRLH chụp cùng Phái đoàn Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ. Từ trái qua phải: Ông Cao Hà Chánh, Phạm Thanh Nghiên, Cao Hà Trực, bà Anurima Bhargava- Uỷ viên, ông Dominic Nardi và bà Tina L. Mufford. #vuonraulochung Ha Chanh Cao, Hà Trực Nguồn tin; Phạm Thanh Nghiên Lộc Hưng 22/09/2019
......

Những “con sâu” trong Quốc hội Việt Nam: Họ là ai?

Ông Hồ Văn Năm, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai, bị tước tư cách Đại biểu Quốc hội khóa XIV ngày 18/09/19. Courtesy: chinhphu.vn RFA 7 ĐBQH bị bêu danh Báo Tiền Phong Online đăng tải thông tin trong 3 năm qua, kể từ đợt bầu cử ĐBQH Khóa XIV (nhiệm kỳ 2016-2021) đến thời điểm tháng 9 năm 2019 đã có 7 Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) bị miễn nhiệm, cho thôi làm ĐBQH, trong đó nhiều người bị kỷ luật hoặc vướng vòng lao lý. ông Đinh La Thăng Bảy vị ĐBQH được nêu danh bao gồm ông Võ Kim Cự (nguyên Chủ tịch Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam), ông Đinh La Thăng (nguyên Phó Ban Kinh tế Trung ương), ông Nguyễn Quốc Khánh (nguyên Chủ tịch Hội đồng Thành viên PVN), bà Phan Thị Mỹ Thanh (nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai), Thiếu tướng Lê Đình Nhường (nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh), ông Hồ Văn Năm (Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy Đồng Nai), ông Trịnh Xuân Thanh (nguyên Phó Chủ tịch Hậu Giang) và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hương (Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Đầu tư TNG Holdings Việt Nam). Đài RFA nêu câu hỏi với vài người từng tham gia ứng cử trong đợt bầu cử Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Khóa XIV hồi năm 2016 rằng họ đón nhận thông tin vừa nêu như thế nào và được cô Nguyễn Trang Nhung cho biết: Với thông tin đó thì tôi cũng không có gì bất ngờ. Nói chung, tôi tiếp nhận thông tin đó khá là bình thường. Tôi nghĩ có thể một phần họ không thực sự là do dân bầu lên cho nên không thật sự có trách nhiệm với người dân. Thêm nữa là họ cũng không đủ các phẩm chất cần thiết để đảm nhiệm các vị trí đại diện cho người dân, cho nên họ đã thể hiện ra những mặt xấu và do đó đã phạm phải những sai lầm như vậy Qua trao đổi với một số những người tự ra ứng cử ĐBQH và giới quan sát tình hình Việt Nam thì hầu hết đều cho rằng trong số gần 500 ĐBQH Khóa XIV không chỉ có 7 “con sâu” mà thôi, (“con sâu” ở đây được diễn giải theo như cách nói của nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang rằng “bầy sâu” thời ông tại vị đã sinh sôi không kiểm soát nổi). Tiến sĩ Phạm Chí Dũng còn nhắc lại người dân Việt Nam thường nói câu cửa miệng rằng “các đồng chí chưa bị lộ mà thôi”. Tuy nhiên, trước thông tin liên quan Báo Tiền Phong Online bêu danh 7 vị ĐBQH, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nhận định qua đó có thể thấy chiến dịch chống tham nhũng do Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát động dù sao cũng có dấu chỉ của sự tiến bộ. Tiến sĩ Phạm Chí Dũng lý giải về nhận định này của ông: “Nguyên nhân lớn nhất là xuất phát từ chiến dịch ‘đốt lò’ của ông Nguyễn Phú Trọng. Và, trong chiến dịch đốt lò này thì một trong những quan điểm mà ông Nguyễn Phú Trọng đưa ra là công khai thông tin về những trường hợp sai phạm nhưng tất nhiên trong thực tế không phải là công khai tất cả mà chỉ công khai một số trường hợp chọn lọc thôi. Vì thế, giới đại biểu quốc hội bị sai phạm cũng nằm trong chiến dịch công khai thông tin đó. Cho nên đó là lý do không thể bưng bít thông tin được như trước đây. Còn trước chiến dịch ‘đốt lò’ thì vẫn bưng bít thông tin. Thành ra nói gì thì nói cũng phải ghi nhận rằng đó là một cái nét dù sao cũng hơi hơi tiến bộ của chiến dịch ‘đốt lò’, chiến dịch được coi là chống tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng.” Nhà quan sát tình hình Việt Nam-Tiến sĩ Phạm Chí Dũng còn nhấn mạnh rằng ngày càng nhiều thông tin liên quan đến giới chức lãnh đạo, cán bộ trong bộ máy Nhà nước và ĐBQH sai phạm, tham nhũng…được các cơ quan truyền thông phổ biến rộng rãi trong công luận còn bởi yếu tố đấu đá nội bộ, vạch mặt và thanh trừng lẫn nhau. Quốc hội Việt Nam sẽ ra sao? Đài Á Châu Tự Do ghi nhận trong nhiều năm, không ít tiếng nói của dân chúng và giới đấu tranh dân chủ tại Việt Nam kêu gọi Chính phủ Hà Nội cho trưng cầu dân ý tự do. Một điểm son được quốc tế đánh giá có sự thay đổi qua đợt bầu cử tại Việt Nam hồi năm 2016 là có nhiều người dân chủ động tự ra ứng cử, dù biết rằng sự tham gia ứng cử của họ không đạt được kết quả nào. Cô Nguyễn Trang Nhung, người từng bị loại ngay từ vòng đầu tiên chia sẻ rằng với tình hình ngày càng có nhiều những “con sâu” là ĐBQH bị phanh phui và phơi bày thì cơ quan lập pháp của Việt Nam cũng sẽ không có gì thay đổi trong thời gian sắp tới: “Tôi không đặt niềm tin nhiều vào sự thay đổi của thể chế nói chung cũng như sự thay đổi của cơ quan lập pháp trong tương lai gần. Tuy nhiên tôi có hy vọng với mong muốn trong tương lai sẽ có sự thay đổi đáng kể, nhưng điều này sẽ phụ thuộc rất nhiều vào những người dân bình thường rằng là chúng ta có sẵn sàng thay thế những người đang ở trong cơ quan lập pháp mà không xứng đáng hay không và chúng ta có sẵn sàng là những người ra ứng cử và trở thành đại biểu quốc hội trong tương lai đại diện cho người dân hay không?” Trong khi đó, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng lại cho rằng sẽ có một sự thay đổi ở Quốc hội Việt Nam trong vòng 5 năm tới. Tiến sĩ Phạm Chí Dũng lập luận: “Không chỉ là hy vọng mà là quy luật và tin rằng chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai không xa, không tới 5 năm nữa đâu. Tại vì quy luật biến chuyển của chế độ từ toàn trị sang bán dân chủ và sau đó sang dân chủ thì sẽ bắt nguồn cơ bản từ cơ quan nghị viện, tức là cơ quan quốc hội, rồi sau đó mới lan dần sang bộ máy chính quyền, tức là bộ máy hành pháp và cuối cùng là bộ máy của đảng và bộ máy công an. Thế thì ở Việt Nam, theo tôi thì rất nhiều khả năng sẽ xảy ra những chuyển biến vận động thay đổi một cách mềm mại trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, phải tự biến chuyển, tự nó sẽ có một cuộc cách mạng trong một số năm nữa và cái nơi đầu tiên để xảy ra cuộc cách mạng đó là cơ quan quốc hội. Nếu như trước đây người dân, xã hội dân sự và giới đấu tranh dân chủ-nhân quyền tự ứng cử vào Quốc hội nhưng bị Nhà nước và Đảng cầm quyền gạt đi thì về sau này Đảng cầm quyền sẽ phải chấp nhận một tỷ lệ nhất định của thành phần ứng cử tự do tham gia vào Quốc hội.” Đồng quan điểm với Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, một số nhà quan sát tình hình Việt Nam khẳng định với RFA rằng họ có niềm tin một khi Đảng CSVN lãnh đạo chấp nhận một tỷ lệ nhất định của thành phần ứng cử tự do tham gia vào Quốc hội thì đó sẽ là tiền đề cho khởi sự đầu tiên của cơ chế dân chủ, át dần cơ chế toàn trị và sẽ dẫn tới một tương lai chắc chắn tốt đẹp hơn cho đất nước và người dân Việt Nam.  
......

Phản Khách Vi Chủ

Van Nga DO Trong khoảng thời gian 2 tháng 16 ngày Trung Quốc gây hấn trên Biển Đông, để đối phó với tình hình này thì tam trụ triều đình đã chia nhau hành động. Thông thường khi ngoại bang vô cớ gây hấn, thì chắc chắn những người có trách nhiệm cao nhất trong chính quyền sẽ họp nhau lại và bàn kế sách đối phó tình hình. ĐCS cũng không ngoại lệ, họ vẫn họp và phân công mỗi người thực hiện mỗi việc. Như ta biết, ngày 03/07 Trung Quốc kéo tàu đến Bãi Tư Chính thì ngày 08/07 bà Nguyễn Thị Kim Ngân lên đường sang Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình. Theo báo chí nhà nước nói thì mục đích của chuyến đi là “mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác trên các lĩnh vực, duy trì xu thế phát triển tích cực của quan hệ hai nước”. Nó đánh cướp nhà mình, nhưng mình sang nhà nó nâng cao quan hệ hợp tác. Đây là điều vô cùng phi lý. Còn nữa, ngày 28/07 ông Nguyễn Phú Trọng sau cả tháng vắng mặt đã xuất hiện đúng vào ngày thành lập công đoàn và cảnh báo toàn toàn đảng của ông rằng “Tăng cường sức đề kháng trước sự chống phá, xuyên tạc của thế lực thù địch”. Giặc vào nhà đánh cướp, Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước bảo đảng phải có cách đề phòng nhân dân. Đây không phải là cách hành xử của một người Việt Nam nắm quyền lãnh đạo có tinh thần lo cho dân cho nước, mà đây chính xác là cách hành xử của một thái thú. Trong tình hình Trung Quốc cho leo thang mối đe dọa ở Biển Đông thì ngày 04/09, ông Nguyễn Xuân Phúc trong một cuộc họp chính phủ đã phát biểu “Chúng ta đã kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng mọi biện pháp đối với các hoạt động của nước ngoài vi phạm chủ quyền trên biển của ta.” Kiên trì đấu tranh mà tên thằng cướp còn không dám xướng lên thì đấu tranh với ai? Hiện nay trên thế giới có tổng cộng 204 quốc gia và vùng lãnh thổ, từ “nước ngoài” mà ông Nguyễn Xuân Phúc đã đề cập trong phát biểu của ông là ám chỉ 203 nước kia à? Đây là một cách tránh né thể hiện sự khiếp nhược hoặc là cách xưng hô của một thần dân thiên triều để tránh phạm úy. Với hành động của 3 người đứng đầu bộ máy chính quyền CSVN thì Bắc Kinh sẽ thấy rằng “À! Mình đánh nó thì nó ôm chân mình xin nâng cao mối quan hệ. Mình đánh nó thì nó sẽ giương súng vào dân nó. Mình đánh nó thì nó đổ lỗi chung cho 203 nước chứ nó không dám đổ lỗi cho mình”. Và kết quả là, ngày 18/09 người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc – Cảnh Sảng đã nói rằng “Việt Nam vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của Trung Quốc”. Qua đây chúng ta thấy rằng, với kết quả được dọn đường từ tam trụ triều đình của ĐCSVN, thì phía Trung Quốc đã tận dụng ngay và luôn. Họ đã biến từ thế thằng cướp thành thế thằng chủ nhà, và đẩy Việt Nam từ thế chủ nhà thành thân phận kẻ cướp. Như vậy, rõ ràng là giữa tam trụ triều đình CSVN và phía Bắc Kinh đang có sự phối hợp rất nhịp nhàng để biến khách thành chủ. Đây là kế thứ 30 trong Binh Pháp Tôn Tử - kế Phản Khách Vi Chủ. Thực ra, với cách chuẩn bị đối phó với ngoại xâm như ĐCSVN đang làm nó cho ta thấy một hình ảnh rất quái lạ. Với tư cách là những người xem Việt Nam là tổ quốc, thì không ai chia nhau hành động như vậy cả. Chuyến thăm của bà Nguyễn Thị Kim Ngân được truyền thông xây dựng thành hình ảnh là sang đấy để “nâng cao mối quan hệ”. Điều này rõ ràng ai cũng thấy nó vô cùng phi lý. Nó đánh mình mà mình sang “nâng cao mối quan hệ” là sao? Chính vì thế, tôi cho rằng chuyến đi của bà Nguyễn Thị Kim Ngân là có ý nghĩa khác chứ không phải mục đích “nâng cao mối quan hệ”. Như vậy câu hỏi đặt ra là, thực chất hành động của bà Ngân như thế nào mới hợp lý? Theo tôi nghĩ, rất có thể thể là sau khi Biển Đông dậy sóng, bà Ngân được Bộ Chính Trị phân công sang Bắc Kinh xin kế sách đối phó với nhân dân Việt Nam. Và với mục đích như vậy, khi ghép với phản ứng của ông Trọng và ông Phúc sau đó cho thấy, 3 hành động này mới khớp nhau một cách lạ kỳ. Đã 2 tháng nay tôi vẫn nghĩ vậy, nay tôi muốn đưa ra cách lý giải này để cho mọi người nghiệm lại nó có hợp lý hay không. Để đánh giá đúng bản chất của CS thì vẫn phải theo lời của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu thôi, “đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn những gì Cộng Sản làm". Dựa vào đó thì mới hiểu đúng về CS. Trong vấn đề này, chỉ cần chỉnh lại ý nghĩa chuyến đi của bà ngân thì liền có một bức tranh hiện ra. Bức tranh ấy nó đã mô tả rằng, chính quyền Hà Nội đích thị là một đại lý của ĐCS Trung Quốc tại Hà Nội. Tất cả chỉ là việc tung hứng giữa thằng chủ và thằng làm thuê một cách nhịp nhàng để qua mặt nhân dân Việt Nam mà thôi. CS thật đáng sợ! -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://www.voatiengviet.com/a/b%E1%BA%AFc-kin…/5089253.html Van Nga DO
......

Thế lực thù địch là ai?

Ngô Trường An   Hàng chục năm qua, đảng CSVN cứ ra rả tuyên truyền: "Bọn thế lực thù địch luôn luôn chống phá đảng, nhà nước VN". Bla bla... Họ rêu rao như thế ở khắp nơi:Trong hội nghị, trong diễn đàn, trong các cuộc họp báo, trong giáo dục, trên truyền thông .... Nhưng có một điều, họ không đưa ra dẫn chứng cụ thể thế lực thù địch đó là ai, tổ chức đó tên gì, hoạt động ở đâu, người cầm đầu tên gì, họ chống phá đảng - nhà nước với mục đích gì, kinh phí hoạt động của tổ chức chính trị này ở đâu mà có v.v.... Đảng khẳng định thế lực thù địch luôn luôn chống phá trong hàng chục năm qua. Vậy, nhà nước, nhân dân ta đã bị thiệt hại những gì do sự chống phá của họ? Thiệt hại bao nhiêu tài nguyên, khoáng sản? Tổn hại bao nhiêu nhân mạng? Thất thoát bao nhiêu ngàn tỷ? Dân bị cướp hết bao nhiêu đất? Lãnh hải bị mất bao nhiêu cây số vuông ??? Đó, đảng phải đưa ra những thiệt hại cụ thể do bọn thế lực thù địch chống phá thì dân mới tin. Còn không, đây chỉ là luận điệu vu vạ, chỉ lừa được những kẻ ngu học và bọn dư luận viên dốt nát mà thôi. Là người dân, tôi chưa thấy bọn thế lực thù địch nào chống phá, mà chỉ thấy các lãnh đạo cấp cao của đảng CHỐNG lại sự phát triển của đất nước và PHÁ hoại sự hưng thịnh đất nước thì nhiều vô kể. Xin dẫn chứng vài trường hợp sau đây: - Ủy ban nhân dân TP HCM âm mưu sửa bản đồ quy hoạch khu đô thị Thủ Thiêm. Ăn cướp của dân Thủ Thiêm hàng trăm ngàn m2 đất, đẩy hàng ngàn hộ dân ra đường sống cảnh màn trời chiếu đất suốt mấy chục năm trời. Đây có phải là cán bộ, ủy viên trung ương đảng, ủy viên bộ chính trị phá hoại sự ổn định của đất nước không? - UBND TP Đà Nẵng bè phái móc ngoặc với Vũ Nhôm chiếm dụng hàng ngàn m2 đất đô thị, gây thất thoát cho ngân sách nhà nước hơn 20 ngàn tỷ đồng. Đây có phải những đảng viên cấp cao của đảng chống lại sự phát triển của đất nước không? - Lãnh đạo cấp cao bộ Thông Tin Truyền Thông móc ngoặc với Phạm Nhật Vũ ăn chia trong vụ AGV gây thất thoát cho ngân sách đến 7.000 tỷ đồng. Đây cũng là hành động chống lại sự phát triển của đất nước, đúng không? - Lãnh đạo cấp cao bộ công an tổ chức đánh bạc trên mạng. Điều này gây ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của hàng triệu gia đình có người tham gia đánh bạc trong đường dây của lãnh đạo công an. Đây là 1 hành vi phá hoại sự hưng thịnh của đất nước, gián tiếp gây ra nạn trộm cắp, cướp của giết người trên phạm vi cả nước. - Chính quyền tỉnh Hà Tĩnh tự ý cho Formosa thuê đất đến 70 năm, tiếp tay cho nó xả độc hủy hoại môi trường. Chính quyền tỉnh Bình Định độc quyền ký bán cảng biển Quy Nhơn với giá rẻ mạt. Chính quyền tp Hà Nội làm ngơ để bọn cơ hội phá rừng phòng hộ Sóc Sơn xây hàng trăm nhà nghỉ dưỡng, hàng chục biệt thự, hàng nghìn hồ bơi. Chính quyền Đồng Nai cho bọn lợi ích lấp sông phân lô bán nền. Chính quyền Bình Thuận cho phép đổ hàng nghìn tấn chất thải xuống biển với xảo ngữ "nhận chìm vật chất"...... Ôi thôi, thôi!!! Nói về sự phá hoại đất nước và ăn cắp của công chống lại sự phát triển của đất nước thì nhìn đâu cũng thấy, địa phương nào cũng có, bộ ngành nào cũng có. Nhưng ngặt nỗi, tất cả sự chống phá này đều do đảng viên cộng sản gây ra, chứ chẳng có bọn thế lực thù địch nào trong đó cả. Là người dân, tôi nhận thấy như vậy là đúng hay sai? Nếu, đảng không nêu đích danh bọn thế lực thù địch là ai, bọn họ chống phá cụ thể những gì, mà cứ nói chung chung, mơ hồ như thế. Thì buộc lòng nhân dân chúng tôi phải nghĩ, bọn thế lực thù địch chính là các quan chức nhà nước. Vì, ngoài bọn quan chức ra, chẳng có ai đủ khả năng chống phá đất nước này. FB Ngô Trường An  
......

Tuyên bố ngang ngược của Bác Kinh cấm Việt Nam khai thác dầu khí Bãi Tư Chính

Le Anh   Hôm thứ Tư ngày 18 tháng 9, 2019, trong một cuộc họp báo, Phát ngôn nhân của Bộ ngoại Giao Trung Quốc, ông Cảnh Sảng đã tuyên bố lếu láo, yêu cầu Việt Nam phải chấm dứt dừng hoạt động dầu khí ở Bãi Tư Chính ngay lập tức, sau khi Việt Nam lên tiếng phản đối các tàu nghiên cứu Trung Quốc đã xâm phạm quyền tài phán của Hà Nội ở Biển Đông lần thứ 3. "Việt Nam đã đơn phương tiến hành các hoạt động khai thác dầu khí từ tháng Năm tới nay, và việc này vi phạm nghiêm trọng các quyền và lợi ích của Trung Quốc, đồng thời vi phạm các thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam," ông Cảnh Sảng nói trong đoạn băng do kênh truyền hình chính thức phát bằng tiếng Anh của nhà nước Trung Quốc, CGTN, đăng tải. Ông Sảng còn cho rằng, các hoạt động của Trung Quốc trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc ở Biển Đông là hợp pháp, chính đáng và không phải bàn cãi. Ông còn nói: “Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường sa, và quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển Bãi Tư Chính thuộc quần đảo” Qua những lời lộng ngôn của ông Cảnh Sảng cho thấy, Bắc kinh muốn xác định một lần nữa, Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung Quốc, và nếu không tranh được cũng sẽ buộc Việt Nam hợp tác chia sẻ việc khai thác? Sau lời tuyên bố của ông Sảng đã làm cho dư luận Việt Nam càng phẫn nộ hơn khi thấy Bắc kinh ngày càng ngang ngược. Điều đó đã dẫn đến tình hình tại Bãi Tư Chính căng thẳng hơn. Cũng trong ngày 18 tháng 9, nhà ngoại giao cao cấp nhất của Mỹ về các vấn đề Châu Á, Ông David Stilwell đã lên án “các hành vi đe dọa, bắt nạt” của Trung Quốc đối với Việt Nam và các nước ASEAN trước một ủy ban của Thượng viện Hoa Kỳ. Ông nói: “Bằng việc lặp lại các hành động bất hợp pháp và quân sự hóa các đảo, bãi đá đang tranh chấp, Bắc Kinh đã và đang tiếp tục ngăn chặn các thành viên ASEAN tiếp cận các trữ lượng năng lượng trị giá hơn 2,5 nghìn tỷ đô la.” “Tàu Trung Quốc đã thực hiện các cuộc khảo sát hàng hải gần Bãi Tư Chính với các tàu hải cảnh và lục lượng dân quân biển để đe dọa Việt Nam và các nước ASEAN khác, răn đe họ chớ tiếp tục phát triển các nguồn dầu khí trên Biển Đông.” Được biết, Việt Nam đã và đang hợp tác với một số đối tác đang có những hoạt động thăm dò lượng dầu khí tại Bãi Tư Chính, nơi mà Trung Quốc cho rằng, có tiềm năng dầu khí rất lớn tại Biển đông. Đó là lý do mà Trung Quốc luôn khẳng định Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trong thời gian qua, khi tình hình căng thẳng bắt đầu leo thang kể từ tháng 7 tại Bãi Tư Chính, Bộ ngoại giao CSVN đã liên tục phản đối qua phương thức ngoại giao, đã không làm cho Bắc kinh quan ngại. Nói đúng hơn là Bắc kinh xem thường những phản đối của CSVN. Chính vì thế, cứ sau mỗi lần phản đối của Việt Nam thì Bắc kinh càng có những động thái ngang ngược lấn tới. Có lẽ Bắc kinh cho rằng, nhà cầm quyền CSVN sẽ không bao giờ dám đối đầu công khai trực diện với họ, vì Bắc kinh đã nắm được những bí mật mờ ám của lãnh đạo Việt Nam trong quá khứ??? Cho đến giờ này, vẫn chưa thấy Việt Nam lên tiếng hoặc có động thái nào phản bác tuyên bố trên. Có phải nhà cầm quyền CSVN đang bị bế tắc, không có giải pháp ngăn chặn sự ngang ngược của Bắc kinh? Lê Ánh  
......

Liên Hiệp Quốc: Việt Nam đàn áp, trả thù những nhà hoạt động nhân quyền

 RFA| Một báo cáo mới của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc nhận định chính phủ Việt Nam đang tiến hành các hoạt động trả thù qua đàn áp, đe dọa đối với các nhà hoạt động nhân quyền, và gia đình họ, tìm cách ngăn chặn họ tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc. Thông cáo báo chí của Văn Phòng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc cho biết như vậy hôm 19 tháng Chín. Thông cáo cho biết báo cáo này sẽ được trình bày tại Hội Đồng Nhân Quyền ở Geneva, Thụy Sĩ vào cùng ngày. Báo cáo nhận định tình trạng trả thù các nạn nhân, các thành viên của xã hội dân sự đang tăng lên ở nhiều quốc gia, phản ánh qua số các trường hợp được báo cáo tăng lên trên toàn cầu. Báo cáo dựa trên thống kê ở gần 50 nước. Trong phần phụ lục Việt Nam của báo cáo, Liên Hiệp Quốc đã nói đến từng trường hợp cụ thể ở Việt Nam từ năm 2018 đến nay. Cụ thể, trường hợp của 5 người Thượng ở Tây Nguyên đã bị tra tấn, thẩm vấn vì các hoạt động tôn giáo và sử dụng mạng xã hội, bị cấm không được báo cáo với các tổ chức nhân quyền quốc tế. Chính phủ Việt Nam nói rằng những người Thượng này đã tuyên truyền thông tin bịa đặt về chính sách của nhà nước, nói xấu chính phủ. Báo cáo cũng đề cập đến trường hợp của bà Nguyễn Thị Kim Thanh, vợ của tù nhân lương tâm Trương Minh Đức. Bà Thanh đã bị trả thù vì tham gia vào phiên Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát về Việt Nam (UPR) ở Geneva hôm 21 tháng Giêng năm nay. Bà đã bị an ninh giam giữ và thẩm vấn ở sân bay TP. HCM sau khi trở về nước và bị cấm xuất cảnh sau đó vì lý do an ninh quốc gia. Bà Nguyễn Thị Kim Thanh và Nguyễn Thị Quý góp mặt trong các buổi tiếp xúc Văn Phòng Cao Ủy Nhân Quyền LHQ (OHCHR) và các đại diện tại LHQ của Cộng Hòa Séc, Na Uy, Đức trước phiên Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát về Việt Nam (UPR) ở Geneva hôm 21 tháng Giêng 2019. Bà Bùi Thị Kim Phương, vợ tù nhân lương tâm Nguyễn Bắc Truyển, theo báo cáo, cũng bị chính quyền cấm xuất cảnh sang Geneva để trình bày về tình trạng của chồng mình. Tường thuật Hội thảo trước ngày kiểm điểm UPR kỳ 3 của CSVN tại Geneva UPR 2019: Ngày vận động các Phái bộ Thường trực các quốc gia và các Đại diện Văn phòng Báo Cáo Viên Đặc biệt LHQ tại Geneva Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cũng đề cập đến trường hợp của ông Nguyễn Văn Ân thuộc giáo xứ Kẻ Gai. Ông Ân bị truy nã vì đã tường trình một vụ bao lực xảy ra vào tháng Mười Hai, 2017 có liên quan đến Hội Cờ Đỏ, và báo cáo lên Đặc Phái Viên của Liên Hiệp Quốc về Tự Do Tôn Giáo và Tín Ngưỡng vào tháng Hai, 2018. Liên Hiệp Quốc nhận định việc chính phủ nhiều quốc gia sử dụng lý do an ninh quốc gia và chống khủng bố để ngăn cản những nhà hoạt động tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc. Trợ lý của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền Andrew Gilmour cho biết một số các trường hợp bị chính quyền đe dọa, sách nhiễu sẽ được trình bày tại phiên hỏi đáp với các quốc gia thành viên vào ngày 19 tháng Chín. Ông Gilmour được thông cáo trích lời nói rằng “các quốc gia thành viên cần phải chịu trách nhiệm về các hành động của mình và phải có đền bù khi có hành động trả thù xảy ra”.    
......

Mặt trận Tổ quốc phải có tiếng nói bảo vệ chủ quyền VN trên biển Đông

Chuân Đô đốc ông Lê Kế Lâm phát biểu tại phiên họp. RFA| Nhiều ý kiến thẳng thắn của các đại biểu được nêu ra trong phiên họp ngày thứ nhất Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019-2024 diễn ra vào chiều ngày 18/9 tại Hà Nội, về báo cáo kiểm điểm của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQ) khóa VIII. Trong đó, phần đông cho rằng, MTTQ chưa bày tỏ thái độ chính kiến trước một số vấn đề cấp bách mà xã hội quan tâm thời gian gần đây, đặc biệt là tình hình căng thẳng biển Đông. Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm, Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ VN cho rằng, tình hình biển đảo Việt Nam hiện nay không yên ổn và đang khá sôi sục nhưng trong báo cáo kiểm điểm của Đoàn Chủ tịch MTTQ không đề cập đến và ông đề nghị MTTQ cần quan tâm đến biển đảo, đưa vấn đề biển đảo vào báo cáo kiểm điểm. Đài Á Châu Tự Do hôm 19/9 đã liên lạc với Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm và có cuộc trò chuyện nhanh liên quan đến chất vấn của ông và được ông trả lời: Lê Kế Lâm: “Phát biểu của tôi căn cứ vào nguyện vọng của nhân dân và tình hình thực tế diễn biến trên Biển Đông trong những ngày gần đây phức tạp. Tôi thấy trong báo cáo có nêu nhưng ít quá, chưa đủ mức độ của nó nên tôi có chất vấn. Tôi có đề nghị cần làm rõ vấn đề này, sau đó nhiều người ủng hộ tôi nói rằng là anh nói lên như vậy là sự thật lịch sử, sự thật trên biển Đông và rõ ràng toàn dân quan tâm.” RFA: Thưa Chuẩn Đô đốc, vậy ông nghĩ vai trò của MTTQ trong vấn đề này như thế nào? Lê Kế Lâm: Mặt trận cũng như đoàn thể quần chúng xung quanh Mặt trận thì đều một lòng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tất cả quyền lợi của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam, trên không, trên đất liền cũng như trên biển. Do đó, mặt trận là họ quan tâm toàn diện, quan tâm đến đời sống, vật chất tinh thần của nhân dân vào sự phát triển của đất nước, thì tất nhiên trong vấn đề biển đảo cũng có nêu đến chứ không phải là không nêu. RFA: Cũng liên quan Biển Đông, Mặt trận tổ quốc phải đóng vai trò người trong cuộc chứ không phải là một quan sát viên? (theo ý kiến của đại biểu Vũ Trọng Kim, Ủy viên Đoàn Chủ tịch nêu trong Hội nghị Đoàn chủ tịch lần thứ 17 diễn ra trong tháng 7 vừa qua ), ông nghĩ sao về ý kiến này?. Tại sao sau kiến nghị của ông Kim, trong báo cáo lần này của MTTQ vẫn không nhắc đến vai trò của MTTQ về Biển Đông? Lê Kế Lâm: Quyền đó là của đoàn chủ tịch và của lãnh đạo Mặt trận, còn nhân dân thì có quyền nói lên bức xúc của nhân dân. Tất nhiên, mặt trận là đại diện cho toàn dân nên mặt trận cần phải có tiếng nói thỏa đáng trong mọi vấn đề của đất nước của dân tộc. Tôi nghĩ trước sau gì thì Mặt trận cũng thể hiện quyết tâm của mình mà đó cũng là quyết tâm của toàn dân. RFA: Đối với kiến nghị lần này của ông sẽ thế nào, thưa ông? Lê Kế Lâm: Chiều nay có chia tổ để thảo luận thì cũng có nhiều đại biểu bức xúc nói về vấn đề này. Tôi hoàn toàn đồng tình và có kiến nghị rằng, trong lời kêu gọi của nhân dân cũng như trong nghị quyết là phải có vấn đề về Biển Đông, đặc biệt là trong tình hình hiện nay thì nên nói cho đúng mức độ và thỏa đáng với nguyện vọng và mong ước của nhân dân. RFA: Thưa ông, trong tình huống xấu nhất, kiến nghị của ông vẫn không được lắng nghe, ông có thể chia sẻ việc tiếp tục lên tiếng ra sao với tư cách là một người sĩ quan Hải quân trước tình thế ở Biển Đông hiện nay? Lê Kế Lâm: Nói thật rằng tôi tin là sẽ không có vấn đề gì đâu, có thể lúc này chưa nói được thì sẽ nói vào lúc khác nhưng có một cái nhất quán là mặt trận dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ là chỗ dựa của nhân dân trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nhân dân Việt Nam trên Biển Đông theo luật quốc tế năm 1982. Việc này sớm muộn gì người ta cũng biểu thị tùy theo tình hình phát triển xấu hay không xấu trên biển và sẽ có thái độ đúng mực mà thôi. RFA: Ông có gặp gỡ những vị khác để cùng bàn bạc về tình thế hiện nay và nhận được những ý kiến gì không, thưa ông? Lê Kế Lâm: Có chứ, ngoài giờ trong lúc giải lao tôi có gặp và trao đổi nhiều. Tôi cũng nói với cả những người có trách nhiệm trong đoàn chủ tịch, cũng như trong thường trực của mặt trận. Tôi phản ảnh lên nguyện vọng của nhân dân và đề nghị nên có lời tuyên bố có mức độ để người dân tin tưởng cũng như kêu gọi sự đoàn kết của toàn dân trong nhiệm vụ đấu tranh để bảo vệ mọi quyền lợi của nhân dân trên không, trên đất liền cũng như trên biển và phù hợp với luật pháp quốc tế, phù hợp với thực tế lịch sử Việt Nam. RFA: Đảng CSVN vừa là tổ chức thành viên vừa lãnh đạo MTTQVN theo Cương lĩnh, Hiến pháp và Luật MTTQ VN, trong khi đó MTTQ là đại diện cho dân nên phải thể hiện được những yêu cầu cấp thiết trong việc bảo vệ vững chắc lãnh thổ của tổ quốc. Theo ông MTTQ cần phải làm gì hiện nay để thể hiện rõ trách nhiệm của tổ chức? Lê Kế Lâm: Họ đương làm đó thôi, đang lãnh đạo toàn dân tập hợp, kết nối, bắc cầu giữa lãnh đạo với nhân dân và mọi thành phần trong nhân dân để thực hiện nhiệm vụ Chính trị và làm sao cho Việt Nam theo lời di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh là phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. RFA: Vậy theo Chuẩn Đô đốc, MTTQ cần phải cải tổ ra sao để có thể phát huy được sức mạnh của toàn dân như yêu cầu đề ra; đặc biệt trong tình hình hiện nay? Lê Kế Lâm: Cái này báo chí trên đài sẽ công bố về phương hướng hoạt động của Mặt trận trong nhiệm kỳ IX, có nói rõ vấn đề cần làm như thế nào, chương trình hành động ra sao, giải pháp thế nào. Theo dõi trên đài báo Việt Nam cũng như sẽ có website của Mặt trận dịch ra tiếng nước ngoài. RFA: Xin cảm ơn Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm đã dành cho chúng tôi cuộc trò chuyện hôm nay.  
......

Tội phạm người Trung Quốc xem Việt Nam là thiên đường để phạm tội

Le Anh Thời gian qua, truyền thông trong nước đưa tin liên quan đến nhiều sự kiện phạm tội do người Trung Quốc gây nên. Tình trạng phạm tội của người Trung Quốc ngày càng gia tăng đang làm cho nhiều người lo lắng. Chỉ trong vòng vài tháng trở lại đây, Việt Nam đã công bố về những đường dây phạm tội đã bị công an triệt phá. Những sự kiện dưới đây cho thấy tình trạng người Trung Quốc phạm tội tại Việt Nam đã đến mức báo động. - Tháng 4-2019, lực lượng chức năng Công an Nha Trang đã bắt 70 người Trung Quốc nghi dùng công nghệ cao để lừa đảo. Họ mạo danh nhà chức trách, điện thoại khống chế, đe dọa, ép buộc người khác chuyển tiền vào tài khoản của mình ... - 6/6/2019, tại Quảng Ninh, Tp Đà Nẵng và Khánh Hòa, lực lượng chức năng bắt quả tang 77 người Trung Quốc sử dụng công nghệ cao để tổ chức đánh bạc xuyên quốc gia tại 18 địa điểm. - 5/7/2019, một nhóm người Trung Quốc xăm trổ đầy mình cầm theo dao bản lớn xông vào khu vực karaoke của một tòa nhà tập trung đông du khách nhất ở Nha Trang và đã dẫn đến 1 người bị tử vong. - 28/7/2019, thông tin ban đầu từ cơ quan công an cho biết đã tạm giữ 380 đối tượng, đều là người Trung Quốc, tham gia điều hành các trang web, tổ chức cho chính công dân Trung Quốc đánh bạc trực tuyến, với các hình thức cá cược thể thao, dự đoán kết quả xổ số, lô đề … - 1/8/2019, 3 người Trung Quốc đã ra tay sát hại một tài xế taxi Việt Nam tại Lạng Sơn. - 26/8/2019, Công an tỉnh Quảng Ninh bắt giữ 28 người Trung Quốc phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng cùng nhiều tang vật liên quan. - 11/9/2019, một đường dây sản xuất ma túy được gọi là “cực lớn” do nhóm người Trung Quốc cầm đầu ở tỉnh Bình Định đã bị Công an Việt Nam triệt phá. Bốn người Trung Quốc liên quan đến đường dây này bị xử phạt hành chính về “hành vi cư trú bất hợp pháp với số tiền 95 triệu đồng”. Và mới đây, ngày 14 tháng Chín, 2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng bắt khẩn cấp và tạm giam 5 người Trung Quốc và một người Việt Nam (phiên dịch) vì có hành vi lôi kéo các cô gái trẻ, trong đó có cô gái mới 15 tuổi, để quan hệ tình dục và quay clip sex bán trên mạng xã hội. Ngoài ra còn nhiều vụ khác liên quan đến đường dây ăn cắp đồ trên máy bay và đột nhập cướp tài sản doanh nghiệp … Trước các tình trạng tội phạm Trung Quốc ngày càng gia tăng không có điểm dừng, đã làm cho nhiều người lo lắng nghĩ rằng, những người Trung Quốc phạm tội tại Việt Nam không bị xử lý, nếu có bị xử phạt chỉ là rất nhẹ, điển hình là vụ người Trung Quốc sản xuất ma túy chỉ bị phạt hành chính 95 triệu. Hoặc trường hợp tệ nhất là bị dẫn độ về Trung Quốc. Chính vì thế, tội phạm Trung Quốc có thể xem Việt Nam là một trong những thiên đường để phạm tội mà không hề sợ hãi vì luật pháp Việt Nam lỏng lẻo, không rõ ràng về những trường hợp do người nước ngoài phạm tội. Một số chuyên gia về luật pháp nhận định rằng, hiệp ước dẫn độ Việt-Trung sẽ thu hút nhiều người Trung Quốc qua Việt Nam phạm tội. Việt Nam có nguy cơ trở thành điểm đến của tội phạm người Trung Quốc. “Để đảm bảo chủ quyền và luật pháp được thực hiện nghiêm minh thì tội phạm xảy ra trên đất nước Việt Nam cần phải được xử lý bằng pháp luật Việt Nam,” Theo Ls Hà Huy Sơn. Được biết, ngày 26 tháng Tám, 2019, Tân Hoa Xã của Trung Quốc loan tin về việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc, cơ quan lập pháp hàng đầu của Bắc Kinh đã phê chuẩn hiệp ước dẫn độ nghi phạm với Việt Nam. Lê Ánh
......

Tuyên bố mới về Chương Trình TRI ÂN TPB-VNCH

Kính thưa quý ông bà TPB-VNCH cùng quý vị ân Nhân đã từng trợ giúp Chương Trình TRI ÂN TPB-VNCH, Chúng tôi là các tu sĩ, linh mục DCCT cộng đoàn Cần Thạnh, Nhà Cần Giờ. Chúng tôi xác tín lẽ sống của đời mình là những lời này của Chúa Giê-su Ki-tô: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức.” (Lc 4,18) và “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất đây, là các ngươi không làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40) Trong tinh thần và mục tiêu phát triển con người toàn diện của Giáo Hội Công Giáo toàn cầu, chúng tôi muốn tiếp tục lựa chọn tinh thần TRI ÂN đối với TPB-VNCH, vì chúng tôi nghĩ rằng sự đồng hành của chúng tôi bên cạnh quý vị không chỉ là một việc trợ giúp về mặt vật chất, mà còn muốn nói với mọi người, ít nhất là với những ai đã từng thụ hưởng hoạt động phụng sự của quý vị, rằng chúng tôi BIẾT ƠN quý vị, vì quý vị đã gìn giữ hòa bình và an ninh cho chúng tôi đến mức độ hy sinh một phần thân thể. Tinh thần biết ơn đầy nhân văn và đề cao nhân phẩm, cần được giáo dục cho các thế hệ trẻ, nhằm sửa chữa phần nào nền giáo dục suy đồi hiện nay. Cụ thể, với Tuyên bố này, chúng tôi bắt đầu Chương trình trợ giúp quý ông bà TPB-VNCH. Bởi vì chúng tôi nghĩ rằng: 1/ Đây là một trong những cách thức để chúng tôi sống sứ vụ thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế, theo đặc sủng của Thánh Tổ An-phong-sô, Đấng Sáng Lập DCCT. Đó là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho những người nghèo bị bỏ rơi hơn cả. 2/ Chúng tôi nhận ra quý ông bà TPB-VNCH chính là hiện thân của Đức Ki-tô nghèo khó vốn là cùng đích tối hậu của sứ vụ chúng tôi. Quý vị đã bị loại trừ, bị bỏ rơi, bị khinh khi một cách bất công và phi nhân suốt bốn mươi bốn năm qua. Và hơn nữa, thời gian còn lại của quý vị trên cõi đời này không còn nhiều. Mỗi năm qua đi, càng có nhiều ông bà rời bỏ chúng tôi để về với Chúa. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tiếp nhận và phục vụ quý ông bà TPB-VNCH sinh sống ngoài vùng Sài Gòn. Quý vị thuộc vùng Sài Gòn, xin vui lòng liên lạc với quý cha DCCT Sài Gòn. Quý vị ân nhân nào muốn cùng chúng tôi trợ giúp các ông bà TPB-VNCH theo tinh thần Tri ân TPB-VNCH, xin liên lạc với linh mục Giu-se Trương Hoàng Vũ. Xin Thiên Chúa chúc lành và ban bình an cho quý vị cùng toàn thể gia quyến. Sài Gòn, ngày 19 tháng 09 năm 2019 TM. Cộng Đoàn Ký tên Giuse Hồ Đắc Tâm --- NB.: Lm. Giuse Trương Hoàng Vũ SĐT: 093 200 8601 ĐC: Nhà thờ Cần Giờ, số 183/2 Đào Cử, TT. Cần Thạnh, H. Cần Giờ, Tp. HCM. Con cảm ơn quý cha đã tiếp tục công việc này. Chúng ta hãy cùng đồng hành và tri ân Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa.  
......

Các báo lớn ở Việt Nam ‘né’ tin Joshua Wong điều trần trước Quốc Hội Mỹ

Bản tin trên báo điện tử Một Thế Giới. (Hình chụp qua màn hình) SÀI GÒN, Việt Nam (NV)| Nếu chỉ theo dõi các báo lớn ở Việt Nam hôm 18 Tháng Chín mà không đọc các báo tiếng Việt ở hải ngoại, người đọc trong nước sẽ không biết đến sự kiện Joshua Wong, lãnh đạo phong trào Dù Vàng, tổng thư ký đảng Demosito, vừa điều trần trước Quốc Hội Mỹ vào nửa đêm (giờ Việt Nam). Đây là sự kiện mà tất cả các hãng truyền thông uy tín hàng đầu của thế giới như CNN, BBC, Reuters, RFA, AFP, AP… đều tường thuật cặn kẽ, thậm chí phát video trực tiếp để người đọc tiện theo dõi và bình luận. Theo tìm hiểu của Người Việt, gần như chỉ có báo Phụ Nữ TP.HCM hôm 18 Tháng Chín đăng bài “Hoàng Chí Phong [Joshua Wong] điều trần trước Quốc Hội Mỹ” với nội dung: “Hoàng Chi Phong, người đã trở thành gương mặt đại diện của các cuộc biểu tình, nói: “Bắc Kinh không nên chiếm lấy cả hai ưu thế, gặt hái tất cả những lợi ích kinh tế của Hồng Kông trên thế giới trong khi xóa bỏ bản sắc xã hội chính trị của chúng tôi. Như tôi đã nói, Hồng Kông đang đứng trước một thời điểm quan trọng. Mối đe dọa chưa bao giờ cao như thế.” Hoàng Chí Phong bày tỏ lo ngại rằng Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có thể quyết định hành động mạnh mẽ hơn trước lễ kỷ niệm 70 năm Quốc khánh Trung Quốc vào ngày 1 Tháng Mười. “Việc Bắc Kinh gửi binh đoàn xe tăng đến thành phố thiếu cơ sở thuyết phục, nhưng không gì là không thể,” tờ báo của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ thành phố ở Sài Gòn dẫn lời anh Joshua Wong. Bản tin trên báo Phụ Nữ TP.HCM hôm 18 Tháng Chín. (Hình chụp qua màn hình) Bài báo của Phụ Nữ TP.HCM được cho là “can đảm” trong bối cảnh các báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Zing, Người Lao Động, Pháp Luật TP.HCM, VietnamNet… đều chọn cách né tránh đăng tin về sự kiện “nhạy cảm, có thể khiến nhà cầm quyền Trung Cộng” phật ý như thế này. Ngay cả tờ báo điện tử VnExpress, vốn luôn miêu tả Joshua Wong một cách xách mé là “thủ lĩnh ô dù Hồng Kông” cũng không cập nhật tin Joshua Wong điều trần trước Quốc Hội Mỹ, dù trước đó liên tục đưa tin về việc anh này bị bắt rồi được thả… Như vậy có thể thấy, trong bối cảnh Việt Nam và Trung Cộng đang xảy ra căng thẳng ở bãi Tư Chính, các báo nhà nước tuy được “bật đèn xanh” lên án các hành vi của Trung Cộng ở Biển Đông, nhưng cũng nhận lệnh “im tiếng” về sự kiện anh Joshua Wong điều trần trước Quốc Hội Mỹ. Đáng lưu ý, tám ngày trước, khi anh Joshua Wong đến Đức gặp ông Heiko Maas, ngoại trưởng nước này, để vận động sự ủng hộ của phương Tây đối với công cuộc đấu tranh vì dân chủ của người biểu tình Hồng Kông, các báo như Tiền Phong chỉ đưa tin theo kiểu: “Bộ Ngoại Giao Trung Quốc gửi phản đối mạnh mẽ đến Đức vì cuộc gặp giữa ngoại trưởng Đức với một nhà hoạt động Hồng Kông”. Quan điểm đưa tin về Joshua Wong và biểu tình ở Hồng Kông của các báo nhà nước ở Việt Nam được ghi nhận hoàn toàn “nhất quán” với chủ trương của Thông Tấn Xã Việt Nam. Trong các bản tin gần nhất về chuyện người dân Hương Cảng xuống đường phản đối nhà cầm quyền CSTQ và dự luật Dẫn Độ, Thông Tấn Xã Việt Nam đều mô tả: “Mặc dù cuộc biểu tình đã bị cảnh sát từ chối cấp phép, nhưng những người biểu tình vẫn ra đường tuần hành và có những hành động quá khích khiến đặc khu này tiếp tục phải hứng chịu những ảnh hưởng nặng nề.” (T.K.)  
......

Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ (USCIRF) gặp gỡ HĐLT Việt Nam

Sáng nay 18.9.2019, Đoàn Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ (USCIRF) gặp gỡ HĐLT Việt Nam tại Chùa Giác Hoa, Sài Gòn. Paul Loc| Trong phần trình bày tôi có nêu lên một số vấn đề: - Tự do tôn giáo cho các tù nhân, các linh mục được thăm gặp và làm mục vụ cho các tù nhân... - Nhà cầm quyền can thiệp quá sâu việc bổ nhiệm các chức sắc (cụ thể là bổ nhiệm các giám mục, thuyên chuyển các chức sắc ...), can thiệp vào những sinh hoạt tôn giáo... - Hạn chế, sách nhiễu việc đi lại của các linh mục dấn thân cho công lý và hoà bình... - Tôn giáo vẫn chưa chính thức được tự do tham gia vào lãnh vực giáo dục, y tế... - Tài sản Giáo hội bị nhà cầm quyền chiếm dụng, sử dụng không đúng mục đích... HĐLT cũng đưa ra những đề nghị với chính phủ Mỹ thông qua USCIRF: -Thường xuyên theo dõi tình hình nhân quyền và Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam,và việc viện trợ, giúp đỡ một chế độ bất chính và bất công như thế cần được cân nhắc hết sức cẩn thận nếu không sẽ trở thành tiếp sức cho sự độc tài và tàn ác. -Đề nghị Chánh Phủ Hoa Kỳ cần đặt điều kiện về nhân quyền khi bang giao với Việt Nam dù trên phương diện kinh tế, văn hóa, thương mại, quân sự . . . và cần đưa ra biện pháp chế tài khi nhà nước VN có những vi phạm về nhân quyền liên tục và nghiêm trọng. -Đề nghị Chánh Phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách CPC, các quốc gia được quan tâm đặc biệt vì vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo có hệ thống, cần áp dụng Đạo Luật Nhân Quyền Toàn Cầu Magnitsky và dự luật Nhân Quyền cho Việt Nam , ngõ hầu chế tài, răn đe giới cầm quyền tại VN vốn liên tục áp bức công dân, các tổ chức tôn giáo độc lập để tước đoạt tài sản của họ rồi tìm cách chạy sang các nước phương Tây để an nhàn hưởng thụ. -Đề nghị Chánh Phủ Hoa Kỳ đòi hỏi nhà cầm quyền VN phải trả tự do vô điều kiện các tù nhân lương tâm. Bãi bỏ và sửa đổi Bộ Luật Hình Sự, Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự, Luật An Ninh Mạng và Luật Tín Ngưỡng cho phù hợp với các công ước quốc tế về quyền Dân Sự và Chính Trị. Sửa đổi Luật Lao Động để các công đoàn độc lập được thành lập và hoạt động.” Paul Lộc
......

Kẻ cướp trong giáo dục.

Luân Lê Tình trạng dưới đây chính là sự mô tả xác đáng nhất cho hành vi cưỡng bức trong giáo dục và nó là hành động của những kẻ vô giáo dục. Nếu vấn nạn thành tích (điểm chác, giải thưởng, các chương trình thi đua...); học thêm; sự giả dối hay bạo lực học đường; phụ thu các khoản quỹ; chạy chọt chuyển trường; quà cáp biếu xén vào các dịp; thì việc buộc phải thực hiện chi trả hoặc là không được thụ hưởng các lợi ích nào đó như là một điều kiện đi kèm (gộp vào) chính là một hành vi bóc lột có tính cướp đoạt. Gia đình học sinh có thể kiện nhà trường về mặt dân sự và tố cáo về mặt hành chính để có thể giải quyết triệt để từ đó ngăn chặn các hành vi lưu manh kiểu này tái diễn trong môi trường giáo dục. Giáo dục lúc nào cũng giương cao ngọn cờ nhân bản và văn minh, vì người học và sự phát triển toàn diện, nhưng trái lại, nó tìm đủ mọi cách để thu vén sao cho nhiều nhất lợi ích về cho mình và sẵn sàng quay mặt như một sự ngược đãi người học cũng như người đóng tiền duy trì sự tồn tại của chính họ. Sau khi tát, bắt quỳ hàng loạt học sinh; buộc uống nước giặt giẻ lau bảng; nhiều kẻ dâm ô liên tiếp nhiều học trò và ở nhiều nơi; phụ thu hoặc ăn chặn chế độ; trao quà bằng hộp rỗng; bắt học sinh mua sách giáo khoa từng năm vì phải viết vào đó; đang chơi ở cổng trường hay ngồi trong lớp bị sập trần hay đổ cổng tử vong; tan học về dây diện rơi làm mất mạng; không có trường để đi học hay không có cầu, đường, phương tiện để đến trường; đi chơi hay tắm sông, hồ rồi cũng chết đuối...giờ là việc buộc phải uống sữa, nếu không sẽ không có cơ hội để ăn những miếng cơm đắng chát mà cha mẹ phải còm cõi bỏ tiền ra mà phải rất đúng hạn nếu không con cái sẽ bị đuổi học ngay tắp lự.
......

Việt Nam không thể chống tham nhũng nếu không có tự do và minh bạch

[ S ] – FB Việt Tân| Đoàn 36 cán bộ cấp vụ của Việt Nam sẽ sang Trung Quốc học tập chống tham nhũng từ ngày 5 – 14 tháng Mười Một, 2019, theo kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020. Cho đến nay, chiến dịch chống tham nhũng ở Trung Quốc đã diễn ra được hơn 7 năm. Mặc dù Trung Quốc luôn tuyên bố rằng chiến dịch chống này đã mang lại thành công vượt trội, nhưng tình trạng tham nhũng tại đất nước này vẫn hết sức nghiêm trọng. Trong bảng xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI) mới nhất, tháng Giêng, 2019 do Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International – TI) thực hiện, Trung Quốc đã tụt đến 10 hạng từ 77 xuống còn 87/180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cần phải nhìn nhận thẳng thắn rằng tham nhũng được sinh ra bởi cơ chế thiếu minh bạch, và được dung dưỡng bởi một nền tư pháp không độc lập và một nền báo chí không có tự do. Bản thân Trung Quốc được quản lý bởi một thể chế độc tài, guồng máy nhà nước của họ hội tụ đủ các điều kiện cần để tham nhũng phát triển, cho nên dù có tử hình bao nhiêu quan chức đi nữa, tham nhũng vẫn cứ tồn tại và liên tục sinh sôi nảy nở. Bởi thế, nói một cách thẳng thắn là chính quyền Việt Nam không thể chống tham nhũng hiệu quả nếu chỉ học Trung Quốc. Và càng không thể chống tham nhũng nếu cứ giữ nguyên thể chế như hiện nay. Muốn diệt trừ được tham nhũng cần xây dựng một nền tư pháp độc lập để tạo ra sức mạnh răn đe, phải có tự do báo chí để gia tăng khả năng giám sát của xã hội. Đặc biệt, quan trọng nhất phải thay đổi cơ cấu của nhà nước theo hướng minh bạch hóa thông tin. [ S ] – FB Việt Tân Chống tham nhũng chỉ là màn kịch Lò ông Trọng dùng để đốt loại “củi” nào?  
......

Các quốc gia A! Châu hũy họp đồng và từ chối dự án Trung quốc, chỉ ngoại trừ Việt Nam

[ LA ] – FB Việt Tân “Một vành đai, một con đường” là một sáng kiến của Trung Quốc đang muốn thực hiện với mục đích giúp giải quyết một số bài toán kinh tế hiện nay của Trung Quốc. Họ đang tiến hành bỏ vốn vào đầu tư ở một số quốc gia châu Á vì đang trong trạng thái thiếu vốn trầm trọng tại những cơ sở hạ tầng. Trong thời gian qua, Trung Quốc đã liên tục thắng thầu các công trình hàng tỷ USD ở khắp châu Á và cả thế giới, Tuy nhiên, nhiều Quốc gia Á châu hàng loạt đã và đang bị hủy bỏ các hợp đồng và từ chối các dự án cho Trung Quốc dính vào. Vì cho rằng sáng kiến “Vành đai, một con đường” là một cái bẫy do Trung Quốc đang giăng ra. Ông Rex Tillerson, Ngoại trưởng Mỹ, cảnh báo rằng khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương có thể trở thành nạn nhân của “kinh tế kẻ cướp” (predatory economics) của Trung Quốc. Ông nói các hành động của Trung Quốc "làm cho các quốc gia trong khu vực sẽ phải gánh chịu số nợ khổng lồ." Theo một số thông tin ngoại quốc cho biết: - Malaysia: Hủy 3 dự án trị giá 22 tỷ USD giữa Malaysia và Trung Quốc, gồm một dự án đường sắt dài 688km nối bờ biển phía đông của Malaysia với miền nam Thái Lan và Kuala Lumpur (ECRL) và 2 dự án đường ống dẫn khí đốt. Pakistan: Hủy dự án xây dựng đập thủy điện Diamer-Bhasha trị giá 14 tỷ USD với Trung Quốc - Nepal: Tuyên bố hủy dự án thủy điện Budhi Gandaki trị giá 2,5 tỷ USD, một dự án được chỉ định thầu cho một công ty thuộc sở hữu nhà nước của Trung Quốc. - Bangladesh: Hủy bỏ dự án cảng nước sâu Sonadia do Trung Quốc đề xuất với lý do thiếu tính khả thi thương mại, nhưng lại để Nhật Bản phát triển cảng Matarbari cách đó chỉ 25 km. - Thái Lan: Hủy bỏ một dự án đường sắt 870km ký với Trung Quốc do bất đồng về vấn đề tài chính, rồi quyết định tự đầu tư. - Indonesia cũng yêu cầu các nhà đầu tư Trung Quốc tạm dừng một dự án đường sắt vì không đủ giấy tờ. Philippines: Gần đây cũng hủy dự án sòng bạc 1,5 tỷ USD vốn từ Trung Quốc chỉ vài phút sau lễ động thổ, vì cho rằng khoản tiền thuê không hợp lý khiến Manila gặp bất lợi. Trên thế giới, tình trạng tương tự cũng xảy ra. Năm 2014, Mexico chấp nhận đền 1,3 tỷ USD cho Trung Quốc để hủy hợp đồng thi công đường sắt cao tốc đầu tiên. Mỹ hủy hợp đồng xây dựng đường sắt cao tốc xuyên Mỹ 12 tỷ USD vì không tin tưởng chất lượng "Made in China". Anh Quốc ngừng phê chuẩn dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân Hinkley Point do lo ngại về vấn đề an ninh quốc gia khi dự án có nguồn đầu tư từ Trung Quốc. Sri Lanka là nước sớm phải trả giá cho các dự án liên quan đến Trung Quốc. Năm 2017, chính phủ Sri Lanka khi buộc phải giao một cảng của Trung Quốc xây dựng tại Sri Lanka cho người Trung Quốc sau khi không thể trả được nợ. Trong khi nhiều Quốc gia tại Á Châu và thế giới đã đồng loạt hủy bỏ và từ chối các dự án đầu tư với Trung Quốc thì Việt Nam nhất quyết không từ bỏ, vẫn đối xử với nước anh em vô cùng tốt, đã tạo điều kiện và cơ hội cho các nhà thầu Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam, bất chấp dư luận phản đối và cảnh báo hiểm họa liên quan đến vấn đề an ninh Quốc gia, trong đó có dự án được nhiều người dân Việt Nam quan tâm nhất hiện nay là “dự án cao tốc Bắc – Nam” Mới đây, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Ngọc Đông cho biết có kết quả sơ tuyển thầu cao tốc Bắc-Nam nhưng đây là tài liệu mật, không thể công bố. Cách làm việc mập mờ của Bộ GTVT đã làm cho nhiều người nghi ngờ, có phải Trung Quốc đã trúng thầu trong kỳ sơ tuyển?    
......

Việt Nam – Hong Kong và “ung thư thể chế”

Võ Thị Hảo -  RFA| Việt Nam: Khủng hoảng toàn diện Việt Nam đang ở trong tình thế nguy ngập. Đất nước lâm vào khủng hoảng, bị đe dọa trên các mặt chủ quyền lãnh hải và lãnh thổ, chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh nội bộ và ngoại giao. Nguyên do là thể chế độc tài toàn trị này qua chặng đường 74 năm vận hành đã ngày càng làm nở rộng những tử huyệt của nó. Hệ thống điều hành “cỗ máy” chạy giật lùi đó đã lộ nguyên hình. Đa số quan chức chỉ là những kẻ dùng quyền lực chính trị để trộm cướp công quỹ và mồ hôi xương máu của dân Việt Nam làm của riêng. Lòng tham của họ là vô đáy và đất nước nhung nhúc những kẻ vẫn tiếp tục cướp bóc ngày càng tham tàn. Theo truyền thông Việt Nam đưa tin, một chữ ký của bộ trưởng Bộ Thông Tin Truyền Thông – lĩnh vực được cho là nghèo nhất, thì ông ta đã nhận được hơn 3 triệu USD tiền hối lộ. Giám đốc MobiFone cũng nhận được hơn một triệu USD… Vậy trong vô số  vụ chỉ định thầu cho Trung Quốc, hoặc mua sắm thiết bị máy móc, những vụ tăng vốn đầu tư hàng chục, thậm chí trăm lần thì số tiền hối lộ, tham nhũng của  quan chức Việt Nam còn tới cỡ nào? Phải chăng hệ thống cầm quyền và quan chức tham nhũng Việt Nam hiện nay có thể xếp vào hàng bẩn thỉu, đáng ghê tởm nhất thế giới?! Một hiểm họa khác mà công luận đã tố cáo: khi sức dân và tài nguyên đã cạn kiệt, nhiều kẻ trong bộ máy này đã “xẻo” từng mảng chủ quyền đất nước trên nhiều lĩnh vực ra ra bán để thu lợi riêng. Bán để được Trung Quốc (TQ) hậu thuẫn cho ghế quyền lực để tiếp tục tham tàn và tránh sự trừng phạt của công lý. Vùng đặc quyền kinh tế trên lãnh hải của VN thực sự đang diễn ra cuộc xâm lược của TQ. Gần đây nhất, hỗ trợ cho  sự xâm phạm của tàu Hải Dương 8 và các tàu hải cảnh TQ trang bị vũ khí, tàu cẩu chở giàn khoan được cho là lớn nhất thế giới mang tên Lam Kình của TQ cùng nhiều tàu hộ tống đã  hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của VN, gần tỉnh Quảng Ngãi, chỉ cách đường cơ sở của Việt Nam 11 hải lý. Hải trình lắt léo của tàu này là rất đáng ngờ và không ai chắc chắn rằng nó không đang lắp đặt giàn khoan gần dự án Mỏ Cá Voi Xanh mà VN đang hợp tác cùng một công ty của Mỹ khai thác hay không. Không ai tưởng tượng nổi là Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước, Chủ tịch QH, Thủ tướng, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an… – những người phải có trách nhiệm lên tiếng và hành động đầu tiên để bảo vệ đất nước, lại đã làm như không hề biết đến những hành vi xâm lược và phá hoại của TQ.  Phản ứng yếu ớt qua miệng của người phát ngôn Bộ ngoại giao đưa ra một cách mờ nhạt, ít ỏi và miễn cưỡng, thường là do nhà báo quốc tế chất vấn, đương nhiên rất ít tác dụng khi những người đứng đầu không ra tuyên bố. Mở cửa cho  Việt Nam thành lãnh địa của ma túy: Trên đất liền, nhà cầm quyền đã  mở toang cửa khẩu và cho đồng Nhân dân tệ lưu hành trên đất Việt Nam. Hậu quả của việc này là VN gần như là lãnh địa của TQ, an ninh kinh tế thương mại của VN bị tổn hại không thể đo đếm. Bên cạnh đó, hệ thống sản xuất, tàng trữ, chuyên chở và  buôn bán ma túy của TQ tha hồ tung tác trên đất VN. Bọn tội phạm đến từ TQ đã được nhà quản lý  nghênh tiếp, ngầm cam kết không trừng trị vì khi chúng phạm tội lại trả chúng về TQ và chúng không dại gì mà không quay trở lại tiếp tục gây hại bởi sự ưu tiên vô đối ấy. Chúng đã thừa cơ hội biến VN thành căn cứ địa ém quân vào những chỗ hiểm yếu, thỏa sức tàn phá gieo rắc độc hại tàn phá môi trường, tha hồ bán hàng đa cấp, lừa đảo, cờ gian bạc lận, thậm chí bắt cóc, mua người để mổ bán nội tạng, biến VN là nơi chứa chấp, trung chuyển và sản xuất hàng chục tấn ma túy… Việt Nam ngày nay đã bị biến thành thế giới tội phạm, nơi người VN sống trong khắc khoải lo âu trước tương lai mà thế hệ trẻ có thế bị biến thành những kẻ “ngáo đá”, những “xác sống” ma túy và chúng có thể hại người, trước hết là người thân, bất cứ lúc nào. Liên tục xuất hiện những kẻ giết người, thậm chí giết người hàng loạt, đến mức người trong nhà chỉ vì mâu thuẫn nhỏ cũng thản nhiên thảm sát nhau theo kiểu “giết sạch”. Người yêu nước bị nhà cầm quyền coi là kẻ thù: Trong khi mở toang cửa cho Trung Quốc, coi kẻ xâm lăng và lũ tội phạm là “bạn vàng”, nhà cầm quyền Việt Nam lại chĩa “họng súng” vào nhân dân của mình – những người yêu nước và quy cho họ tội “phản động”, “lợi dụng dân chủ để chống phá””… Không một lời lên tiếng phản đối TQ, nhưng những người đứng đầu hệ thống thường xuyên tuyên bố và thúc đẩy lực lượng trấn áp cùng ngành tuyên giáo, truyền thông… dùng mọi biện pháp và dốc toàn lực chống “diễn biến hòa bình”… Họ lấy tiền thuế của dân để khủng bố, đánh đập, vu cáo, bỏ tù những người dám lên tiếng vì công lý và nhân quyền, những người dám kêu oan, dám phát hiện lạm quyền và tham nhũng, dám bảo vệ chủ quyền đất nước. Coi dân như kẻ thù, họ kết tội những người yêu nước là “bọn phản động”, thành lập những “đội Cờ đỏ” dùng thủ đoạn Hồng vệ binh TQ tàn nhẫn để đấu tố, khủng bố họ. Việt Nam, Hong Kong và chặng đường “ung thư thể chế”: Việc chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng khởi động và điều hành đã có tác dụng ban đầu. Chiến dịch này được ví như một cuộc thanh trừng nội bộ, đã đưa ra được một số “ma cà rồng” tham nhũng kếch xù thuộc phe nhóm của “các đồng chí khác đã mất quyền lực” ra tòa. Đưa được càng nhiều “ma cà rồng” ra ánh sáng càng tốt. Điều nguy hiểm là những “con ma” kếch xù nhất trong các lĩnh vực trọng yếu thì đến giờ này vẫn an yên tận hưởng mọi quyền lợi và địa vị của chúng dưới sự bảo vệ của phe nhóm đang thắng thế. Số quan chức được thay thế đã sâu rộng từ trung ương tới địa phương. Chưa có gì đảm bảo rằng những quan chức được chỉ định thay thế đó lại không thuộc một phe nhóm nô lệ cho TQ, không đe dọa nền an ninh quốc gia và khi thể chế độc quyền toàn trị này còn tồn tại, đương nhiên sẽ tiếp tục đẻ ra những ”ma cà rồng” tham nhũng và phản bội dân để bảo vệ quyền lợi cho TQ. Thực tế 74 năm qua cho thấy, sự liều lĩnh ở CS cầm quyền thế hệ sau càng được khuyếch đại, bạo tàn hơn thế hệ trước nhiều lần. Với vị thế địa chính trị  hiểm yếu và là nơi giao thoa của nhiều luồng quyền lợi – quyền lực gần như đối lập nhau trên thế giới, Việt Nam chỉ cần dùng con đường ngoại giao, đương nhiên trước đó phải thay đổi thể chế chính trị sang dân chủ đa nguyên, trả lại tự do và nhân quyền cho người dân theo đúng Hiến pháp, đủ tin cậy để thành đồng minh của Mỹ và các nước khối NATO thì TQ sẽ  phải chùn bước, lễ độ rút về bên kia biên giới. Bởi khi đó, lực lượng quân sự và ngoại giao bảo vệ cho Việt Nam là rất lớn, như Nhật Bản và nhiều nước đồng minh của Mỹ đang được bảo vệ. Ngay cả  những nước ở vùng châu Á đang bị TQ bắt nạt đương nhiên cũng sẽ ủng hộ VN khi VN đứng lên và chứng tỏ được sự độc lập của mình. Như thế, Việt Nam không cần đến súng đạn và xương máu mà vẫn thoát được các hiểm họa kể trên. Về kinh tế, văn hóa, giáo dục, công nghệ… đương nhiên sẽ được nhiều nước đồng minh giúp đỡ tăng trưởng nhanh chóng và vững mạnh. Lối ra khỏi khủng hoảng và thảm họa cho Việt Nam tưởng rằng khó, nhưng thực ra  đã bày sẵn từ cả thế kỷ. Tương lai hứa hẹn  đã rực rỡ mời gọi không phải cuối chân trời, mà ngay trên Biển Đông, trước biển xanh màu ngọc bích và những vầng đảo tuyệt đẹp của Tổ quốc Việt Nam. Bức tường ngăn trở dân Việt Nam chạm tay  tới tương lai chính là nhà cầm quyền. Họ đã thiết kế một thể chế mà càng đi thì càng ngược lại với người dân. Để tha hồ tung tác, họ biến dân thành kẻ thù phải triệt hạ nếu dân không ngoan ngoãn nghe theo lời họ. Họ đã dựng nên một bức tường khổng lồ chặn mọi hy vọng của người Việt Nam. Cũng như bức tường Berlin, bức tường này cần phải dỡ  bỏ. Con đường mà nhà cầm quyền Việt Nam đang đi là một đoạn trong chặng cuối của cái chết do “ung thư” thể chế. Trung Quốc cũng không thoát khỏi căn bệnh chết chóc phát ra từ nội tạng thể chế này. Hẳn rằng có một số người trong hệ thống cầm quyền hiểu được điều đó và đang tìm cách thay đổi nhưng họ đang bị đồng chí của họ rình mò tận diệt mỗi giờ mỗi phút nếu họ động thủ. Nhưng nếu những người dám thay đổi ấy có tài năng và cao tay, họ sẽ lật ngược được tình thế. Một cuộc cách mạng từ bàn tay có quyền lực lớn từ trong thể chế là điều lý tưởng, đỡ tổn hại máu xương của dân chúng và xã hội sẽ mau lấy lại bình ổn để phát triển. Thể chế độc tài toàn trị CS đang tự phân hủy nhưng quá trình chết của nó cũng kéo theo vô số xác chết của người dân. Những người hiện đang đấu tranh cho việc thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam luôn hướng tới một sự thay đổi mang tính văn minh, bao dung và hòa bình, như cách của Cộng Hòa Liên Bang Đức đã làm với Cộng Hòa Dân Chủ Đức sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Phàm là con người và nếu không cố tình vô cảm hoặc phản dân hại nước, ai cũng cần phải cố gắng, góp sức cho việc thay đổi thể chế chính trị sang dân chủ, đa nguyên để cứu mình và để cứu nước. Hàng triệu người Hong Kong hiện nay còn có tự do hơn rất nhiều so với người Việt Nam. Nhưng quá kinh sợ trước sự tàn nhẫn của thể chế CS, người Hong Kong thà chịu chết  dưới họng súng của nhà cầm quyền TQ, còn hơn là để bị tước đoạt tự do và nhân quyền, để đất nước xinh đẹp của họ bị giam cầm trong tay một thể chế tàn bạo như TQ. “Bây giờ hoặc không bao giờ”! Hồng Kong đang là điểm sáng lương tri của thế giới, nơi mà những người đấu tranh cho tự do và dân chủ phải đạp đổ bức tường độc tài toàn trị đang muốn tròng vào cổ họ sợi dây thừng nô lệ. Người Hong Kong xứng đáng đại diện cho phần nhân loại có lương tri và dũng khí ngăn chặn “cái chết dưới tay Trung Quốc”. Họ đang được thế giới đổ dồn về theo dõi, ủng hộ và vinh danh. Ngắm gương Hong Kong mỗi ngày, làm sao người Việt Nam có thể không được khích lệ. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi. Võ Thị Hảo -  RFA  
......

Vụ AVG: Không làm rõ trách nhiệm của Tô Lâm thì tất cả mới chỉ là một nửa sự thật

Bộ trưởng Công an Tô Lâm (trái) và cựu Bộ trưởng Bộ Truyền thông – Thông tin Trương Minh Tuấn. Ảnh trên mạng Thùy Dương - baotiengdan.com Kết luận điều tra vụ Mobifone mua AVG vừa mới công bố, cho ta cái nhìn toàn diện về tệ nạn tham nhũng đang hoành hoành trên đất nước Việt Nam. Rồi đây, khi thời gian lùi xa, AVG vẫn sẽ là vụ án lịch sử. Không chỉ ở quy mô, tầm vóc của tham nhũng, đưa và nhận hối lộ; không chỉ ở hậu quả khủng khiếp về kinh tế, chính trị, xã hội mà nó gây ra, AVG còn là vụ án được bày đặt công phu, có phân vai, có lớp lang rõ ràng. Có người tung, kẻ hứng nhịp nhàng, khẩn trương và đồng bộ. Những kẻ phạm tội hầu hết đều là những vị tai to, mặt lớn, giữ trọng trách trong guồng máy quản lý cao cấp. Hơn thế, biết là béo bở, biết là coi thường luật pháp nên mỗi bước đi đều được Son, Tuấn và đồng bọn tính toán kỹ lưỡng, xóa sạch dấu vết. Thậm chí khi có bảo bối công văn 418/BCA-TCAN ngày 9/3/2015 do Tô Lâm, Thứ trưởng, nay là Bộ trưởng Công an ký, thì tất cả chúng nó tưởng rằng xác chết AVG đã được đóng quan tài và đào sâu chôn chặt không ai có thể mò ra. Nhưng Nhân tính không bằng Trời tính. Ông Nguyễn Văn Tung (Có thể tên thật, có thể bí danh; có thể 1 người cũng có thể là nhóm người…) đã miệt mài, chịu khó thu nhập chứng cứ, tung lên mạng xã hội và gửi tới những người có trách nhiệm. Nhờ đó, Đảng, Nhà nước đã vạch trần bộ mặt thật lũ quan tham và lấy lại cho Nhân dân hàng chục ngàn tỷ trong túi bọn cướp ngày này. Công lao lớn nhất, phát hiện ra đại án AVG khó có thể nói ai khác ngoài ông Nguyễn Văn Tung. Giá mà có cơ chế nào đó để trích thưởng vài trăm tỷ, kể cả nghìn tỷ cho ông Tung cũng rất nên làm. Vì thông qua việc khen thưởng kịp thời, xứng đáng cho ông Tung, tự nó sẽ nhen lên ngọn lửa tố giác tội phạm tham nhũng gộc trên phạm vi quốc gia. Những kẻ quyền lực vô song, bất chấp luật pháp, cướp ngày của Nhân dân đã không thể ngờ rằng dù cơ chế còn lỏng lẻo, pháp luật còn nhiều sơ hở, bấp bênh, công lý thì gầy còm nhưng vẫn còn đó Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng kiên định và mưu lược, quyết tâm lôi ra ánh sáng vụ AVG. Không mưu lược sao có thể bóc dỡ từng lớp, từng lớp sai phạm đã được che chắn tinh vi của cả ê kíp được đào tạo bài bản để xóa dấu vết như thế. Không mưu lược, chắc chắn lạc đường vì toàn bộ vụ án đã mờ đặc sương khói và rất nhiều bẫy được chúng nó giăng ra. Sự nghiêm túc, kiên định của TBT, CTN Nguyễn Phú Trọng đã bẻ gãy ý chí, đã đập tan ý đồ cứu bồ (để cứu mình) của một bộ phận không nhỏ cán bộ cao cấp (Kể cả những người trong Bộ Chính trị, và UBKTTW). Từ đó vụ án mới được phanh phui. Giờ đây, theo kết luận điều tra vừa được công bố, một số đối tượng đã vào vòng tố tụng. Tài sản đã được thu hồi. Nhưng nếu chỉ có vậy thì vụ án xem chừng vẫn bỏ lọt tội phạm và bản án nếu có tuyên thì vẫn chỉ là một nửa sự thật. Điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là vai trò hết sức quan trọng của Tô Lâm và Bộ Công an trong vụ án này. Sự thật, nếu không có Tô Lâm và mấy văn bản được nhóm tội phạm dùng như bảo bối thì vụ án không chắc đã xẩy ra. Thậm chí có thể nói không thể xẩy ra. Nếu có xẩy ra thì cũng không vất vả gian nan trong điều tra xét xử thế này. Tô Lâm và Bộ Công an đã làm gì? Xin thưa, đã làm sai chức năng nhiệm vụ, theo kết luận của Thanh tra Chính phủ. Mọi việc bắt đầu từ công văn 517 ngày 5/10/2014 của AVG gửi Bộ TTTT giả vờ đánh tiếng có đối tác nước ngoài (Cty 8206) Hong Kong chào giá AVG 700 Triệu USD, đặt cọc 10 triệu USD. Tiếp đó, Bộ TTTT gửi CV số 200, ngày 26/11/2014 cho Bộ Công an và Bộ Công an trả lời ngày 8/12/2014. Điểm đáng nói là Bộ Công an tuyệt nhiên không đã động gì về việc thực hư công ty 8206 Hong Kong cũng như giá cả và việc đã đặt cọc. Mà chỉ nói Bộ TTTT nên bán cho DNNN. Có vẻ như Bộ TTTT và Bộ CA đã được phím rằng Cty 8206 có liên quan tình báo Hoa nam… chẳng qua chỉ là câu chuyện làm quà mà thôi. Nếu phán đoán này là đúng thì Bộ CA và Bộ TTTT đã làm một việc vô cùng nguy hiểm, lừa đối Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Làm cho Giặc giả, tưởng là Giặc thật, Mai này giặc thật lại tưởng là giặc giả thì làm thế nào. Chưa hết, màn kịch đến hồi tung hứng hỏi giá giữa Bộ Công an và Bộ TTTT. Ở bước trước, Bộ Công an nói AVG muốn bán cổ phần thì phải bán cho DNNN. Thì lần này Bộ CA, dù biết AVG sẽ được đạo diễn để bán cho Mobifone và Bộ CA cũng biết rõ Mobifone sẽ được cổ phần hóa sớm. Nhưng Bộ Công an đáng lẽ phải làm đúng chức năng là ngăn chặn Bộ TTTT vì có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thì lại đi làm việc không đúng chức năng là thẩm định giá. Theo đó Bộ Công an cho rằng giá mua đã thấp hơn giá định của các tổ chức định giá. (AVG năm 2015 chỉ là xác chết, thua lỗ, nợ nần cực lớn. Cho chưa chắc ai giám nhận. Nhưng qua bàn tay phù phép của chúng đã trở thành DN có giá trị tới 33.000 tỷ đồng (theo VCBS) hoặc 16.000 tỷ đồng (theo AMAX). Việc bộ TTTT cắc cớ hỏi giá Bộ Công an mà không hỏi bộ kế hoạch đầu tư, Bộ tài chính dẫn chúng ta đến suy luận dường như, trong phi vụ này, Bộ TTTT cánh hẩu với Bộ Công an hơn các Bộ ngành còn lại. Còn nữa, công văn số 418/BCA-TCAN. Đây là đỉnh cao của sự vô pháp. Hợp đồng mua bán và các tài liệu liên quan giữa AVG và Mobifone tuyệt đối không thể được xếp vào dánh mục tài liệu mật. Đây là Quy định của Bộ Công an. Vậy nhưng Thượng tướng, nay là Đại tướng Tô Lâm vẫn ký. Và chỉ chờ có vậy, ngày 21/12/2015, Trương Minh Tuấn phát hành quyết định 236 Phê duyệt dự án đầu tư, theo đó cho cho phép Mobifone mua 95 % cổ phần AVG với giá 8.900 tỷ đồng. Xin hỏi ông Tô Lâm, Ông là Giáo sư, tiến sỹ an ninh, nếu những hành vi nói trên chưa đủ cấu thành tội phạm thì từ trước đến nay và từ nay về sau ngành Công an và cá nhân ông cư xử thế nào với các hành vi tương tự? Ông đã từng và sẽ bỏ qua cho những ai vi phạm giống thế này không? Nếu kết thúc vụ này, ông vẫn vô can, Ông sẽ ăn nói với cán bộ chiến sỹ của mình như thế nào, bào chữa với Nhân dân thế nào? Một điểm mờ nữa cần lôi ra ánh sáng đó là số tiền đưa và nhận hối lộ. Vu án thất thoát hơn 7.000 tỷ mà hối lộ chỉ 3 – 4 triệu đô và tập trung vào mấy người đã bị bắt thì ba xạo quá. Không thể tin được. Xưa nay luật bất thành văn là 10%, 15%, 30%…; của đồng chia ba, của nhà chia đôi…Cơ quan điều tra cần phải cố gắng và công minh hơn nữa. Tập trung điều tra tiếp tội danh đưa và nhận hối lộ. Đừng vội bàn về chính sách hình sự đặc biệt nầy nọ. Và nếu Bộ Công an không điều tra được thì phải thay đổi cơ quan điều tra. Nên nhớ, mới đây Tướng Phạm Quý Ngọ, uy danh lẫy lừng là vậy nhưng mặt nạ cũng đã bị lật ngay tại phiên tòa xét xử Phạm Chí Dũng đó thôi. Khui ra vụ AVG, lấy lại tài sản cho Nhà nước và Nhân dân là thành công bước đầu. Tuy vậy, điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội, không oan sai, không bỏ lọt tội phạm trong vụ án này còn là đòi hỏi bức thiết hơn. Chỉ có như vậy, sự thật vụ án mới được phơi bày. Niềm tin của nhân dân đối với TBT, CTN Nguyễn Phú Trọng mới vững bền, trọn vẹn, thành quả công cuộc đốt lò mấy năm qua mới đi vào thực chất và mới chứng tỏ được rằng chống tham nhũng là không có vùng cấm. Cuối cùng là bài học rút ra. Giờ mà chong đèn rồi nghĩ lại, rồi tổng kết bài học thì có khi viết được cuốn sách dày cộp. Nhưng để làm gì, người viết thấy không cần thiết. Cái đọng lại nhất, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thuộc chính là vai trò của Nhân dân. Không có Nhân dân, xin thưa TBT, CTN Nguyễn Phú Trọng không thể phanh phui vụ án này. Hãy nhìn sự lúng túng, bế tắc; sự chậm trễ, chồng chéo của Thanh tra chính phủ, của cơ quan điều tra trước khi có chỉ đạo của UBKTTW thì rõ. Và vì thế, thay vì cứ ngồi nghe báo cáo về chống tự diễn biến, tự chuyển hóa hoặc lên mặt rao giảng đạo đức của một bộ phận cán bộ cao cấp thoái hóa biến chất thì xin hãy mở đường cho Nhân dân, động viên, trao cơ hội cho Nhân dân, lắng nghe và bảo bệ Nhân dân. Thúc đẩy dân chủ, công khai, minh bạch… Đó mới là then chốt của then chốt trong phòng chống tham nhũng.  
......

Cách mạng Việt Nam: Cấp tiến chống Bảo thủ.

Nguyễn Quang Duy| Bạn đọc nhận xét “biết người, biết ta” nên không thể hy vọng vào thay đổi chính trị tại Việt Nam. Quả đúng nếu xem “ta” chỉ gồm vài tổ chức đấu tranh èo uột, chia năm xẻ bảy, chẳng ai phục ai,… còn cộng sản nắm quân đội, công an, nhân lực, tài lực đất nước. Nhưng nếu biết “ta” gồm những người cấp tiến muốn thay đổi chính trị, muốn hướng đến tự do, còn “người” là thành phần bảo thủ kềm hãm thay đổi thì rõ ràng một cuộc cách mạng cấp tiến đang diễn ra tại Việt Nam. Bài viết này giúp trả lời 2 câu hỏi của bạn đọc J. Trần: (1) Ai là người đi tiên phuông (tiên phong cách mạng)? và (2) Vũ khí nào tốt nhất để đi tiên phuông (tiên phong cách mạng)? Cấp tiến hải ngoại. Ở nước ngoài, người Việt hầu hết sống trong các nước tự do, được hưởng dân chủ nên đều mong Việt Nam có tự do. Những người trước đây đã sống, đã chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do, nay lại được sống ở các nước tự do, ao ước được thể hiện bằng hành động. Nhiều cộng đồng địa phương đã được hình thành, phát triển và đều có chung mục đích là hướng về một Việt Nam tự do. Năm 2008, Hà Nội cho thay đổi Luật Quốc tịch đòi người hải ngoại phải ghi danh giữ quốc tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trong vòng 6 năm cho đến ngày 1/7/2014, chưa tới 6.000 trong số 4,5 triệu người ghi danh, nghĩa là chỉ hơn 0.1% người Việt hải ngoại muốn nhận Hà Nội làm đại diện cho họ và gia đình. Cấp tiến trong dân Ở trong nước mặc dù chưa có cuộc trưng cầu dân ý để có được con số chính xác về mức độ người dân muốn thay đổi thể chế, nhưng thực tế xã hội cho thấy tỷ lệ dân chúng muốn duy trì thể chế cộng sản cũng rất thấp không hơn gì con số 0.1%. Trong vòng 30 năm qua trong nước đã xuất hiện nhiều tổ chức dân sự hoạt động công khai, vô vụ lợi, với nhiều mục đích khác nhau, bao gồm các tổ chức tôn giáo, đồng hương, nghiệp đoàn, từ thiện, hướng đạo, giáo dục, truyền thông, nghiên cứu, môi trường, các câu lạc bộ, các nhóm thân hữu… Những tổ chức dân sự này ngày một mở rộng. Những người hoạt động dân sự đều có chung một mong muốn là Việt Nam thay đổi để bắt kịp thời đại. Nhiều nhóm dân sự âm thầm tổ chức hằng vạn cuộc biểu tình và đình công cho công nhân, cho nông dân mất đất, hay cho dân chúng đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi thiết thực. Những dân nghèo thành thị, công nhân, nông dân làm không đủ ăn, những doanh nghiệp tư nhân, người buôn bán lẻ bị đối xử bất công, những người trẻ có học thức đều nhận ra những phi lý và bất công xã hội đều muốn thay đổi để đất nước tiến bộ. Trên các trang mạng xã hội ngày càng nhiều người thuộc nhiều tầng lớp, nghề nghiệp, tuổi tác, địa phương khác nhau đã công khai biểu lộ chính kiến bày tỏ mong muốn một xã hội tiến bộ, một đất nước tự do. Tất cả những người mong muốn thay đổi thể chế chính trị đều có thể được xem thuộc thành phần cấp tiến. Cấp tiến trong đảng Cộng sản… Văn kiện Đại hội 12, đảng Cộng sản nói rõ cán bộ đảng viên không còn tin vào con đường xã hội chủ nghĩa: "Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam." Đại Hội 13 sẽ đặt trọng tâm vào tình trạng cán bộ và đảng viên cộng sản đang thay đổi tư tưởng chính trị, đang tự diễn biến, tự chuyển hóa. Thay đổi tư tưởng từ bên trong và bên trên đảng Cộng sản chính là điều mà thành phần bảo thủ cầm quyền lo ngại nhất nên thường xuyên khuyến cáo lực lượng công an và quân đội không được để các lực lượng cấp tiến hình thành tổ chức chính trị đối lập. Trung cộng là mối đe dọa chủ quyền lãnh thổ lãnh hải Việt Nam, vì thế tâm lý của giới quân nhân là muốn xây dựng một thế đồng minh chiến lược với Hoa Kỳ. Điều kiện cần và đủ để các cuộc cách mạng ở Đông Âu và Liên Xô thành công là Quân Đội trung lập hay gián tiếp ủng hộ và bảo vệ thành quả cách mạng. Ai thuộc thành phần bảo thủ? Bảo thủ bao gồm những thành phần được hưởng đặc quyền đặc lợi, thành phần này luôn kềm hãm mọi thay đổi nhằm duy trì thể chế cộng sản toàn trị, nhưng vì phân chia quyền lợi không đều nên đang xâu xé lẫn nhau. Đại Hội 12, phe cực kỳ bảo thủ công khai loại trừ đồng chí X, rồi mở chiến dịch đốt lò thanh trừng vây cánh chống đối ngay trong Bộ Chính Trị và Trung ương đảng Cộng sản. Nội bộ lãnh đạo cộng sản càng tranh ăn đấu đá lẫn nhau, dân chúng và đảng viên cấp thấp càng nhận ra nhu cầu phải thay đổi chính trị. Bởi thế không có gì là quá đáng nếu nhận định tỷ lệ dân Việt muốn duy trì thể chế cộng sản rất thấp con số có thể chỉ chừng 0.1%, nhưng có những lý do sẽ được bàn tới ở phần sau khiến cách mạng chưa bùng nổ. Đa nguyên hải ngoại… Có bạn đọc cho rằng thành phần chống cộng “cực đoan” ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đấu tranh. Đấu tranh cho tự do là đấu tranh cho sự khác biệt giữa người với người. Những người biểu lộ công khai và rõ ràng quan điểm chống cộng có thể lại là những người tích cực nhất. Kinh nghiệm sống, chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do buộc họ phải luôn đề cao cảnh giác cộng sản xâm nhập hay thành phần bán đứng cộng đồng. Có bạn lo ngại về việc tin giả, tin thất thiệt, tràn làn trên các diễn đàn, thì ngay cả truyền thông Tây Phương cũng đầy tin giả, tin thiếu kiểm chứng. Chấp nhận tự do ngôn luận là chấp nhận tin giả, tin sai sự thật, về lâu dài nó giúp bạn đọc cẩn thận chọn lọc thông tin. Có bạn cho biết tình trạng hải ngoại vô cùng bát nháo, không ai nghe ai,… nó lại thể hiện môi trường sinh hoạt đa nguyên hải ngoại, các sinh hoạt chính trị chính mạch Mỹ, Úc, Âu châu cũng chẳng khác gì. Sinh hoạt hải ngoại là sinh hoạt trong vòng luật pháp nên bạo lực, mạ lỵ hay vu khống đều bị luật pháp nghiêm cấm và trừng trị. Tất cả những điều trên về lâu dài đều tích cực đóng góp cho công cuộc đấu tranh chung, nhờ đó chúng ta mới biết được sự thật về nhiều cá nhân hay tổ chức. Chắc bạn đọc vẫn nhớ Hồ chí Minh từng sống ở Mỹ, ở Anh, ở Pháp,… là những nước dân chủ vào bậc nhất trên thế giới, nhưng cuối cùng lại chọn Liên xô và Trung cộng lại mang chế độ độc tài toàn trị về Việt Nam. Bởi thế cần cảnh giác những tổ chức hải ngoại mang danh đấu tranh cho tự do dân chủ, nói thì hay nhưng bản chất là độc tài. Nếu họ thành công trên con đường cách mạng thì Việt Nam lại vướng vào thể chế độc tài không cộng sản. Thay đổi suy nghĩ… Phần trên chỉ là lý thuyết nếu không được mang ra thực hành. Nhưng cũng vì thiếu lý thuyết dẫn dắt nên hơn 44 năm qua người Việt phản kháng cộng sản một cách vô cùng thụ động, không biết người, không hiểu ta, nhìn quanh đâu cũng thấy kẻ thù, chống đối đa nguyên, thiếu tôn trọng sự thật, thiếu tôn trọng sự minh bạch, phản dân chủ và phản cảm. Mô hình cấp tiến bên trên chính là con đường để xây dựng sự đồng thuận nhằm tranh đấu cho Việt Nam tự do. Có tự do mới có dân chủ, có nhân bản, có nhân quyền, có thực lực để bảo vệ đất nước, bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ, lãnh hải trước ngoại bang Trung cộng. Có tự do mới có công bằng, có bác ái, có phát triển xã hội, có hãnh diện được làm người Việt Nam. Tiên phong cách mạng cấp tiến Trở lại với hai câu hỏi của bạn đọc J. Trần “Ai là người đi tiên phuông?” và “Vũ khí nào tốt nhất để đi tiên phuông?” Nắm được lý thuyết và mô hình cấp tiến giúp chúng ta đánh giá đúng về mình (ta), mới biết và mới hiểu ai là bạn còn ai là đối phương, không sa vào hỏa mù trong cuộc đấu tranh cho tự do. Người đi tiên phong chỉ cần mỗi ngày bước thêm vài bước, thúc dục bạn bè bước theo mình, thúc đẩy đối phương rời bỏ hàng ngũ bảo thủ, cô lập thành phần bảo thủ, khi điều kiện thuận lợi cuộc cách mạng cấp tiến tất yếu sẽ diễn ra. Tư tưởng tự do chính là vũ khí tốt nhất cho cuộc cách mạng cấp tiến trong diễn biến hòa bình và là nỗi lo sợ ngày đêm của thành phần bảo thủ cộng sản. Người đấu tranh được trang bị tư tưởng tự do sẽ không mù quáng làm nô lệ cho guồng máy độc tài phản cách mạng hay làm tay sai cho ngoại bang. Tự do bao gồm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do nghiệp đoàn, tự do thương mãi, tự do học thuật, … cao nhất vẫn là tự do chính trị, tự do ứng cử và bầu cử. Thiếu tự do chính trị, sẽ không bao giờ có được một hiến pháp tự do để xây dựng một xã hội dân chủ và phát triển. Tự do chính trị là chìa khóa để mọi cá nhân, mọi tổ chức đưa ra đường lối và chiến lược cạnh tranh để được dân chúng trao quyền đưa đất nước tiến lên kịp đà tiến bộ nhân loại. Vì thế tùy khả năng và hoàn cảnh cuộc cách mạng cấp tiến đầy thách thức và đầy cơ hội cho mọi người thuộc mọi tầng lớp đều có thể dấn thân cho một Việt Nam tự do. Nguyễn Quang Duy Nguyen Quang Duy <duyact@yahoo.com.au>    
......

Chuẩn bị ‘tình huống xấu nhất’, nhưng sẽ đánh chác ra sao?

Hải Dương 981, hồi tháng Năm, 2014. Phạm Chí Dũng – VOA| Ngay sau khi xuất hiện tàu cẩu lớn nhất thế giới của Trung Quốc là Lam Kình ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 3/9/2019, chỉ cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 11 hải lý và cách đảo Lý Sơn chỉ khoảng 30 hải lý về phía nam, đã nổi lên dư luận “ta đang chuẩn bị cho tình huống xấu nhất” đầy lo lắng và lo sợ trong nội bộ đảng cầm quyền ở Việt Nam. ‘Tình huống xấu nhất’ là gì? Đó là một thuật ngữ của giới quân sự Việt Nam nhằm mô tả tình trạng sẵn sàng chiến đấu ở cấp cao nhất. Nghĩa là có thể nổ ra chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc – cái tương lai rất gần mà vào thời hữu hảo ‘Bốn Tốt’ và Mười Sáu Chữ Vàng’ chỉ nghĩ đến cũng thấy hoang tưởng. Nỗi lo sợ và khiếp nhược đến mức ‘đái ra quần’ của giới quan chức Việt là rất có cơ sở, bởi khác hẳn với tàu Hải Dương 8 chỉ làm nhiệm vụ thăm dò địa chất, Lam Kình làm cho người ta lập tức nhớ lại giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung Quốc cho tấn công vào vùng biển Việt Nam trong năm 2014 và suýt gây ra xung đột quân sự. Khi đó về mặt công khai, chính quyền Việt Nam đã chẳng có nổi một tuyên bố ra hồn phản đối Trung Quốc, trong lúc rậm rịch thông tin ngoài lề về những cuộc chuyển quân lên biên giới phía Bắc và ở Biển Đông với cấp độ báo động ‘sẵn sàng chiến đấu cao’ – tức đã đạt đến trạng thái thứ ba trong 4 cấp sẵn sàng chiến đấu của quân đội (sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, sẵn sàng chiến đấu tăng cường, sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng chiến đấu toàn bộ). Còn vào lần này, khả năng Bắc Kinh đưa một giàn khoan đến hoạt động trong vùng biển của Việt Nam là hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng mục tiêu lần này không chỉ ‘thăm dò dầu khí’ như năm 2014 mà có thể là… khoan luôn. Đó có thể là giàn khoan Hải Dương 981, hoặc giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai của Trung Quốc là Đông Phương. Đánh hay không dám? Trong phương trình khoan dầu nhiều ẩn số của Trung Quốc, Đông Phương có thể là đáp án đầu tiên. Bởi vào tháng 4 năm 2019, giàn khoan này đã hờm sẵn tại lưu vực Yinggehai ở Biển Đông, sẵn sàng gây áp lực với Việt Nam trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ (nhưng cũng vào tháng 4 đó, ông Trọng bất thần bị một cơn bạo bệnh tại Kiên Giang nên chuyến đi Mỹ của ông ta phải dời lại). Nếu sắp tới Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ – như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018, với tỷ lệ ăn chia có thể lên đến 60% cho Trung Quốc và chỉ còn lại 40% cho chủ nhà Việt Nam – được hiểu thực chất là phải mời một tên cướp vào nhà mình để cùng chia bôi tài sản…, đó sẽ là một thảm họa với Nguyễn Phú Trọng và những đồng đảng của ông ta vẫn mơ màng về ‘Mười Sáu Chữ Vàng’. Kịch bản ngày càng áp sát là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ chiến dịch, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong “đường lưỡi bò” mới được Trung Quốc vẽ bổ sung. Điểm nổ chiến tranh lộ diện nhất là Bãi Tư Chính. Còn Bộ Chính trị và cấp dưới của nó là Bộ Quốc phòng Việt Nam sẽ làm gì? Đánh thì sợ, mà không đánh thì bị cướp trắng và mặt mũi chẳng còn ra thể thống gì. Trong thời gian qua, đã có những thông tin ngoài lề về việc quân đội Việt Nam điều quân để củng cố vùng biên giới phía Bắc và cả biên giới tây nam giáp Campuchia. Tuy nhiên, đó chỉ là cách phòng thủ hết sức thụ động, một kiểu che chắn theo cách ‘kịch liệt phản đối’ nhưng cứ ngồi đờ ra, giương mắt thao láo nhìn kẻ cướp xông vào nhà mình và lần lượt bỏ túi từng món đồ. Trong khi đó các tàu chiến và tàu hải cảnh Việt Nam vẫn chỉ lọ mọ theo đuôi tàu Hải Dương 8 mà không có được bất cứ hành động mạnh mẽ nào, dù chỉ là… bắn lên trời. Trong lúc 6 tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Việt Nam được cho là còn phải đi chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn, còn các tàu chiến khác, kể cả ‘tàu buồm hiện đại nhất thế giới’ mang tên Lê Quý Đôn tuyệt đối mất dạng, toàn bộ lực lượng hải quân Việt Nam vẫn phủ phục trong tư thế bất lực và kiên định… bám bờ, các tàu Trung Quốc đã thả giàn tung hoành ở Biển Đông và ngay trong ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi’ của Việt Nam. Việc nhóm tàu khảo sát Hải Dương-8 của Trung Quốc đã tiến sâu thêm 30 km vào vùng biển Việt Nam vào đầu tháng 9 năm 2019, chỉ còn cách bờ biển tỉnh Ninh Thuận, miền trung Việt Nam khoảng 155 km, đã gián tiếp tiết lộ một sự thật bi thảm: trong suốt thời gian từ đầu tháng 6 năm 2019 khi tàu Trung Quốc bắt đầu xâm nhập bãi Tư Chính, Bộ Quốc phòng và Cảnh sát biển Việt Nam đã đối phó tệ hại đến mức Trung Quốc hoàn toàn coi thường những hành động đối phó này. Đã không có một tàu hải quân nào của Việt Nam ra ngăn chặn Hải Dương 8 đến gần Phan Thiết. Thật đúng là ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’! Trung Quốc đang thực hiện chiến thuật nuốt từng hải lý biển Việt Nam. Có thể vào một ngày đẹp trời không lâu nữa, các lực lượng quân đội lẫn cảnh sát ở Phan Thiết hoặc ở một thành phố duyên hải nào đó của Việt Nam sẽ trố mắt trước những chiếc tàu giương cờ Trung Quốc lừng lững ngự ngay trước mắt họ ở vùng biển sát bờ. Trong khi đó, chiến thuật Việt Nam dùng một số tàu chiến và tàu hải cảnh bao vây tàu Trung Quốc, hoặc bám chặt tàu Trung Quốc đã tỏ ra vô ích và vô tích sự, bởi về số lượng thì tàu Trung Quốc luôn vượt gấp ít ra vài ba lần số tàu Việt Nam, còn việc bị bám đuôi thì Trung Quốc chẳng coi ra gì. Kiện hay không dám? Cũng trong khi đó, toàn bộ công tác ‘vận động quốc tế ủng hộ Việt Nam’ đã chỉ nhận được nhưng lời lẽ chia sẻ chung chung và xã giao, còn lại đã chẳng có bất kỳ hành động quân sự đáng chú ý nào từ các nước ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam. “Chúng ta đã kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng mọi biện pháp đối với các hoạt động của nước ngoài vi phạm chủ quyền trên biển của ta” – Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc hé miệng lần đầu tiên về tình hình ở Biển Đông vào ngày 4/9/2019 trong một cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 tại Hà Nội, nhưng vẫn không hề dám nhắc đến cái tên Trung Quốc. ‘Bản lĩnh Nguyễn Xuân Phúc’, cộng thêm trạng thái bị coi là câm nín của Nguyễn Phú Trọng trước vụ Hải Dương 8, thậm chí còn tệ hơn cả cấp dưới là Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh. Bởi trước đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ba lần lên tiếng cáo buộc tàu Trung Quốc vi phạm chủ quyền và thềm lục địa của Việt Nam, dù rốt cuộc cơ quan này cũng chỉ đánh võ miệng. Khi ngay cả những quan chức chóp bu như Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Xuân Phúc mà còn không dám nêu tên Trung Quốc thì làm sao chính thể Việt Nam dám kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế? Chỗ dựa dẫm duy nhất Nếu nổ ra ‘tình huống xấu nhất’ với Trung Quốc, hải quân Việt Nam sẽ đánh chác ra sao? Sẽ tiếp tục phát cờ cho ngư dân để “thuyền ra biển lớn” và lại khiến rộ lên câu vè dân gian “Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động”? Nếu ai đó cho rằng hải quân Việt Nam còn đang ‘giấu mình’, vẫn nêu cao tinh thần yêu nước và sẽ ra đòn quyết định vào một thời điểm thuận lợi, làm thế nào để giải thích việc mới đây một thứ trưởng bộ quốc phòng kiêm đô đốc của quân chủng này – Nguyễn Văn Hiến, cùng một số tướng tá hải quân khác đã bị tống vào ‘lò’ của ‘tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng vì tội ‘ăn đất’? Nguy cơ Việt Nam bị tấn công đang hiển thị dần sau một tháng và mỗi quý. Đến giờ phút này, giới chóp bu Việt Nam phải quyết định cho chính số phận tồn vong của nó: thêm một lần đánh đu với người anh em cộng sản Bắc Kinh sẽ rất dễ khiến lục phủ ngũ tạng của dân tộc Việt Nam bị kẻ thù phanh thây – theo đúng cái cách mà chính quyền Trung Quốc đã làm để mổ sống nội tạng các tín đồ Pháp Luân Công. Chỗ dựa dẫm duy nhất giờ đây của Hà Nội chỉ còn là Hoa Kỳ – đối trọng duy nhất của Trung Quốc tại Biển Đông.  
......

Một hiệp định mở đường cho tội phạm

TÂM DON - (VNTB) Hàng loạt vụ án động trời do người Trung Quốc thực hiện trên đất Việt Nam diễn ra liên tiếp. Và, rất nhanh chóng, các tội phạm người Trung Quốc được phía Việt Nam dẫn độ- trao trả cho Trung Quốc. Chuyện không thể tin đã diễn ra. Dư luận Việt Nam đang phẫn nộ về việc Việt Nam ký kết và thông qua Hiệp ước dẫn độ Việt Nam- Trung Quốc. Điều gì khiến cộng đồng phẫn nộ? Điều thứ nhất, hiệp định này được ký kết mà không có tính công khai và minh bạch. Điều thứ hai, quan trọng nhất, theo hiệp định này, tội phạm Trung Quốc khi thực hiện hành vi phạm tội ở Việt Nam, nếu bị phía Việt Nam phát hiện và bắt giữ, sẽ nhanh chóng được trao trả- dẫn độ về Trung Quốc để phía Trung Quốc điều tra và xét xử. Điều thứ hai này hoàn toàn đi ngược lại với thông lệ luật pháp quốc tế là, tội phạm người nước ngoài phạm tội ở quốc gia nào sẽ được quốc gia đó xét xử. Bên cạnh đó, cộng đồng còn băn khoăn về việc, nếu người Việt Nam phạm tội ở Trung Quốc liệu có được- bị phía Trung Quốc trao trả- dẫn độ về phía Việt Nam?   Đã có nhiều nghi vấn tại Việt Nam rằng, Trung Quốc đã đưa nhiều tù nhân sang lao động tại các dự án mà Trung Quốc đầu tư ở Việt Nam nhằm tiết kiệm chi phí nhân công. Nghi vấn này nếu là hiện thực sẽ dẫn đến hậu quả đau đớn: Việt Nam là nơi chứa chấp tội phạm, Việt Nam bị cướp công ăn việc làm. Cũng tại Việt Nam đã có nghi vấn rằng, chính quyền Trung Quốc đang dung dưỡng cho các loại hình tội phạm tràn sang Việt Nam để phá hoại Việt Nam theo nhiều cách khác nhau, làm cho Việt Nam mất đi sự ổn định về xã hội và trật tự. Nghi vấn này hoàn toàn có cơ sở khi mà số vụ việc người Trung Quốc vi phạm pháp luật ở Việt Nam ngày càng diễn ra dày đặc, và hoạt động có tổ chức ngày càng tinh vi.   Khi tội phạm Trung Quốc được trao trả- dẫn độ về Trung Quốc, các tòa án ở Việt Nam đã không thể phán quyết các bản án nghiêm khắc dành cho kẻ phạm tội nhằm răn đe và ngăn ngừa tội phạm.   Khi tội phạm Trung Quốc được trao trả-  dẫn độ về Trung Quốc, rất có thể các cấp tòa án ở  Trung Quốc sẽ xét xử nhẹ nhàng, để rồi sau đó, các tội phạm này sẽ quay trở lại Việt Nam dưới một cái tên mới với hộ chiếu mới. Và, Việt Nam lại bị các tội phạm Trung Quốc làm thất điên bát đảo, gây rối loạn trật tự xã hội, và bào mòn ngân sách.   Hiệp định dẫn độ Việt Nam - Trung Quốc rất có thể là một thắng lợi cực kỳ lớn cho chính quyền Trung Quốc và là thất bại cay đắng cho phía Việt Nam.   Theo Tân Hoa xã của nhà nước Trung quốc đưa tin vào cuối tháng 8-2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc vừa phê chuẩn một Hiệp ước dẫn độ với Việt Nam được ký kết từ năm 2015. Cơ quan lập pháp hàng đầu của Bắc Kinh đưa ra quyết định hôm 26-8- 2019 khi phê chuẩn hiệp ước gồm 22 điều khoản, trong đó có các vấn đề như nghĩa vụ dẫn độ, tội phạm đủ điều kiện dẫn độ, quy định từ chối dẫn độ và giải quyết tranh chấp. Cũng theo Tân Hoa xã, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu thảo luận về hiệp ước dẫn độ từ tháng 10/2013 và hai quốc gia cộng sản láng giềng đã ký hiệp định này vào ngày 7/4/2015 tại Bắc Kinh.   Truyền thông Việt Nam chưa có ghi nhận nào về việc Trung Quốc phê chuẩn Hiệp ước dẫn độ với Việt Nam và cũng không có thông tin về việc hai nước bàn thảo cũng như ký kết hiệp ước này trong những năm qua. Chỉ có hai bài viết trên báo Tuổi Trẻ và Nhân Dân ra ngày 13/11/2017 nói về việc Việt Nam và Trung Quốc tập trung thúc đẩy cho Hiệp định dẫn độ giữa hai nước trong thời gian Chủ tịch Tập Cận Bình có chuyến thăm chính thức tới Việt Nam.   Vào tháng 8-2019 vừa qua, khi đường dây đánh bạc trực tuyến do gần 400 người Trung Quốc cầm đầu bị công an Việt Nam bắt giữ ở Hải Phòng và nhanh chóng được phía Việt Nam dẫn độ- trao trả cho Trung Quốc, dư luận Việt Nam đã bùng phát giận dữ. Một số quan chức cấp thấp của Việt Nam đã trả lời công luận rằng, nhanh chóng trao trả- dẫn độ về Trung Quốc vì tuân thủ hiệp ước dẫn độ giữa hai nước. Cho đến thời điểm này, phía Việt Nam không công khai việc phê chuẩn hiệu lực của hiệp định vào thời điểm nào.   Việt Nam có thể hèn, có thể thất bại trước Trung Quốc, nhưng láng giềng của Việt Nam là Cambodia thì không. Cambodia xét xử và giam giữ các tội phạm Trung Quốc, không dẫn độ về Trung Quốc trước khi xét xử. Tòa án tỉnh Banteay Meanchey, Cambodia vào tháng 6-2019 đã xử 12 công dân Trung Quốc về tội bắt cóc 3 người đồng hương thiếu nợ tiền thua bạc.(https://tuoitre.vn/nguoi-trung-quoc-lu-luot-ve-nuoc-khi-campuchia-cam-danh-bac-truc-tuyen-20190911105526535.htm). Dân số Cambodia chỉ bằng 1/8 dân số Việt Nam, nhưng sự công minh và rạch ròi của Cambodia gấp 8 lần Việt Nam.
......

Hy sinh đời bố – củng cố đời con

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân| Từ đầu tháng Chín, 2019 sau một thời gian tạm thời lắng xuống, vụ án MobiFone mua lại 95% cổ phần AVG lại làm dư luận xôn xao bàn tán. Lần này theo kết luận điều tra của công an, hai cựu bộ trưởng bộ 4T đều có nhận tiền đền ơn của Phạm Nhật Vũ lúc đó là chủ tịch AVG. Cụ thể Nguyễn Bắc Son đã nhận 3 triệu đô-la chia làm nhiều lần, riêng Trương Minh Tuấn thì khiêm nhường hơn chỉ bỏ túi 200 ngàn. Cuộc điều tra còn ghi nhận Lê Nam Trà cựu Chủ Tịch HĐTV MobiFone đã nhận từ Phạm Nhật Vũ 2,5 triệu Mỹ Kim sau khi thương vụ hoàn thành và Cao Duy Hải cựu Tổng Giám Đốc MobiFone được biếu 500 ngàn đô-la. Tổng cộng Vũ đã thảy ra 6 triệu 200 ngàn Mỹ Kim cho các quan chức nhà nước một cách nhẹ nhàng. Đây là một vụ tham nhũng được dư luận chú ý nhiều nhất sau màn Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh bị lôi ra trước vành móng ngựa vào đầu tháng Giêng, 2018. Tại sao? Thứ nhất, vì đây là lần đầu tiên số tiền thất thoát mà thực ra là tiền tham ô trong thương vụ ma quỷ này lên đến 7 ngàn tỷ VND. Vì giá trị thực của AVG chưa tới 2.000 tỷ đồng, thay vì 16.000 tỷ nghĩa là nó được định giá sai đến 8 lần để MobiFone làm căn cứ mua AVG. Món tiền gần 400 triệu đô-la lẽ ra còn được chia chác nhau giữa liên minh ma quỷ nhưng cuối cùng chúng nuốt không trôi. Chúng nuốt không trôi vì sự buôn bán mờ ám bị lôi ra ánh sáng và chúng thoả thuận với nhau, AVG phải hoàn trả đủ tiền cho MobiFone. Thứ hai, đây cũng là lần đầu tiên số tiền tham nhũng được các quan chức lãnh đạo hàng cao cấp thừa nhận lên tới con số 6 triệu 200 ngàn Mỹ Kim cho cả 4 người. Người ta tin rằng đây chỉ là tiền “đền ơn đáp nghĩa” cho các quan chức nhà nước trong giai đoạn bôi trơn. Nếu nội vụ trót lọt, sự chia chác ắt phải đậm đà hơn nhiều. Thiên hạ phải giật mình vì cú đánh đưa đến một kết quả khá ngoạn mục của người đốt lò. Chứ mấy trận trước, người ta chỉ nghe nói nhà nước thất thoát hàng tỷ đồng mà hoàn toàn không biết những tham quan bị truy tố đã thực sự “xơ múi” bao nhiêu. Và nhất là số tiền thu hồi sau đó được báo cáo là thật thấp. Riêng trường hợp cựu Bộ Trưởng Bộ 4T Nguyễn Bắc Son trong vụ này đã khai nhận đớp 3 triệu Mỹ Kim và nói món tiền ấy đã đưa cho người con gái nhiều lần. Nhưng người này từ chối và khai không hề nhận được số tiền nào từ ông cha. 3 triệu đô-la ấy hiện nay cuộc điều tra của công an cũng không tìm thấy, chúng mất tích một cách bí ẩn, thách thức khả năng thu hồi tài sản của cơ quan thi hành án sau này. Thứ ba, lần đầu tiên câu nói “hy sinh đời bố – củng cố đời con” bị bẻ cua một cách chua chát. Đó là chuyện cựu Bộ Trưởng Son khai nhận 3 triệu và đã đưa cho con gái. Lời khai này thực sự đẩy đứa con ông ta vào vòng nguy hiểm mà đáng lý ra trong mối quan hệ cha con ông Son không nên làm như vậy. Nếu mình đã có gan nhận hối lộ thì mình làm mình chịu, sao lại đổ tội cho con. Cho dù đứa con ấy có nhận và hưởng hết số tiền ấy chăng nữa thì đó cũng là điều đúng theo quy luật chế độ xưa nay…”hy sinh đời bố”. Ở khía cạnh khác, rõ ràng ông Son phải khai là đã đưa tiền cho con vì bản thân bị hăm doạ có thể bị mức án tử hình về tội nhận hối lộ. Nhưng trong trường hợp này đứa con phủ nhận, do đó công an cũng không tìm ra chứng cớ nào để buộc tội và truy tố. Nhưng điều khó khăn hơn hết cho cuộc điều tra là không tìm thấy tông tích số tiền 3 triệu ấy cất giấu ở đâu hoặc chi tiêu vào việc gì. Vậy thử hỏi vì lý do gì mà ông Son lại khai đưa tiền cho đứa con gái? Chỉ có một lý do duy nhất là Son không thể khai thật là mình lấy 3 triệu ấy mang chia cho các đàn anh như Nguyễn Tấn Dũng hay Lê Đức Anh để được bao che cho cái ghế bộ trưởng bộ 4T. Dùng tiền hối lộ để mua sự bao che của cấp trên phòng khi cần đến là hợp “quy trình” của hệ thống cộng sinh trong giới cán bộ đảng. Vả chăng 3 triệu đô nho nhỏ ấy cũng chỉ là tiền chùa, anh Son tin chắc mình sẽ còn nhiều hơn trong món hời 7.000 tỷ mà Phạm Nhật Vũ vớ được trong đó có công của Son. Nay anh Son bí quá nên đành khai đưa hết tiền cho con gái tưởng cho yên chuyện, không ngờ về mặt pháp luật và đạo đức gia đình phải chịu búa rìu dư luận với đủ mọi điều chê trách. Hoá ra anh Son chẳng làm đúng câu “củng cố đời con” chút nào! Phạm Nhật Bình https://viettan.org/hy-sinh-doi-bo-cung-co-doi-con/
......

Nắn gân Ba Dũng?

Ảnh thiếu gia’ Tô Công Lý Trúc Giang  (VNTB) Tin tức bắt ‘thiếu gia’ Tô Công Lý ở Cà Mau, là đòn ‘nắn gân’ cô con gái rượu của cựu thủ tướng Ba Dũng?   Dân làm ăn xứ miền Tây gọi người cha của ông Tô Công Lý bằng cái tên thân mật là ‘ông Sáu’, tức ông Tô Hoài Dân. Ông Sáu có mối quan hệ rất thân tình với ông Ba Dũng, thời ông Ba còn đóng lon Thiếu tá, Trưởng Ban cán bộ - Phó Bí thư Đảng ủy Phòng Chính trị của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang.   Ông Sáu Tô Hoài Dân lập công ty ở tỉnh Cà Mau, và được người xứ Bạc Liêu nhắc đến nhiều với dự án cánh đồng điện gió ở bờ biển Vĩnh Trạch Đông, Bạc Liêu.    Ngay trong ngày được cho là Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã bắt ông Tô Công Lý, 35 tuổi, phó tổng giám đốc Công ty TNHH Xây dựng - thương mại - du lịch Công Lý (trụ sở tại phường 8, TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau), để điều tra hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì cũng ngay sáng hôm đó 18-8 tại Bạc Liêu, cựu chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến làm việc với ông Tô Hoài Dân tại Nhà máy Điện gió Bạc Liêu.   Cùng đi với ông Tư Sang có ông Phan Văn Sáu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng. Đón tiếp ông Tư Sang có các lãnh đạo tỉnh Bạc Liêu như Nguyễn Quang Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Dương Thành Trung, Chủ tịch UBND tỉnh và ông Tô Hoài Dân.   Dự án điện gió Bạc Liêu hình thành với phần hỗ trợ vốn của Ngân hàng Xuất - nhập khẩu Hoa Kỳ (US-Exim) – kết quả từ sự ‘vận động’ của bà Nguyễn Thanh Phượng, con gái của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tập đoàn General Electric (Hoa Kỳ) là nhà cung cấp thiết bị tua bin gió.   Giai đoạn ông Ba Dũng giữ chức Thủ tướng, thì ngoài dự án điện gió Bạc Liêu, Ngân hàng US Exim còn chấp nhận đề xuất từ chính phủ Việt Nam về việc Công ty Công Lý làm đầu mối cho dự án Trung tâm điện gió đồng bằng sông Cửu Long tại các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh với tổng vốn đầu tư tương đương hơn 25 ngàn tỷ đồng Việt Nam.   Tuy nhiên sau khi ông Ba Dũng trở về ‘làm người tử tế’, thì đối tác ở giai đoạn III của dự án điện gió Bạc Liêu lại là Tập đoàn Super Wind Energy Thái Lan, với bên ‘vận động’ giờ đây là Vũ Chí Hùng, người con rể của ông Bảy Nguyễn Xuân Phúc.   Tin tức báo chí cho biết công an bắt ông Tô Công Lý nhằm để làm rõ hành vi lừa đảo chiếm đoạt hàng chục tỉ đồng tại dự án nhà máy xử lý rác thải Cà Mau. Ông Lý bị cáo buộc lợi dụng chính sách hỗ trợ 50% kinh phí đầu tư nhà máy của nhà nước, để chiếm đoạt tiền đối với một số hạng mục xây dựng của nhà máy.   Cái lạ ở đây là nhà máy xử lý rác thải Cà Mau đã được nghiệm thu và hoạt động từ năm 2012, tổng công suất xử lý 200 tấn rác mỗi ngày. “Phải chăng vì thời gian đó ông Ba vẫn còn là Thủ tướng nên người ta ngại đụng đến ông Sáu Dân?”. Một luật sư quê gốc Cà Mau, thắc mắc.   Xem ra sắp vào nhiệm kỳ mới của Đảng, ở Việt Nam lại lắm chuyện ‘trâu bò húc nhau…’.  
......

Bà Đặng Thị Hoàng Yến kiện chính phủ Việt Nam hay kiện cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng?

Ảnh 'Đại gia mất tích' Đặng Thị Hoàng Yến Trúc Giang - Việt Nam Thời Báo (VNTB) - Dẫn nguồn tin từ Văn phòng Luật sư “Law Offices of Charles H. Camp, P.C.”, Hãng truyền thông PR Newswire đưa tin khá sốc về việc cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị kiện qua bài báo có tựa “American Economist Launches Over $2.5 Billion Arbitration Against Former Vietnamese Prime Minister Nguyen Tan Dung” [https://www.prnewswire.com/news-releases/american-economist-launches-over-2-5-billion-arbitration-against-former-vietnamese-prime-minister-nguyen-tan-dung-300913524.html]   PR Newswire có văn phòng đại diện tại Việt Nam, đặt ở lầu 8, Le Meridien Building, số 3 C Tôn Đức Thắng, quận 1, TP.HCM.   Một bài viết có nội dung tương tự trên trang chuyên môn của giới trọng tài quốc tế, rút tít khá mạnh mẽ kèm hình bìa bản tin là khuôn mặt ông Nguyễn Tấn Dũng: “Vietnam’s ex-prime minister hit with claim over power project” – dịch thoáng sang tiếng Việt là “Thủ tướng Việt Nam bị đánh vì dự án điện” [https://globalarbitrationreview.com/article/1197236/vietnam%E2%80%99s-ex-prime-minister-hit-with-claim-over-power-project] Vì sao không kiện chính phủ Việt Nam?   Xét từ góc độ pháp lý, đây là một vụ kiện lý thú vì nó đặt ra nhiều vấn đề pháp lý mới mẻ, mà chỉ đọc được tài liệu vụ kiện mới có thể phân tích thấu đáo các cơ sở khởi kiện mà luật sư nguyên đơn đã sử dụng để khởi động một vụ kiện vô tiền khoáng hậu như vậy liên quan đến Việt Nam.   Theo bản tin Anh ngữ, các luật sư nguyên đơn trong vụ thưa kiện quốc tế này là: Charles H. Camp (Washington, DC), Tiến sĩ Jalal El Ahdab (Paris), Anthony Buzbee (Houston), Chris Leavitt (Houston) và Minh-Tam (Tammy) Tran (Houston).   Việc kiện cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng theo trình tự tố tụng trọng tài, là yêu cầu của bà Maya Dangelas, quốc tịch Mỹ, được biết với tên Việt Nam là Đặng Thị Hoàng Yến, chủ tịch Công ty cổ phần Năng lượng Tân Tạo (TEC). Cựu đại biểu Quốc hội Việt Nam Đặng Thị Hoàng Yến và Cựu Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. (Ảnh VOA)   Bản tin Anh ngữ của PR Newswire nói rằng bà Đặng Thị Hoàng Yến kiện vì cho rằng khi còn làm Thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng từng hủy bỏ trái phép hợp đồng với TEC trong dự án Nhiệt điện Kiên Lương tại tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.   Thắc mắc ở đây là tại sao bà Đặng Thị Hoàng Yến không kiện chính phủ Việt Nam, mà lại kiện cá nhân ông Nguyễn Tấn Dũng trong giai đoạn là thủ tướng? Bởi sau đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng có văn bản đồng ý theo đề nghị của Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang về việc thu hồi dự án Trung tâm Nhiệt điện Kiên Lương tại xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.   Phải chăng trong các thỏa thuận ký kết của dự án Nhiệt điện Kiên Lương, có các điều khoản mang tính cách cá nhân giữa ông Nguyễn Tấn Dũng với bà Đặng Thị Hoàng Yến?   Một ngờ vực khác, phải chăng động thái khởi kiện ông Nguyễn Tấn Dũng là nằm trong nghi vấn ở bản công bố báo cáo tài chính soát xét bán niên của Công ty cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo - Itaco (ITA) do bà Đặng Thị Hoàng Yến làm chủ tịch, có một điểm mà kiểm toán đặc biệt lưu ý, là về khả năng thu hồi khoản đầu tư và phải thu từ 2 công ty có liên quan với tổng trị giá hơn 3,5 ngàn tỷ đồng. Kiểm toán nghi ngờ khả năng thu hồi khoản tiền khổng lồ liên quan đến dự án Nhiệt điện Kiên Lương.   Chính phủ Việt Nam hầu tòa quốc tế cũng thường rồi mà!   Đó là nhận định của ông Phạm Mạnh Dũng – Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, cựu Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).   Theo ông Phạm Mạnh Dũng, pháp luật quốc tế nói chung, nhà đầu tư không được quyền kiện một quốc gia. Tuy nhiên, để khuyến khích đầu tư nước ngoài, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã ký các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương với nước ngoài, trong đó từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia trong trường hợp xảy ra tranh chấp với nhà đầu tư nước ngoài. Điều này dẫn đến việc, một khi tranh chấp xảy ra, Nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiện chính phủ Việt Nam ra trọng tài quốc tế.   Theo lẽ thường, khi hoạt động đầu tư nước ngoài càng phát sinh đa dạng, phong phú, sôi động, thì số lượng, tần suất, giá trị các tranh chấp đầu tư nước ngoài cũng tăng lên. Và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.   “Trong trường hợp dự án Nhiệt điện Kiên Lương là vốn hoàn toàn do doanh nghiệp trong nước đầu tư, do đó việc chọn một tòa trọng tài quốc tế để xử lý các tranh chấp như bài báo trên PR Newswire đưa tin, cá nhân tôi cảm giác có gì đó không ổn ở chỗ dường như bị đơn ở đây đang nhắm tới cá nhân ông Nguyễn Tấn Dũng.   Nếu tòa tuyên ông Dũng sai, thì khả năng thi hành án như thế nào?”. Luật sư Trần Thành (Đoàn Luật sư TP.HCM), thắc mắc và lưu ý chuyện Việt Nam đã trúng cử là thành viên của Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL) nhiệm kỳ 2019-2025.   Trong lúc đó thì một tài liệu mà báo chí có được, phía Bộ Công thương có đưa ra phương án thu hồi dự án Nhiệt điện Kiên Lương. Theo đó, nhà nước khẳng định lỗi thuộc về chủ đầu tư, ra quyết định thu hồi chủ trương đầu tư và không đàm phán bồi thường.   Thuận lợi của phương án này là không phải bồi thường cho chủ đầu tư nếu có đầy đủ cơ sở pháp lý chặt chẽ khẳng định lỗi hoàn toàn do chủ đầu tư. Khó khăn là khó có đủ cơ sở pháp lý chặt chẽ để đưa ra quyết định thu hồi và dễ xảy ra tranh chấp.   Kết quả là vào cuối năm 2018, phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã đi đến quyết định chọn phương an thu hồi dự án, không đàm phán bồi thường, với lý do tính chất đặc thù của dự án BOT điện, nên khi dự án chưa hoàn thành thủ tục, chưa ký hợp đồng BOT với Bộ Công thương thì về phía Bộ Công thương và Chính phủ không có lý do gì mà bồi thường.   Lùm xùm chuyện gì ở dự án Nhiệt điện than Kiên Lương?   Một số thông tin liên quan về dự án Nhiệt điện Kiên Lương được giải trình tại phiên họp đại hội cổ đông thường niên năm 2019, tổ chức hôm 28/6/2019 của Công ty cổ phần Đầu tư công nghiệp Tân Tạo, thì thông qua người nhận ủy quyền là ông Đặng Thành Tâm, thông báo bà Đặng Thị Hoàng Yến có kế hoạch thoái toàn bộ vốn đầu tư tại nhiều dự án, bao gồm cả dự án Nhiệt điện Kiên Lương.   Một trong những lý do khiến bà Đặng Thị Hoàng Yến muốn thoái vốn là: “This filing aims to hold former Prime Minister Nguyen Tan Dung accountable for his actions in both his official and personal capacities. As a result, my client's loss of investment monies and profits are a direct result of the Prime Minister's actions in both his official and personal capacities” - PR Newswire dẫn lời của Tony Buzbee, Văn phòng Luật sư “Law Offices of Charles H. Camp, P.C.”, về cáo buộc đích danh cá nhân ông Nguyễn Tấn Dũng (lược dịch): “Hồ sơ này nhằm buộc cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chịu trách nhiệm về hành động của mình trong đưa ra các quyết định liên quan dự án đầu tư. Việc nhà đầu tư bị thiệt hại về vốn, về lợi nhuận chính là hệ lụy từ năng lực quản trị của thủ tướng”.   Theo tài liệu mà báo chí có được, trong báo cáo số 1488/UBND-KTTH tháng 9/2017, UBND tỉnh Kiên Giang cho rằng giai đoạn 2009 – 2013, chủ đầu tư dự án Nhà máy nhiệt điện Kiên Lương 1 và 2 là TEC đã chi tổng số 77,2 tỷ đồng để giải phóng mặt bằng một phần và san lấp địa điểm xây dựng, khoảng 60 ha diện tích ven biển cho khu vực chính xây nhà máy nhiệt điện.   Trong khi đó, báo cáo của TEC gửi Thủ tướng hồi tháng 5/2017 thì cho biết đã đầu tư trên 270 triệu USD, khoảng hơn 6.300 tỷ đồng. Số liệu giữa báo cáo của tỉnh Kiên Giang và TEC đang chênh nhau tới 81 lần.   Theo TEC, có tới 6.300 tỷ đồng dùng để hoàn thành 146 thủ tục pháp lý từ Trung ương đến địa phương; khảo sát, xây dựng báo cáo khả thi dự án; hoàn thành 98% giải phóng, san lấp mặt bằng; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh,  sẵn sàng thi công nhà máy, thu xếp vốn, nguồn than cho dự án và tổ chức đấu thầu, lựa chọn nhà thầu EPC quốc tế...   Báo cáo tháng 9/2017 của tỉnh Kiên Giang còn cho hay tỉnh hiện không thể liên lạc được với chủ đầu tư dự án TEC để trao đổi, bàn hướng xử lý vướng mắc dự án.   Theo hồ sơ, dự án Nhà máy Nhiệt điện Kiên Lương bắt đầu đình trệ từ cuối năm 2011, và có chuyển biến mới khi Thủ tướng cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư sang BOT vào tháng 2/2014.   Tháng 12/2015, Bộ Công Thương và TEC ký kết biên bản ghi nhớ về việc phát triển dự án Kiên Lương 1 theo hình thức BOT với thời hạn hiệu lực 48 tháng. Tuy nhiên, sau lễ ký kết này, TEC đã không thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư nào. Từ cuối 2011, chủ đầu tư không nộp tiền sử dụng đất và cũng không xin gia hạn nộp theo quy định. Còn dự án Kiên Lương 2 chưa làm công tác chuẩn bị đầu tư do không có trong Quy hoạch điện VII (điều chỉnh).     Với dự án Cảng nước sâu Nam Du, ngoài việc khảo sát thực địa, đo đạc ngoại nghiệp và lên phương án bồi thường giải phóng mặt bằng lấy ý kiến hoàn chỉnh, đến nay TEC chưa triển khai thêm gì. Do đó, năm 2016 tỉnh Kiên Giang kiến nghị Thủ tướng không đưa Nhà máy nhiệt điện than Kiên Lương vào quy hoạch phát triển điện lực 2011-2020 có xét đến năm 2030 và Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020 xét triển vọng đến năm 2030. Tỉnh cũng đề nghị thu hồi chủ trương đầu tư Cảng nước sâu Nam Du.   Ngay tại Việt Nam, TEC đã ‘đổ thừa’ tại Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng   Ngày 31/8/2018, TEC đã có công văn gửi Bộ Công thương cho rằng, việc loại bỏ dự án Kiên Lương 1 ra khỏi Quy hoạch điện VII điều chỉnh là nguyên nhân chính dẫn đến dự án không thể triển khai được.   Về các cáo buộc của chính quyền tỉnh Kiên Giang, TEC khẳng định là không chính xác. Theo đó, dự án nhiệt điện này đã được Chính phủ giao cho TEC nghiên cứu, đầu tư và phát triển. Đến năm 2014, để tháo gỡ vướng mắc cho dự án về việc cấp bảo lãnh của Chính phủ (GGU), TEC đã chấp nhận chuyển sang đầu tư theo hình thức BOT để dự án sớm được triển khai.   “Ngay sau đó, TEC đã đàm phán Biên bản ghi nhớ Phát triển Dự án (MOU) với Tổng cục Năng Lượng và đã ký kết MOU vào tháng 12/2015 và thống nhất ngày vận hành thương mại dự án vào năm 2025”, một báo cáo gửi Bộ Công Thương của TEC cho biết.   Đáng lưu ý, theo TEC, ngay sau khi ký MOU, trong lúc TEC đang tích cực triển khai dự án thì ngày 29/1/2016, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bất ngờ quyết định rà soát loại bỏ dự án nhiệt điện Kiên Lương 1 khỏi Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) theo thông báo số 26/TP-VPVP của Văn phòng Chính phủ và Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/3/2016. Ngay sau đó, TEC cũng cho biết đã có 9 văn bản báo cáo Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các bộ ngành liên quan về dự án này.   Theo TEC, chính quyết định loại bỏ dự án Kiên Lương 1 ra khỏi Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) là nguyên nhân chính dẫn đến việc dự án không thể triển khai được.   Bình luận về văn bản phản ứng trên của TEC, một số chuyên gia am hiểu về dự án này cho rằng, những ý kiến của TEC cũng cần xem lại, vì khi rút dự án Kiên Lương 1 ra khỏi quy hoạch điện thì khi đó, dự án mới chỉ nằm trên ý tưởng và mới có văn bản ghi nhớ, chưa chưa có một quyết định đầu tư nào. Và cho đến nay, khu vực dự án vẫn hầu như chưa có gì, nên khó có thể ghi nhận là nhà đầu tư đã bỏ ra hàng trăm triệu USD.   Trong một diễn biến khác, giới chuyên gia cũng nhận định trong thời điểm này, khu vực đồng bằng sông Cửu Long không cần thêm bất cứ nhà máy nhiệt điện than nào nữa, vì đã ‘bội thực’. Trong đó, chỉ riêng khu vực lân cận đã xuất hiện hàng loạt dự án nhiệt điện như: Duyên Hải 2, Duyên Hải 3, Sông Hậu 1, Sông Hậu 2, Sông Hậu 3; Long Phú 2…   Chưa kể đến địa hình tại Kiên Lương có nhiều yếu tố phức tạp, không phù hợp cho việc đặt các dự án nhiệt điện than; như địa chất không ổn, tàu vận chuyển than khó vào và không dễ dàng để kết nối đường dây 220 KV ở đây.   “Thời điểm cách đây 10 năm, trên thị trường đang sôi động đầu tư cho các dự án nhiệt điện than tại đồng bằng sông Cửu Long. Tập đoàn Tân Tạo đã đăng ký và được sự đồng ý của Bộ Công Thương cho đầu tư dự án Nhà máy Nhiệt điện Kiên Lương 1. Tuy nhiên, bây giờ thì không còn phù hợp nữa. Nếu có thưa gửi liên quan chuyện đầu tư này, bị đơn phải là chính phủ Việt Nam.   Việc đổ thừa cho ông Nguyễn Tấn Dũng là không hợp lý, vì sau đó người tích cực cho thu hồi dự án này là phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng. Ông Nguyễn Tấn Dũng ngay sau khi ký phê duyệt Đề án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 của Bộ Công thương, là ông đã nghỉ hưu…”. Luật sư Trần Thành biện luận.   Tính đến hiện tại, Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa thấy lên tiếng về vụ thưa kiện nói trên.  
......

Phải chăng đảng chỉ là công cụ?

Nguyễn Đình Cống| Trong bài “Trò chuyện với ông Mahathir” tôi có viết rằng, “đảng chỉ là công cụ”. Ông từ bỏ đảng cũ như cởi một chiếc áo rách và bẩn. Viết bài này tôi xin bàn thêm. Đảng là công cụ của ai? Thưa rằng, là của một người hoặc một nhóm các chính trị gia. Họ lập ra đảng và điều hành nó nhằm phục vụ cho các ý đồ chính trị. Tại các nước đa đảng thì điều này là khá rõ ràng. Còn đối với các nước độc đảng theo chủ nghĩa Mác Lê thì sao, phải chăng các đảng đó cũng chỉ là công cụ? Đảng theo chủ thuyết Mác, dù lấy tên là Cộng sản, Lao động hay tên khác, thì cũng đều theo hình mẫu “đảng kiểu mới” do Lê Nin vạch ra, đó là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đảng lãnh đạo cách mạng vô sản. Người ta đưa ra các khái niệm giai cấp lãnh đạo, đảng lãnh đạo. Người ta tôn đảng thành một tổ chức thiêng liêng. Đó là những nhầm lẫn vô cùng tai hại. Khái niệm giai cấp lãnh đạo đã tỏ ra là một ngụy biện bậc cao, một sự lừa bịp nguy hiểm. Khái niệm đảng lãnh đạo là mơ hồ. Khi chưa giành được chính quyền thì sự lãnh đạo của đảng thông qua việc đề ra đường lối rồi tuyên tuyền, vận động thực hiện. Khi đã có chính quyền thì sự lãnh đạo cũng bắt đầu bằng việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, soạn ra các nghị quyết rồi thông qua hệ thống chính quyền để thực hiện, bằng cách biến các nghị quyết của đảng thành luật pháp, bằng công tác chính trị tư tưởng, bằng kiểm tra. Gốc gác nhất, quan trọng nhất của lãnh đạo là “đề ra đường lối”. Vậy đảng hay ai đề ra nó? Đảng là một tổ chức. Tổ chức thì cụ thể, nhưng nói đảng đề ra đường lối thì đảng ở đây lại không cụ thể mà chỉ là một cái tên. Một đường lối nào đó mang danh là của đảng thì không phải do tổ chức đảng đề ra. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách đều bắt đầu bằng ý tưởng của một người hoặc của một nhóm nhỏ người. Dù ban đầu có nhiều người cùng suy nghĩ thì tại một nơi cũng chỉ có một người đề xuất đầu tiên (có thể tại các nơi khác nhau có vài người cùng đề xuất), sau đó họ thảo luận, bổ sung, sửa đổi, để trở thành ý kiến tập thể của một nhóm người. Rồi đường lối đó được phổ biến cho toàn đảng. Thề là thành đường lối của đảng. Như vậy đảng chỉ nhận vờ. Thực sự của việc đề ra đường lối của việc lãnh đạo là của một người hoặc một nhóm người ở trên cao. Đó là Lãnh tụ, là Bộ Chính trị. Vậy phải chăng sự lãnh đạo là của một nhóm các chính trị gia, còn đảng là công cụ của họ. Nêu ra ý kiến trên đây tôi hy vọng góp phần xóa ý tưởng cho rằng, đảng là vô cùng thiêng liêng, xóa nỗi lo “thà mất nước còn hơn mất đảng”. Tôi thiết tha mong muốn các nhà nghiên cứu chính trị, các học giả phản biện và làm sáng rõ vấn đề này. Về đảng CSVN, người ta tuyên truyền rằng, Dân tộc VN đã sinh ra nó. Tôi nghĩ có lẽ không phải. Nó là sản phầm ngoại lai, được nhập vào trong lòng dân tộc. Ban đầu, nhờ ẩn nấp vào lòng yêu nước nó được dân tộc cưu mang, nhưng rồi khi nắm được chính quyền thì những người ở trên chóp bu của đảng đã vì ý thức hệ mà biến nó thành công cụ để thống trị , tự đặt mình cao hơn Dân tộc. Liệu một dân tộc có lịch sử quật cường như Dân tộc Việt Nam có chấp nhận mãi điều này, đem một loại công cụ để thờ tự trên cả Tổ tiên.    
......

Một bài toán mà ĐCSVN không bao giờ giải nổi

Van Nga DO| Việt Nam có vị trí gần Trung Quốc, điều đó không thể thay đổi. Chuyện tranh chấp không thể nào tránh khỏi. Với kẻ yếu như Việt Nam, nếu tranh chấp tay đôi với Trung quốc không thể có sự công bằng cho mình được. Liên minh quân sự với kẻ mạnh hơn Trung Cộng để tìm lợi thế cho mình là cách duy nhất để Việt Nam đứng vững. Nhật và Hàn đã nhìn ra hướng giải quyết này từ rất sớm, và họ đã có bước đi vững chắc. Đó là bài học cho Việt Nam. Thực tế trên thế giới, đất nước nào tiến bộ thì chính quyền đó tử tế. Luôn có mối quan hệ hữu cơ rất chặt chẽ giữa sự tử tế của chính quyền với sự cường thịnh của quốc gia đó. Chính vì vậy, mà chúng ta thấy rằng, Mỹ luôn chọn kẻ giàu để chơi, bởi vì họ chọn kẻ giàu cũng đồng nghĩa với việc họ chọn kẻ tử tế. Trong mối quan hệ hợp tác, chỉ có những kẻ tử tế cộng tác với nhau thì mới có được thế trận cả 2 cùng thắng win-win. Còn một khi có 1 trong 2 hoặc cả 2 kẻ hợp tác đều là phường lưu manh thì ắt sẽ xuất hiện hiện tượng lừa gạt nhau, lợi dụng nhau, ỉ mạnh bắt hiếp yếu vv.. Mối quan hệ Việt Trung là hình mẫu của sự bắt tay giữa phường lưu manh với nhau như thế. Trên thế giới, chúng thấy rằng mối quan hệ giữa Mỹ -Nhật, Mỹ – Hàn vẫn chặt chẽ hơn mối quan hệ Mỹ – Phi. Vì thiếu tầm nhìn nên năm 1992, Philippines đã để Mỹ rút quân hoàn toàn khỏi căn cứ Subic, để rồi hôm nay Trung Quốc lộng hành Biển Đông mà chẳng làm gì được họ ngoại trừ kiện. Như vậy qua đây chúng ta thấy, để giải bài toán làm sao Việt Nam đứng vững trước Trung Cộng thì bắt buộc Việt Nam phải liên minh quân sự với Mỹ. Mà để liên minh với kẻ tử tế thì trước hết mình phải là kẻ tử tế. Với chất lưu manh trở thành gene duy truyền thì mãi mãi ĐCS không làm được một chính quyền tử tế được. Những cuộc gặp gỡ cấp cao giữa người đứng đầu nhà nước Việt Nam và tổng thống Hoa Kỳ nếu nhìn sâu vào bản chất, thì nó là một sự cầu cạnh. Phía Việt Nam mỗi khi muốn gặp thì bộ ngoại giao Việt Nam vận động hành lang rất mạnh để có được cái gật đầu của tổng thống Mỹ. Cần phải biết, trong các cuộc gặp gỡ ấy, dù cho đó là Mỹ đến thăm Việt Nam hay phía Việt Nam sang Mỹ thì luật chơi không bao giờ thay đổi, Mỹ vẫn là kẻ ra giá và Việt Nam phải là kẻ trả giá. Thực tế, Mỹ đã ra giá quá cao, với tầm của ĐCS thì không bao giờ với tới được. Chính vì thế mà mối quan hệ này chỉ dừng lại ở việc mở rộng buôn bán, còn vấn đề hợp tác với Mỹ để mang lại sự an toàn cho Việt Nam trước Trung Cộng thì vẫn đang là con số zero tròn trĩnh. Thực ra không phải Việt Nam không muốn nhích lại gần Mỹ, mà đúng hơn là Mỹ không muốn kết thân với một kẻ lưu manh như Việt Nam. Kết thân gì với thằng mà trong nước của nó nó chửi mình, nhưng khi gặp mình nó năn nỉ vuốt ve? Nói thẳng ra là CSVN không đủ độ tử tế để kiếm một quan hệ chặt chẽ hơn với Mỹ. Cho nên mối quan hệ Mỹ – Việt chỉ tới như vậy thôi không thể tiến xa hơn. Thực ra bảo CS tử tế thì còn khó hơn lên trời hái sao, vì vậy mà bài toán chọn đồng minh để cân bằng tiếng nói với Trung Cộng đang là một bài toán hoàn toàn bế tắc đối với chính quyền Hà Nội. Tuy đi khắp nơi bắt tay để khè với dân Việt rằng “Thấy chưa! Đảng có nhiều bạn chưa?”, nhưng thực chất trong một rừng cái bắt tay xã giao đó CSVN không không hề có mối quan hệ khăng khít nào cả, CSVN đang rất đơn độc. Chính sách 3 không “không tham gia các liên minh quân sự với bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia” theo tôi chưa hẳn là Ba Đình muốn vậy, mà đó là vì trong tình thế chơ vơ không có ai để bấu víu nên đành xổ ra cái chính sách 3 không ấy cho oách rằng “bởi tao không thèm chơi với kẻ khác chứ chẳng phải không ai chơi với tao à nha” đại khái là ý đồ của họ như vậy. Thực chất mối quan hệ với Mỹ không hề có tiến triển, “trong cái khó ló cái khôn”, và một trong “cái khôn” đó của Hà Nội là, giật lấy tấm khiên của các anh cường quốc để che chắn cho mình. Nghĩa là sao? Nghĩa là Hà Nội mời các công ty dầu khí từ các cường quốc như Anh, Tây Ban Nha, Mỹ, Nga đến để án ngữ tại vị trí tranh chấp, và ĐCSVN nghĩ rằng, với những tấm khiên như BP, Repsol, ExxonMobil thì Trung Cộng sẽ ngại đụng tới- một kế sách khá ma lanh. Thế nhưng Hà Nội đã lầm, dù cho có tấm khiên made in USA nhưng Trung Cộng giật văng hết mà không hề ngán ngại. Những BP, Repsol, ExxonMobil lần lượt đều rút chạy làm ĐCSVN phải vơ vét tiền dân đền bù cho những công ty này vì đã phá vỡ hợp đồng. Một nước cờ sai của ĐCS đã dẫn đến tiền mất tật mang cho đất nước. Rõ ràng chúng ta thấy rằng, với bản chất lưu manh lọc lõi của ĐCSVN, họ không thể nào giải quyết được bài toán bảo vệ chủ quyền cho đất nước vì đơn giản họ không thể làm chính quyền tử tế được. Phải khẳng định rằng, còn CS thì Việt Nam chỉ có nhường cho Trung Cộng mỗi khi con quái thú này đòi hỏi mà không có cách nào để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Và thực tế, về lâu về dài, ĐCS đã để chủ quyền đất nước ngày càng bị teo tóp. ĐCS cũng biết họ bất lực, nhưng vì tham lam và đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi đất nước mà họ quyết không từ bỏ độc quyền cai trị. Bài toán chủ quyền và sự trường tồn của dân tộc, đó là bài toán của 100 triệu dân giải quyết ĐCS chứ không phải là bài toán của ĐCS./. Nguồn ảnh https://chantroimoimedia.com
......

Rạng Đông thừa nhận sử dụng thủy ngân lỏng, viết thư xin lỗi lãnh đạo thành phố

Hiện trường nhà kho bên ngoài sau vụ cháy nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông ở Hà Nội (Courtesy of baotainguyenmoitruong.vn) RFA| Lãnh đạo công ty Bóng đèn Phích nước Rạng Đông thừa nhận đã sử dụng thủy ngân lỏng trong 480.000 bóng đèn huỳnh quang bị cháy trong vụ hỏa hoạt xảy ra tại nhà máy này đêm hôm 28 tháng 8 vừa qua. Truyền thông trong nước hôm 8/9  trích thông tin từ Tổng cục Môi trường  - Bộ Tài nguyên và Môi trường cho hay. Cụ thể, tại buổi làm việc của Tổng cục Môi trường với lãnh đạo công ty Rạng Đông hôm 31/8, lãnh đạo công ty thừa nhận đã sử dụng thủy ngân lỏng với hàm lượng 20 mg/bóng cho 480.000 bóng đèn huỳnh quang, và sử dụng Amalgam cho 1.600.000 bóng đèn compact, cùng một số nguyên liệu và hóa chất độc hại khác. Amalgam là hỗn hống của thủy ngân, kẽm và Bismut. Hôm 4/9, Bộ Tài nguyên Môi trường công bố kết quả quan trắc và các mẫu lấy xung quanh khu vực xảy ra vụ cháy tại công ty Rạng Đông và xác định có khoảng từ 15,1 kg đến 27,2 kg thủy ngân bị phát tán ra môi trường. Bộ Tài nguyên – Môi trường khẳng định, tại một số thời điểm, quan trắc không khí trong khuôn viên nhà máy sau vụ cháy có lượng thủy ngân cao vượt ngưỡng khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Bộ Tài nguyên và Môi trường khuyến cáo người dân trong bán kính 500 m tính từ hàng rào nhà máy cần thực hiện các biện pháp phun rửa nhà cửa và đồ dùng; Người dân sống trong bán kính 200 m đến 500 m cần đi khám khi có dấu hiệu ngộ độc thủy ngân. Trong khi đó, vào ngày 6/9, Tổng giám đốc công ty Rạng Đông, ông Nguyễn Đoàn Thắng đã viết thư gửi đến lãnh đạo thành phố Hà Nội, phường Thanh Xuân Trung, Hạ Đình và quận Thanh Xuân, cùng các đơn vị, cơ quan, nhân dân hai phường để xin lỗi về hậu quả vụ cháy. “Sự cố hỏa hoạn xảy ra tại công ty chúng tôi đã làm bận tâm, phiền hà đến lãnh đạo thành phố, quận Thanh  Xuân, ảnh hưởng sức khỏe của lực lượng PCCC và đặc biệt tới nhân dân 2 phường sát công ty”, bức thư có đoạn viết. Lãnh đạo công ty viết tiếp: “Thay mặt Ban Lãnh đạo và toàn thể CBCNV Công ty CP Bóng đèn Phích nước  Rạng Đông qua thư xin lỗi này gửi lời xin lỗi của chúng tôi tới Thành ủy, UBND Thành phố Hà Nội, tới Đảng ủy, UBND Quận Thanh Xuân, UBND hai Phường Thanh Xuân Trung, Hạ Đình và bà con dân cư khu vực quanh Công ty”. Hiện vẫn chưa có số liệu thống kê chính thức được công bố về số người dân thực sự bị ảnh hưởng bởi vụ hỏa hoạn. Tin vào ngày 9 tháng 9 cho biết khoảng 300 học sinh tại trường tiểu học Hạ Đình được phụ Huynh cho nghỉ học vì sợ bị ô nhiễm thủy ngân. Phòng Giáo dục & Đào Tạo Quận Thanh Xuân thừa nhận có 320 học sinh trên tổng số hơn 1300 học sinh của trường nghỉ học, trong số này có hơn 220 em sống cách khu vực nhà máy Rạng Đông 500 mét. Thống kê cũng cho thấy có gần 90% hộ dân tại Chung cư 54 Hạ Đình, hơn 40% hộ dân tại Chung cư 143 Hà Đình và nhiều hộ dân, kinh doanh quanh khu vực Công ty Rạng Đông đã chuyển đi nơi khác sau vụ cháy hôm ngày 28 tháng 8. Cũng tin được loan đi vào ngày 9 tháng 9 thì Bộ Tư Lệnh Thủ đô đã phối hợp với Bộ Tư Lệnh Hóa Học, Bộ Quốc Phòng đã lấy hơn 20 mẫu môi trường tại khu vực bị cháy, cống nước thải của nhà máy Công ty Rạng Đông và Công ty Thể Thao Động lực, nước sông Tô Lịch tại Hà Nội để làm xét nghiệm, đánh giá hiện trạng ô nhiễm, làm cơ sở xây dựng phương án tiêu tẩy, khắc phục môi trường. RFA https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/rang-dong-admit-using-liquid-mercury-09082019113108.html **** KỊCH BẢN CỦA MỘT VỤ CHÁY... Trương Xuân Thiên Cậu nghe giang hồ đồn đại có rất nhiều đại gia đang khát đất vàng Hà Nội. Các nhà máy vang bóng một thời đều rơi vào tay các đại gia ăn đất. - Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo nay là Vincom. - Nhà máy cơ khí chính xác số 1 nay là Royal city. - Nhà máy dệt kim Hà Nội và dệt 8/3 nay là Time city - Công ty Viettronic Đống Đa (Láng Thượng - Nguyễn Chí Thanh) nay là Vincom plaza - Triển lãm Giảng Võ nay là Vinhomes city - Nhà máy xà phòng Hà Nội nay là Hoàng Huy Golden - Nhà máy dệt kim Mùa Đông nay là Goldseason city của TNR - Nhà máy xe đạp Thống Nhất nay là TN complex - Gara Transico nay là dự án 90 Nguyễn Tuân của đại gia Hoàng Mạnh Thắng Urinco 7 - Đất vàng Cao su Sao Vàng nay về tay Hoành Sơn. - Đất vàng của Giày Thượng Đình đã có chủ và chuẩn bị được công bố. Duy nhất chỉ còn Rạng Đông của ông già gân Nguyễn Đoàn Thăng, một anh hùng đúng nghĩa là chưa đại gia nào "nuốt trôi". Các doanh nghiệp bán đất vàng cho đại gia sau khi di dời không chết lâm sàng cũng làm ăn bết bát, èo uột hoặc đã phá sản. Ngược lại, Rạng Đông của "ông già gân", "anh hùng đúng nghĩa" Nguyễn Đoàn Thăng lại phát triển quá tốt. Có thể nói RAL là doanh nghiệp tốt nhất trong hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước vang bóng một thời được cổ phần hóa. Cuộc chạy đua nước rút với Điện Quang, Rạng Đông xuất phát sau nhưng đã vượt lên bỏ xa đối thủ. Chỉ trong 5 năm, RAL đã tăng doanh số từ 1000 tỉ lên 5000 tỉ, lợi nhuận từ 50 tỉ lên 300 tỉ, cổ tức thuộc top cao nhất so với hàng ngàn ông lớn niêm yết trên sàn. RAL là doanh nghiệp duy nhất trên toàn Việt Nam do công nhân, người lao động làm chủ. Công đoàn công ty hiện chiếm tới 42% cổ phần và là cổ đông lớn nhất, có tiếng nói quyết định. Đây là một mô hình quản trị đặc biệt bậc nhất Việt Nam. Rất nhiều "trùm sò" tài chính trong nước, các định thế tài chính quốc tế sẵn sàng chi tiền tấn để sở hữu 1 trong những doanh nghiệp tốt nhất Việt Nam này nhưng đều thất bại. Ông già gân Nguyễn Đoàn Thăng và công đoàn quyết từ chối tiền tấn để giữ lại hồn cốt doanh nghiệp. Vì thế, RAL tuy quy mô nhỏ nhưng luôn được Forbes xếp hạng 1 trong 50 doanh nghiệp niêm yết tốt nhất Việt Nam. Về chuyện 5,7 ha đất vàng RAL có thể quy đổi trong hệ quy chiếu với Cao su Sao Vàng. 6,2 ha đất vàng của Sao Vàng được định giá 1300 tỉ. Tuy nhiên đất của Sao Vàng mặt phố lớn, của RAL mặt ngõ nhỏ, sâu. Vì thế 5,7 ha này có thể bán tối đa 900 tỉ. Với 900 tỉ Công ty sẽ bị truy thu tiền chuyển đổi mục đích đất hàng trăm tỉ. Tiền thuế VAT 90 tỉ, tiền thuế thu nhập doanh nghiệp 23%. Như vậy, số tiền thực chất thu được không đáng là bao, không đủ để di dời nhà máy. Chủ đề di dời nhà máy luôn được đề cập trong các đại hội cổ đông của RAL và luôn bị cổ đông lớn phủ quyết. Quyết không bán mình cho các đại gia, ông già gân đang xin ý kiến cổ đông bằng văn bản bổ sung ngành nghề kinh doanh bất động sản để tự đầu tư nhằm tối ưu hóa lợi ích. Có thể, vì thế mà một vài đối tác hạng siêu trùm cuối đã ngắm nghía mảnh đất 5,7 ha này từ lâu cảm thấy phật ý. Và vụ cháy xảy ra đúng quy trình như tất cả chúng ta đã biết... Fb Chú Tễu  
......

‘Tổng Tịch’ Nguyễn Phú Trọng sẽ thăm Mỹ và ‘khoan dầu nuôi đảng?’

Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước CSVN Nguyễn Phú Trọng tiếp đón Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm 27 Tháng Hai, 2019, tại Hà Nội. (Hình: Getty Images) Phạm Chí Dũng - Người Việt| 9/9/2019 Đã bắt đầu manh nha vài tin tức vụn vặt về chuyến đi Mỹ của “Tổng Tịch” Nguyễn Phú Trọng, có thể diễn ra vào Tháng Mười 2019, tức trễ khoảng 4 – 5 tháng so với lịch dự định ban đầu cho chuyến đi này vào đầu năm 2019, một chủ đề chẳng có gì đặc biệt trong con mắt của giới quan sát chính trị và báo chí phương Tây. Giáo Sư Carl Thayer, một chuyên gia theo dõi chặt chẽ về những biến động chính trị ở Việt Nam và mối quan hệ của Việt Nam với các nước, cho biết đã có một đợt vận động hành lang của Bộ Ngoại Giao Việt Nam để Nguyễn Phú Trọng được Donald Trump tiếp. Tin tức này là có cơ sở bởi vào Tháng Năm, 2019, Ngoại Trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh đã có một chuyến đi Mỹ khá đặc biệt, không chỉ gặp gỡ giới ngoại giao mà còn cả với giới quốc phòng của Hoa Kỳ. Đó là một chuyến đi được giới quan sát cho là tiền trạm cho Nguyễn Phú Trọng và cũng khiến Phạm Bình Minh như được “hồi sinh,” kể từ lần bị thất sủng thấy rõ tại Hội Nghị Trung Ương 6 vào Tháng Mười, 2017. Trong khi đó cũng lác đác một ít thông tin của giới “chuyên gia thân đảng” về lịch đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng: lúc đầu là Tháng Sáu, rồi “dời lại” vào Tháng Bảy, Tháng Tám hoặc những tháng còn lại của năm 2019… Lẽ ra, ông Trọng đã đặt chân lên Washington D.C. vào giữa năm 2019, nếu không xảy ra cú bạo bệnh thình lình trong đợt ông ta bất ngờ đi công tác tại Kiên Giang “nhà Ba Dũng” vào Tháng Tư, 2019. Cú bạo bệnh này (mà diễn tiến của nó được cho là phức tạp về hệ thần kinh) đã khiến Trọng phải nằm điều trị trong một thời gian khá dài mà không thể tiếp khách hay ra nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến khi Nguyễn Phú Trọng có vẻ thực sự thoát khỏi mối nguy hiểm chấn thương sọ não và bắt đầu phục hồi cử động tứ chi vào Tháng Bảy, 2019, lịch tiếp khách của Tổng Thống Trump lại dường như không còn trống chỗ để đón Trọng. Vào khoảng thời gian đó, Trump còn bận rộn với cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung tăng tốc cùng kế hoạch sơ thảo cho chiến dịch tái tranh cử chức vụ tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tới. Vấn đề còn lại là phải do một nguyên cớ thật sự đặc biệt được nêu ra từ phía Việt Nam, chứ không phải là nguyên do vụn vặt, thì Trump mới có thể xếp lịch tiếp Trọng theo đúng nghi thức đón tiếp một nguyên thủ quốc gia, và với điều kiện cuộc làm việc Mỹ – Việt phải đi vào thực chất chứ không chỉ qua loa xã giao theo não trạng “mình phải như thế nào người ta mới tiếp như thế chứ.” Nhưng dù sao, tín hiệu đầu tiên cho cuộc tiếp đón Nguyễn Phú Trọng đã được phát ra bởi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan. Ai cần ai hơn? Điểm khác biệt lớn nhất giữa lần dự kiến đi Mỹ vào giữa năm 2019 của Nguyễn Phú Trọng và lần dự kiến thứ hai vào Tháng Mười cùng năm là hội chứng tàu Trung Quốc. Trước Tháng Năm, 2019 và trong lúc Nguyễn Phú Trọng còn phải nằm giường điều trị, đã chưa có vụ tàu Trung Quốc gây hấn ở khu vực Bãi Tư Chính. Vấn đề quan hệ Việt – Mỹ có cần thiết được đẩy lên tầm “đối tác chiến lược” hay không cũng bởi thế không quá khẩn thiết đối với Trọng và giới chóp bu trong Bộ Chính Trị đảng, dù trước đó đã liên tiếp xảy ra hai vụ Trung Quốc gây hấn đều ở Bãi Tư Chính vào Tháng Bảy, 2017 và Tháng Ba, 2018. Trong lần dự kiến đầu tiên đi Mỹ, nhiều khả năng Nguyễn Phú Trọng muốn tập trung đàm phán với Mỹ về việc làm thế nào để Mỹ chấp nhận cho Việt Nam có được quy chế “kinh tế thị trường tự do” mà do đó Việt Nam có thể nhận được những ưu đãi hơn về vốn vay ODA cùng thúc đẩy đà gia tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa và thị trường Mỹ, đồng thời thuyết phục Trump về việc kinh tế Việt Nam không đến nỗi quá nguy hiểm cho nước Mỹ để Mỹ không cần phải dựng đứng hàng rào thuế quan đối với hàng hóa Việt xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Đã rõ là trong nửa đầu năm 2019, giới chóp bu Việt Nam vẫn đu dây Trung Quốc và tái diễn thói ưỡn ẹo với người Mỹ. Nhưng kể từ đầu Tháng Sáu, 2019, thế cục đã biến hẳn. Trung Quốc bắt đầu điều tàu phá rối ở mỏ Lan Đỏ, nơi được liên doanh giữa Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) với Tập Đoàn Dầu Khí Rosneft của Nga. Sang đầu Tháng Bảy thì vụ gây hấn này đã lan sang Bãi Tư Chính, đặc biệt xoáy vào mỏ Cá Rồng Đỏ, liên doanh giữa PVN với hãng dầu khí Repsol của Tây Ban Nha. Đến lúc đó, tương quan lực lượng cùng cán cân đàm phán Việt – Mỹ đã nghiêng hẳn về phía Mỹ, xét trên phương diện “ai cần ai hơn.” Từ cuối Tháng Bảy, 2019, Mỹ đã trở thành quốc gia đầu tiên lên tiếng ủng hộ Việt Nam, dù chỉ là gián tiếp, chống lại thói bắt nạt của Trung Quốc trên Biển Đông, và cho tới nay Mỹ vẫn là quốc gia gần như duy nhất dám nhắc đến cái tên Trung Quốc với cảm xúc lên án chứ không phải bằng những từ ngữ xã giao né tránh như cái cách mà Liên Minh Châu Âu (EU) và các nước Anh, Pháp, Đức, Úc bày tỏ. Không chỉ Bộ Ngoại Giao, mà cả Bộ Quốc Phòng và Cố Vấn An Ninh của Hoa Kỳ đã cùng lên tiếng về chủ đề này không chỉ một lần. Cùng lúc, hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan được Mỹ điều đến Biển Đông để tuần tra, mà về thực chất là án ngữ ở cửa ngõ vùng biển mà rất có thể xảy ra một cuộc xung đột vũ trang bắt nguồn từ “đồng chí tốt” của Việt Nam. Bài toán đặt ra với Nguyễn Phú Trọng hiện thời là trong khi ông ta vẫn tuyệt đối “cấm khẩu” về vụ tàu Hải Dương và giới quan chức cấp dưới của ông ta cũng “sao y bản chánh,” Trọng làm sao phải gấp rút thời gian để lôi kéo được người Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời của Việt Nam ở Biển Đông, hệt theo cái cách vung tay đầy “dũng khí” của phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam về việc Việt Nam không chỉ “tôn trọng tự do hàng hải” mà còn “tôn trọng tự do hàng không.” Nếu hành động đó được triển khai có hiệu quả thì Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam sẽ yên tâm khai thác dầu khí cùng với các đối tác liên doanh mà không còn quá sợ hãi bị Trung Quốc bắt nạt, còn Bộ Quốc Phòng Việt Nam cũng có thể tỏ ra can đảm hơn đôi chút chứ không đến nỗi bị dân chửi “ngư dân bám biển, hải quân bám bờ” và “chưa đánh chác gì đã đái cả ra quần.” Và làm sao đạt được quan hệ “đối tác chiến lược” với Mỹ càng sớm càng tốt, hoặc ít ra cũng thủ được một bản ghi nhớ với Mỹ về chủ đề này, để bảo đảm rằng quốc gia đối trọng duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông sẽ hỗ trợ chế độ cộng sản Việt Nam khai thác dầu khí. Làm cách nào để khoan dầu nuôi đảng? Từ Tháng Tư năm 2019, đã bắt đầu khởi động vài tín hiệu cho triển vọng đối tác chiến lược Việt – Mỹ. Đó là lúc một số quan chức cấp thứ trưởng của Mỹ và Việt Nam đã tổ chức hội thảo mang tên “Việt- Mỹ: Hướng đến hợp tác chiến lược” tại Trung Tâm Chiến Lược & Nghiên Cứu Quốc Tế CSIS ở thủ đô Washington. Có thể xem hội thảo trên là một trong số hiếm hoi hoặc là lần đầu tiên hai bên bàn về chủ đề không còn là chuyện giỡn chơi hay trả treo mặc cả này. Đối với chính thể Việt Nam, bây giờ không còn là lúc ngả ngớn õng ẹo đu dây giữa Mỹ và Trung Quốc nữa, mà Hà Nội đang bị “đồng chí tốt” ép bật khỏi những giếng dầu ở Biển Đông khiến ngân sách – vốn đang tồi tệ – càng nguy khốn hơn. Kể từ năm 1975, chưa bao giờ Mỹ và Việt Nam lại sát gần với quan hệ đối tác chiến lược như vào lúc này, đặc biệt từ thời điểm mùa xuân năm 2019, lúc mà giới chóp bu Việt Nam đã chuyển từ sáo ngữ cửa miệng “lợi ích tương đồng” với Bắc Kinh sang một chiến dịch “tố cáo giặc Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc năm 1979,” và tiến đến những gì cần có để một liên minh quân sự Việt – Mỹ trong tương lai gần có thể đánh bật Trung Quốc khỏi Biển Đông. Nếu chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng diễn ra vào Tháng Mười, 2019 và nếu mọi chuyện thuận buồm xuôi gió, sau cuộc cuộc gặp Trump – Trọng tại Washington sẽ hiện ra một văn bản được ký giữa hai bên như kiểu “Hiệp Ước tương trợ quốc phòng” mà Mỹ đã ký với Philippines, hoặc ít ra cũng là một bản ghi nhớ về việc sẽ tiến hành chuyện đó trên nền tảng chuẩn bị cho “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Mỹ – Việt.” Khi đó, Bộ Chính trị đảng Việt Nam sẽ hoàn hồn để vừa tiến vừa run vào các mỏ dầu Lan Đỏ, Cá Rồng Đỏ… ở Bãi Tư Chính, và cả mỏ Cá Voi Xanh ở vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi – nơi có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối và hứa hẹn mang về đến $60 tỷ, bằng số thu nguyên một năm của nền ngân sách bóp họng dân chúng chỉ để nuôi đội ngũ “còn đảng còn tiền” và “còn đảng còn mình.” Phạm Chí Dũng - Người Việt| https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/tong-tich-nguyen-phu-trong-se-tham-my-va-khoan-dau-nuoi-dang/    
......

Thông điệp về Sinh lộ và Tử lộ

Hà Sĩ Phu -  Bauxite Việt Nam| (Hưởng ứng Lời kêu gọi chống Trung Quốc xâm lược) Lời kêu gọi chống Trung Quốc xâm lược (gọi tắt là kêu gọi Thoát Trung) là bước đầu gửi thông điệp gửi tới Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Đảng Cộng Sản Việt Nam và cả nhân dân Việt Nam. Đó là thông điệp về bản chất của mâu thuẫn Việt Trung và về những lối thoát. Trung Quốc là kẻ thù đáng sợ nhất của nhân loại với hai sức mạnh kinh khủng là số dân 1 tỷ rưỡi người và một chế độ toàn trị Phong kiến Đại Hán, một đặc sản không giống bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Mối nguy Đại Hán thời hiện đại vượt xa mối nguy Đức Quốc Xã và mối nguy CS Liên Xô trước đây. Chế độ toàn trị Đại Hán ấy kết tinh hai mặt Nho gia và Pháp gia, phối hợp nhuần nhuyễn giữa Đức trị mị dân với bạo lực đàn áp quyết liệt đã giữ cho cái nước khổng lồ ấy không bị tan vỡ thành các nước nhỏ, đã đồng hóa được lý thuyết toàn trị Cộng sản, và đồng hóa luôn nền kinh tế tư bản tiên tiến của Âu Mỹ khi du nhập vào. Dù là lý thuyết Mác-Lê, dù là đồng tiền và kỹ thuật của các nước tư bản lớn nhất, những sức mạnh CS hay Tư bản ấy vào đến Trung Quốc đều bị đồng hóa để mang một “màu sắc Trung Quốc”, tức là rốt cuộc chỉ tăng cường sức mạnh cho nền Phong kiến toàn trị Đại Hán mà thôi. Vì thế khi Liên Xô và CS Đông Âu tan rã, ĐCSVN quyết định dựa hẳn vào vòng tay Trung Quốc như lối thoát duy nhất cho ĐCSVN là điều dễ hiểu, vì nghĩ rằng chỗ dựa ấy là vĩnh cửu, bất kể phải trái, bất kể bản chất thiện ác, bất kể thế giới có diễn biến ra sao, dựa vào Trung Quốc vĩ đại là lối thoát trường cửu. Nhưng thực tế không thể bình yên như vậy, vì Trung Quốc vốn nung nấu một tham vọng khủng khiếp, chẳng những phải biến Việt Nam thành chư hầu như đứa con ngoan mà còn phải vươn lên đứng đầu và làm bá chủ toàn cầu. Trong kế hoạch toàn cầu “nhất đới nhất lộ” của Trung Quốc thì Việt Nam có vai trò đặc biệt, về vị trí địa lý cũng như về ảnh hưởng. Việt Nam là nước láng giềng “cứng cựa” nhất, 1.000 năm cai trị mà không đồng hóa nổi, Việt Nam là tấm gương cho nhiều nước Á Phi của thế giới thứ ba, và quan trọng hơn, Việt Nam có vị trí phên giậu và vị trí tiền đồn trong toàn con đường xâm lược của Tàu. Không chinh phục cho xong Việt Nam thì Trung Quốc khó lòng phát huy uy lực ra toàn thế giới. Vì thế việc triển khai giấc mộng bá vương toàn cầu ấy trước hết gây biến đổi dữ dội trong nội tình Việt Nam. Khi chưa lộ rõ nguy cơ ngoại xâm thì vai trò cai trị của ĐCSVN tưởng như chẳng ai dám đụng đến, khắp nơi cứ “đời đời ơn Bác ơn Đảng” chẳng ai dám hé môi, dù trong xã hội đã bộc lộ những vấn nạn tất yếu bản chất của con đường Cộng sản. Tôi còn nhớ lúc đó một khẩu hiệu yêu nước “Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam” cũng phải viết tắt, chọn lúc đêm khuya mới đem dán vội ở cột điện. Nhưng hành động xâm lược trắng trợn của giặc Tàu mà ĐCSVN không hề có sự phản kháng thích đáng nào để giữ nước, đã khiến cho cùng một lúc nổ ra phong trào vạch mặt cả giặc Ngoại xâm Tàu và giặc Nội xâm Việt, tức ĐCSVN (là Nội xâm vì thực chất ở tất cả các nước chuyên chính CS, các đảng CS thực chất đã chiếm hết quyền làm chủ đất nước của nhận dân, nhân dân ở mọi nước CS đều bị mất nước vào tay ĐCS chứ không phải riêng ở Việt Nam). Về phía Trung Quốc, cái điểm tựa tưởng như cái cột trụ vĩ đại để CSVN dựa vào thì nay chẳng còn vững chắc gì, đang bị trao đảo dữ dội khi nó lộ diện thành kẻ thù nguy hiểm nhất của thế giới. Các nước tư bản trước đây đã xúm vào buôn bán với Trung Quốc khiến cho con sư tử Trung Quốc vùng lên, nay đã quay lại dùng chiến tranh thương mại để hạ gục Trung Quốc. Trung Quốc như tên nhà buôn giỏi nhất thế giới nay đang nguy ngập chính vì đòn thương mại, “sinh ư nghệ tất tử ư nghệ”, thậm chí nếu có nguy cơ bị tách thành nhiều nước nhỏ thì thật giúp cho nhân loại thoát được một mối họa ngàn năm. ĐCSVN định dựa hẳn vào CS Tàu như tìm ở đó một SINH LỘ cho sự cai trị Cộng sản, tưởng đó lối thoát khôn ngoan, nhưng nay đã thành tai vạ cho chính người đã chọn nó. Chính những hành động bất chấp của Trung Quốc đã làm lộ ra tất cả những điều mà ĐCSVN cần giữ kín, nghĩa là gây bất lợi cực kỳ tai hại cho uy tín của ĐCSVN, và Sinh lộ lúc đầu nay cũng đã thành Tử lộ đối với ĐCSVN rồi. Còn đối với nhân dân Việt Nam, lịch sử đã dạy rằng chui vào trong tay Tàu thì bao giờ cũng là là TỬ LỘ, người Việt Nam yêu nước và tỉnh táo không bao giờ nhầm. Đến cơ sự này thì lối thoát mới cho ĐCSVN thiết tưởng đã hiện ra quá rõ, con đường bỏ Nhân dân để “sang sông” kết với với giặc Tàu cùng Ý thức hệ chính là con đường tự diệt nhanh chóng. Sinh lộ mới cho đảng chính là quay đầu về bờ , từ giã “anh bạn vàng” với cái dây trói Ý thức hệ mù mờ xảo trá, có như vậy mới tìm lại được sức mạnh với Nhân dân, ở đó Nhân dân bao giờ cũng mở rộng vòng tay, cái vòng tay mà từ Bà Trưng-Bà Triệu đến Hưng Đạo-Quang Trung đã ôm lấy giống nòi để cùng chiến đấu chống lại “kẻ thù truyền kiếp” (chữ trong văn kiện của ĐCSVN), buộc chúng phải từ bỏ dã tâm đô hộ để cùng nhau chung sống hòa bình và hữu nghị, trong một thế giới cùng nhau phát triển, an lạc, văn minh. Còn như lập trường chịu nhục để tránh chiến tranh thì kết quả sẽ lãnh đủ cả chiến tranh lẫn nhục nhã, chân lý muôn đời đã dạy. Vâng, LỜI KÊU GỌI chống Trung Quốc xâm lược mà đông đảo Trí thức và Nhân dân hiện nay đang ký tên tuy chỉ hướng vào một mục tiêu chống những hành động xâm lược trước mắt, nhưng thông điệp toản cục sâu xa của Nhân dân, cho cả một giai đoạn lịch sử lâu dài phải được hiểu đầy đủ như vậy. 2/9/2019 Hà Sĩ Phu -  Bauxite Việt Nam  
......

Muốn bảo vệ chủ quyền biển đảo: Phải dứt khoát với ĐCS Trung quốc

Nguyen Ngoc Chu| Nhân dân mọi nước đều yêu chuộng hòa bình. Chỉ có kẻ cầm quyền mới là nguồn gốc của chiến tranh. Không phải nhân dân Trung Quốc mà ĐCS Trung Quốc mới là kẻ tiến hành cuộc xâm lược biển đảo Việt Nam hiện nay. ĐCS Trung Quốc dưới chính thể Mao Trạch Đông đã đánh chiếm Hoàng Sa và một phần Trường Sa của Việt Nam. Và hiện nay, bọn chúng đang không ngừng xâm chiếm từng phần biển đảo của Việt Nam ở Bãi Tư Chính. ĐCS Trung Quốc từ thời Mao Trạch Đông đến nay, là kẻ thù xâm lược của Việt Nam. Không chỉ mang lại tai họa cho nhân dân Việt Nam, mà ĐCS Trung Quốc từ thời Mao Trạch Đông lên cầm quyền đã mang đến cho nhân dân Trung Quốc vô vàn đau thương mất mát. Chính nhân dân Trung Quốc cũng không muốn chung sống với chính thể Mao Trạch Đông. Phong trào biểu tình của hàng triệu người Hong Kong trong mấy tháng qua là minh chứng rõ ràng nhất, rằng người Hoa không muốn chung trời với chính thể Trung Quốc hiện nay. ĐCS Trung Quốc đã cướp biển đảo của Việt Nam thì chẳng có lý do gì lại là “anh em đồng chí”. Việt Nam không cần học tập bất cứ thứ gì từ ĐCS Trung Quốc. Càng học ĐCS Trung Quốc càng mang tai họa đến cho Việt Nam. Phải dứt khoát với ĐCS Trung Quốc thì mới bảo vệ được chủ quyền biển đảo. Chừng nào còn “đồng chí” với ĐCS Trung Quốc thì chừng đó còn bị mất thêm biển đảo. Xác định kẻ xâm lược biển đảo của mình là “đồng chí” thì làm sao bảo vệ được chủ quyền quốc gia? Đây là thời điểm lịch sử mà TBT Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính Trị cần có quyết định rõ ràng. Không ai che giấu được trách nhiệm trước Lịch sử./.  
......

Những giọt nước mắt ngày khai trường

Cánh Cò - RFA| Năm nay hình như cả nước uể oải tham gia chương trình khai giảng năm học mới. Không khí không còn ồn ào náo nhiệt vì những trò đọc diễn văn hay trang trí lòe loẹt bắt học sinh đứng đón như lãnh tụ, ngồi hàng giờ giữa nắng nóng nghe những câu văn không bao giờ hiểu và thở phào khi họ ngưng nói, ngưng diễn vai trò những người dẫn dắt nền giáo dục nước nhà. Thế nhưng đâu đó vẫn còn sót lại chút cơ hội hợm mình cho người đứng đầu ngành giáo dục khi bức ảnh ông Phùng Xuân Nhạ tới tham dự Lễ Khai giảng năm học 2019 – 2020 cùng thầy cô giáo và học sinh Trường THPT Sơn Tây, Hà Nội xuất hiện trên báo chí thì người ta phát hiện ra rằng ông Nhạ vẫn chưa thoát được cái hào nhoáng tạm bợ khi bước chân lên tấm thảm đỏ chói hai bên là học sinh ngồi chờ. Ông Nhạ có vẻ hài lòng vì được đón rước long trọng nhưng ngược lại người dân thấy bị xúc phạm khi họ phải còng lưng trả biết bao nhiêu thứ tiền cho con mình được tới trường trong khi người đứng đầu ngành giáo dục tỏ ra vô cảm đối với những gì đã và đang xảy ra trong phạm vi ông quản lý. Bên cạnh chiếc thảm đỏ ấy là hình cảnh những em bé tuổi từ 8 tới 10 được người dân chụp hình tung lên mạng cho thấy các em đứng khép nép trước hàng rào trường học nhìn vào bên trong, nơi những đứa bé cùng tuổi mình ăn mặc tươm tất ngồi nghe thầy cô giáo đọc danh sách khai giảng niên khóa mới. Chắc chắn các em rất buồn vì trên lưng các em đang chất đầy nỗi lo cơm áo. Tình trạng của các em không lạ đối với nhiều nước nhưng nếu nhìn xa hơn ắt sẽ thấy rất nhiều cái lạ khác trong ngày khai giảng. Ngày khai giảng năm học 2019 – 2020. Ảnh: FB Việt Tân edit Ít nhất có 5 bức ảnh mà cư dân mạng mang lên trang nhà của mình cho thấy những lớp học khốn khó cùng lúc khai giảng trong năm học mới. Trường học không có chỉ có một căn nhà lá rách nát và cô giáo đứng trước khoảng 15 tới 20 em học sinh trong khi các em ngồi chồm hổm trên nền đất vì không có bàn ghế để ngồi. Trước mặt các em là cờ đỏ, là căn chòi èo uột và cô giáo xanh mướt vì thiếu ăn. Những hình ảnh đau lòng này không phải cá biệt mà chừng như bất cứ một huyện miền núi nào cũng đều giống như nhau. Theo Báo Tuổi trẻ ngày 6 tháng 9, 2019 đưa tin, trong buổi khai giảng năm học mới ở điểm trường Tắk Pổ, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam có 6 em học sinh phải ngồi dưới nền đất vì không có ghế. Với tư cách Bộ Trưởng Giáo Dục ông Phùng Xuân Nhạ làm sao trả lời thỏa đáng cho những hình ảnh quá khác biệt đối với những ngôi trường miền xuôi nơi ông và các lãnh đạo giáo dục cơ sở đang mãn nguyện với những hoành tráng có khả năng che lấp mọi tiêu cực phía sau nó? Ông không thể vịn vào bất cứ lý do nào để trốn tránh trách nhiệm vì những hình ảnh này không phải mới xảy ra mà hầu như được lặp đi lặp lại từ năm này sang năm khác bất kể ông có lên giọng thế nào chăng nữa. Năm nay ông đưa ra ý tưởng: Năm học mới ưu tiên “dạy người”. Khốn nạn cho ông, “dạy người” thì chính người dạy phải biết làm người đã, trong khi ngược lại bao nhiêu chuyện tồi tệ từ giáo viên dưới quyền ông tỏ ra thiếu tư cách làm người chứ chưa nói tới việc dạy cho học sinh những điều tốt đẹp. Giáo viên nam thì can tội sách nhiễu tình dục với hàng chục nam sinh, giáo viên nữ thì nhục mạ học sinh bắt các em tát tai nhau hay bắt uống thau nước giặt giẻ chùi bảng… những hành động như thế không thể nói là cá biệt vì nó xảy ra tại nhiều địa bản khắp nước và cho tới bây giờ không phụ huynh nào chắc chắn rằng những vụ việc như vậy sẽ không còn xảy ra cho con em mình. “Dạy người” thế nào được khi bản thân là bộ trưởng giáo dục ông không có bất cứ hành động nào khả dĩ giải thích được mối bận tâm của ông khi nhiều tỉnh phía Bắc mua điểm đến nỗi vụ việc vỡ ra và công an vào cuộc nhưng ông lặng thinh xem như chuyện của… thế giới khác chứ không phải xảy ra tại Việt Nam. Các học sinh khi lớn lên chúng sẽ lật những bài viết, những comment nói về chuyện này, như vậy xin hỏi ông “dạy người” là dạy thế nào? Trước ngày khai giảng hơn một tuần, một vụ án xảy ra làm đau lòng không ít cho người nghe chuyện “5 học sinh thay nhau hãm hiếp một cô giáo bất kể cô van xin thế nào chúng cũng không tha”. Báo Pháp Luật 24 thuật lại câu chuyện kinh hoàng này như sau: “Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đang tích cực điều tra, làm rõ vụ việc một giáo viên bị 5 học sinh khống chế và giở trò đồi bại. 5 nam sinh trên gồm: Lý Văn Hạnh, Bàn Văn Hùng (16 tuổi), Bàn Văn Sơn, Bàn Văn Dương, Bàn Văn Hiệu (15 tuổi) đều trú bản Suối Bon và đang học lớp 9 trường THCS Loóng Luông, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Theo đó, vào đêm ngày 24 tháng Tam, nữ giáo viên trường Tiểu học Loóng Luông là Bùi N.H.(27 tuổi) đang ngồi soạn giáo án để ngày mai lên lớp dạy thì bất ngờ bị 5 nam sinh trên lao vào khống chế, giở trò đồi bại, mặc cho cô giáo khóc lóc van xin. Sau khi thỏa mãn dục vọng, những tên này đã nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Cô giáo H lập tức đến cơ quan chức năng tố cáo vụ việc.” Có phải đây là kết quả của bao nhiêu năm ngành giáo dục đã tận hiến cho các em học sinh hay kết quả này đến từ lòng bất mãn vì thiếu quan tâm, vì bị kỳ thị hay xem thường đồng bào thiểu số khiến cho những thanh niên chưa kịp lớn đã kịp gây ra tội ác mà cô giáo dạy cho chúng trở thành nạn nhân? Hay bài học do chính ông dạy các cô giáo thị xã Hồng Lĩnh nay đã ra kết quả đáng buồn này? Người dân còn nhớ vào sáng ngày 14 tháng Mười Một, 2016 Bộ Trưởng Giáo Dục và Đào Tạo Phùng Xuân Nhạ cho rằng việc UBND thị xã Hồng Lĩnh điều động giáo viên tiếp khách, rót rượu là sai nguyên tắc của cán bộ và ảnh hưởng uy tín của ngành, tuy nhiên, mức độ chưa đến nỗi trầm trọng và quan trọng hơn cả nếu các giáo viên ấy có thái độ im lặng đồng tình, không có kiến nghị, phản ứng gì thì trước tiên phải quy trách nhiệm cho các giáo viên này trước xong mới tính chuyện đến người ép buộc. Ông bộ trưởng yêu cầu từng cô giáo trước tiên phải nghiêm túc trước đã. Chỉ cần một lần sảy miệng ông không thể tại vị cái nơi ông đáng ra phải có những lời nói khác. Ông tiếp tục vung tay múa chân trong môi trường giáo dục tồi tệ và tiếp tục đưa ra những lời có cánh để mụ mị người dân, nhưng tiếc cho ông vì còn ai trong đất nước này còn tin vào lời ông nói nữa? Cánh Cò
......

Vừa Hồng Vừa Chuyên Là Giáo Điều Lạc Hậu

Phạm Trần - huynhngocchenh.blogspot| Với bản lĩnh giáo điều, bảo thủ và cực đoan ngoại hạng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng sản Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo đầu tiên công khai chính trị hóa giáo dục để “nhuộm đỏ”  thầy cô, học sinh và  sinh viên. Bằng chứng được phơi bầy trong thư gửi ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm học mới 2019-2020. Ông Trọng đã yêu cầu :”Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, đạo đức, lối sống, lý tưởng cách mạng cho học sinh, sinh viên.” (theo Thông tấn xã Việt Nam,TTXVN, ngày 01/09/2019) Tuy ông không nói ra, nhưng ai cũng biết điều gọi là “truyền thống lịch sử”  bao giờ cũng phải ưu tiên ca tụng vai trò giữ nước và dựng nước của đảng CSVN và người thành lập đảng là ông Hồ Chí Minh. Ngược lại, mặt  trái của “truyền thống” ấy, bao gồm cả những sai lầm và hệ lụy của 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng CSVN chủ động lại chưa bao giờ được ghi trong sách sử Việt Nam Cộng sản. Vì vậy cả thầy, cô, học sinh và  sinh viên qua nhiều thế hệ đã  bị đánh lừa bởi thứ  lịch sử một chiều do đảng dựng lên. Do đó, khi ông Trọng đòi phải giáo dục cả “lý tưởng cách mạng cho học sinh, sinh viên” là ông muốn tẩy não cả một thế hệ bằng mớ giáo điều Cộng sản để làm cách mạng và xây dựng đất nước dựa trên  Chủ nghĩa Mác-Lenin. Nhưng ông Trọng lại làm như không biết rằng tuyên truyền Chủ nghĩa Cộng sản cho học sinh, từ tiểu học  đền lớp 12 là hành động giáo điều, bảo thủ và  đầu độc tuổi trẻ.  Ông tưởng rằng, càng nhồi sọ sớm bao nhiêu thì càng dễ uốn nắn thiếu niên đi theo lề đảng chăng ? Không những ông sai mà cả hệ thống giáo dục của đảng cũng sai nên mới có chuyện học sinh, sinh viên Việt Nam không muốn học môn lịch sử  vì nội dung thiếu trung thực và đầy rẫy tuyên truyền, khi nào cũng “ta thắng địch thua”. Ông Nguyễn Phú Trọng còn viết trong thư:”Tôi mong các thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý, người lao động ngành giáo dục luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp “trồng người”. Nhưng “giữ vững bản lĩnh chính trị”  là “chính trị” gì ? Có phải ông đòi mọi người phải tuyệt đối trung thành với Đảng và kiên định Chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tường Cộng sản Hồ Chí Minh như quy định trong Cương lĩnh đảng ? Hay ông còn muốn răn đe không được quan liêu, suy thoái đạo đức, tham nhũng, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” như ông từng ra rả với cán bộ, đảng viên trong 2 năm qua ? Đối với học sinh, sinh viên, ông Nguyễn Phú Trọng ngỏ ý:” Mong các em học sinh, sinh viên tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, noi theo các thế hệ cha anh đi trước, phấn đấu học tập tốt, rèn luyện tốt để sau này trở thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên” như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.” Tại sao cho đến bây giờ, khi Thanh, thiếu niên thế giới đã ăn sâu, bám rễ với nền khoa học điện tử thay đổi từng giây mà ông Trọng vẫn còn âm u trong cõi vừa “hồng”, vừa “chuyên”  với tuổi trẻ Việt Nam ? Chẳng lẽ ông lại muốn xiềng xích chân tay họ  để  ông mặc sức độc tài ở tuổi 75 thời “đổi mới” ? TRẦN ĐẠI QUANG-TRƯƠNG TẤN SANG Vậy ta thử so sánh những lời “đao búa” của ông Trọng với vài bức thư gửi thầy cô, học sinh và sinh viên của hai Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Trương Tấn Sang xem khác nhau ở chỗ nào ? Trong thư phổ biến  ngày 31 tháng 8 năm 2018,  Chủ tịch Trần Đại Quang viết những điều phi chính trị rằng :”Bước vào năm học mới, ngành Giáo dục cần phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng tốt nhất yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước. Tăng cường quản lý nhà nước, kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện, có giải pháp khắc phục hiệu quả những thiếu sót, hạn chế, đưa nền giáo dục nước ta phát triển vững chắc. Chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Quan tâm hơn nữa con em các đối tượng chính sách, đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục bình đẳng cho mọi người dân.” Kết luận, ông Quang tâm tình:”Tôi mong các thầy giáo, cô giáo giữ vững ngọn lửa đam mê với sự nghiệp giáo dục, không ngừng đổi mới, sáng tạo trong dạy học; các em sinh viên, học sinh phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, ý chí vươn lên, thi đua học tập tốt, rèn luyện tốt để mai sau cống hiến cho nước nhà.” Ông Trần Đại Quang đã đột ngột qua đời  ngày 21/09/2018. Trong khi đó, trong thư gửi ngành Giáo dục nhân dịp khai giảng năm học mới 2015 – 2016, ông Trương Tấn Sang đã  viết như cảm ơn:” Trong điều kiện còn rất nhiều khó khăn, các thầy giáo, cô giáo, nhất là các thầy giáo, cô giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, đã vượt lên mọi khó khăn, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đào tạo, có những đóng góp thầm lặng nhưng hết sức to lớn cho đất nước. Tôi mong các thầy giáo, cô giáo tiếp tục cố gắng, có nhiều đóng góp hơn nữa cho sự nghiệp “Trồng người” cao cả, hết sức vẻ vang.” Đối với học sinh và sinh viên, ông Sang bắt đầu:” Các em học sinh, sinh viên yêu quý! Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, những người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Tôi mong các em tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta, noi gương các thế hệ cha anh đi trước, phấn đấu học tập tốt và rèn luyện tốt để mai này lập thân, lập nghiệp, trưởng thành, góp phần đưa đất nước ta sánh vai với bè bạn năm châu.” Tuyệt nhiên, không thấy hai Chủ tịch nước này viết điều gì “nổ” như ông Trọng. NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY Vậy học sinh, sinh viên và lớp Thanh niên, Thiếu nữ đoàn viên của Tổ chức Thnh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thành phần được gọi là “đội  dự bị tin cậy của Đảng” đã làm nên cơm cháo gì theo trông đợi của đảng ? Trong bài viết trên Tạp chí Cộng sản, cơ quan ý luận của Đảng, Lê Quốc Phong, Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng, Bí thư thứ nhất của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (TNCSHCM) đã kiểm điểm thành tích sau 10 năm thức hiện “Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/07/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X”  về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.” Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, theo Lê Quốc Phong, vẫn còn hạn chế, đó là: -Việc học tập, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, triển khai học tập 6 bài học lý luận chính trị vẫn chưa đồng bộ, chưa có nhiều giải pháp sáng tạo. -Công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao. Công tác dự báo và nắm bắt tình hình tư tưởng, định hướng cho thanh niên ở nhiều nơi chưa kịp thời; việc xử lý các vấn đề nổi cộm phát sinh trong thanh niên còn lúng túng. -Hệ thống báo chí, xuất bản của Đoàn đôi lúc còn chạy theo thị hiếu, phản ánh tiêu cực mà chưa quan tâm định hướng, giáo dục thế hệ trẻ, giới thiệu gương người tốt, việc tốt. -Việc tổ chức phong trào hành động cách mạng tại một số cấp bộ đoàn còn có biểu hiện dàn trải, hình thức, thiếu kiên trì, thiếu hấp dẫn, mới chỉ thu hút một bộ phận thanh niên tích cực tham gia, kết quả thiếu tính bền vững. Hiệu quả triển khai một số phong trào thi đua không rõ nét, thiếu tính thường xuyên. Chất lượng, hiệu quả công tác giới thiệu việc làm cho thanh niên chưa cao. Tổ chức cơ sở đoàn ở một số nơi chưa quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng kết nạp đoàn viên. Công tác quản lý đoàn viên còn lỏng lẻo. Phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức và đoàn kết, tập hợp thanh niên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước chuyển biến chậm. Vẫn còn một bộ phận thanh niên thiếu ý chí phấn đấu, có biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống. Một bộ phận thanh niên yếu thế về cơ hội phát triển. Tình hình vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội trong thanh niên diễn biến phức tạp. Trước đó, vào ngày 23/01/2016, tại phiên thảo luận các văn kiện Đại hội XII,người tiền nhiệm Nguyễn Đắc Vinh nói thẳng:” Cần thẳng thắn thừa nhận, công tác giáo dục thanh thiếu nhi vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhiều tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan trọng của nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi. Một bộ phận giới trẻ giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng, xa rời truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động chống sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp. Đặc biệt, nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp rất đáng lo ngại. Những yếu tố đó tác động mạnh mẽ đến thanh thiếu niên và đặt ra yêu cầu cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ.” XÔI HỎNG BỎNG KHÔNG Trong khi đó, tại Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 1501/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống (LTCMĐĐLS) cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020”, do Bộ Giáo dục-Đào tạo tổ chức tại Hà Nội ngày 27/12/2018, nhiều thất bại cũng đã được công khai. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa nhấn mạnh tại Hội nghị: “Sau 3 năm triển khai thực hiện Quyết định 1501, công tác giáo dục LTCMĐĐLS cho thanh thiếu niên nhi đồng vẫn còn nhiều hạn chế bất cập: Một bộ phận thanh thiếu niên thiếu bản lĩnh dễ bị lôi kéo, tham gia tệ nạn xã hội. Một số thanh thiếu niên thiếu động cơ học tập rèn luyện đúng đắn. Bạo lực học đường diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Sử dụng mạng xã hội chưa đúng mục đích và công tác truyền thông chưa đạt hiệu quả mong muốn...” Báo cáo tại Hội nghị cũng cho biết:”Trong khi đó, nhiều sinh viên dành quá nhiều thời gian cho việc sử dụng Internet, games online, mạng xã hội nên ngại tham gia hoạt động đoàn thể, hoạt động giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống. Việc áp dụng học chế tín chỉ ở cơ sở đào tạo nên không còn mô hình lớp niên chế (có sĩ số ổn định) nên sinh hoạt Chi đoàn theo lớp gặp khó khăn, nhiều sinh viên lơ là sinh hoạt Đoàn, gây khó khăn trong công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống ở một số trường.” Chỉ ra một số nguyên nhân, Bộ GD&ĐT lý giải: “Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế kéo theo những mặt trái đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, lối sống của thanh thiếu niên, HSSV, tạo ra nhiều nguy cơ, thách thức đến công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống. Việc kiểm soát, ngăn chặn những tác động tiêu cực đến tư tưởng chính trị của thanh thiếu niên, HSSV, đặc biệt là trên Internet, mạng xã hội rất khó khăn. Đời sống vật chất và tinh thần của thanh thiếu niên, HSSV vẫn còn thiếu thốn…” Như vậy, điều mà ông Nguyễn Phú Trọng từng cảnh giác nhiều lần rằng tình trạng “nhạt Đảng, khô đoàn, xa rời chính trị”  trong giới Thanh niên cần phải được ngăn chặn đã như cơn mưa lũ vỡ bờ. Do đó, không ai ngạc nhiên khi nghe ông báo động tại Hà Nội ngày 11/12/2017 rằng  :”Hiện vẫn còn một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng.” Sở dĩ hàng hàng, lớp lớp Thanh niên đã “phai nhạt lý tưởng cách mạng” vì cuộc cách mạng của đảng đã, đang và chỉ để cho đảng viên, nhất là những kẻ có chức và có quyền, có sân chơi để tranh giành quyền lợi và địa vị. Bằng chứng đã cho thấy càng “hồng” và càng “chuyên” bao nhiêu thì hủ bại tham nhũng, mua quan bán tước, lợi ích nhóm, kèn cựa, cấu xé lẫn nhau, tranh giành quyền lợi càng đẻ ra như dòi bọ làm cho người dân đã nghèo càng nghèo thêm  và đất nước đã tụt hậu cảng lạc hậu hơn. -/- Phạm Trần (09/019)
......

Son, Tuấn, Vũ chỉ là… ví dụ!

Trân Văn| Có quốc gia nào mà một doanh nghiệp của nhà nước, hoạt động bằng công quỹ như Mobifone dùng công quỹ mua lại một doanh nghiệp tư nhân như AVG và tự nguyện trả hớ 7.000 tỉ đồng, tính ra giá mua gấp 14 lần giá trị thật? Có quốc gia nào mà cơ quan đặc trách trật tự – trị an như Bộ Công an thản nhiên lấy nhãn “an ninh quốc gia” dán lên những thương vụ như vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG nhằm ngăn chặn lạm bàn về những mờ ám trong mua bán? Có quốc gia nào mà chỉ vì lớn giọng dạy dỗ mọi người phải tận trung với đảng cầm quyền nên được chọn làm rường cột (Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN), tham gia quyết định vận mệnh quốc gia, số phận dân tộc, như Son, Tuấn? Có quốc gia nào mà một số doanh nhân vốn dĩ vô danh đột nhiên nổi như cồn vì thành tỉ phú. Nguồn gốc các khối tài sản kếch xù đều bắt đầu từ được hỗ trợ “mua rẻ, bán đắt” đất đai, cả công thổ lẫn ruộng vườn, nhà cửa của nhiều công dân như Vũ? Có quốc gia nào mà doanh giới liên tục than như bọng vì bị “đè đầu, cưỡi cổ”, bị hệ thống công quyền “vắt” đủ kiểu cho đến khi kiệt sức, phải tuyên bố phá sản hoặc xin tạm ngưng kinh doanh nhưng vẫn có vài doanh nhân càng ngày càng “ăn nên, làm ra”? Có quốc gia nào mà bên cạnh sự thành đạt của một số doanh nhân, luôn luôn có bóng dáng của các viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền đủ cấp, đủ ngành, chẳng công khai thì cũng có hơi hướm của sự hỗ trợ bằng chủ trương, chính sách? Có quốc gia nào dù vợ một đàn, con một đống nhưng vẫn được xưng tụng là “cư sĩ”, vì được xem là mẫu mực của cả “kinh doanh” lẫn “tu tập, nên được chọn làm Phó Ban Truyền thông của một trong những giáo hội đông tín đồ nhất như Phạm Nhật Vũ? Có quốc gia nào mà thần quyền tự nguyện trở thành trang sức cho thế quyền, thuyết phục thiên hạ tuân phục thế quyền, chỉ hướng tới “thiện lành”, quên đi sự bất toàn, phi nhân của thế quyền đang gieo rắc khổ đau cho tha nhân? Có quốc gia nào thần quyền gắn bó chặt chẽ với thế quyền, giác ngộ không còn là mục tiêu, tu tập trở thành cơ hội để sống xa hoa, hưởng lạc? Có quốc gia nào mà thế quyền thành công đến thế trong việc tha hóa thần quyền để củng cố vai trò, vị trí của mình? Có quốc gia nào mà thu nhập rất khiêm tốn nhưng đa số viên chức đều giàu có “nứt đố, đổ vách” và rất tự tin trong việc khoe sang, khoe giàu bất kể hệ thống chính trị, hệ thống công quyền ra rả tuyên bố tham nhũng là “quốc nạn”? Có quốc gia nào đã xác định chống tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” nhưng lại cấm công bố bản kê khai tài sản của các viên chức? Hệ thống tư pháp chưa bao giờ điều tra vì sao viên chức giàu có bất thường mà chỉ tìm xử những kẻ tiết lộ? Có quốc gia nào thừa nhận tham nhũng là quốc nạn nhưng Quốc hội lại tìm mọi cách để gạt đề nghị xem “giàu có bất minh” (viên chức không thể giải thích hợp lý về nguồn gốc tài sản) là tội phạm, ra khỏi Dự luật sửa Luật Phòng – Chống tham nhũng? Có quốc gia nào mà trước nay, tỉ lệ thành viên của đảng cầm quyền trong Quốc hội – nơi đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân – luôn luôn vượt mức 90%, thành ra soạn thảo – ban hành – giám sát thực thi luật pháp luôn luôn bị bóp méo? Có quốc gia nào mà cuộc sống càng ngày càng lầm than, sinh hoạt xã hội càng ngày càng nhiều rủi ro, đầy dẫy bất an nhưng đa số chỉ hoan hỉ khi những cá nhân như Son, Tuấn, Vũ,… ngã ngựa và bỏ qua việc truy nguyên để chặn từ gốc? Có quốc gia nào mà chỉ những cá nhân như Son, Tuấn mới được lựa chọn – sắp đặt để lãnh đạo quốc gia, dân tộc và sát cánh với những cá nhân như Vũ để gom nhặt, biến mồ hôi, nước mắt đồng bào thành của nổi, của chìm, chia chác với nhau? Hệ thống đã lựa chọn – sắp đặt những Son, những Tuấn, đã hà hơi, tiếp sức bơm thổi cho những Vũ trở thành tỉ phú đang tiếp tục lựa chọn – sắp đặt nhân sự cho “đại hội 13” lãnh đạo cả đảng, quốc hội, nhà nước, chính phủ và các ngành, các Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Phạm Nhật Vũ không phải là mục tiêu. Đó chỉ là những ví dụ. Nếu không nhìn ra bản chất, không xác định được cội rễ dẫn tới thảm trạng thì xứ sở này, dân tộc này sẽ tiếp tục mất đủ thứ rồi trắng tay./. Trân Văn| ***** Toàn cảnh diễn biến AVG có liên quan gì đến anh em nhà Vũ, Vượng, Thanh Phượng? Tiến Thịnh Hàng trên: Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Phạm Nhật Vũ. Hàng dưới: Phạm Nhật Vũ, Nguyễn Thanh Phượng, Lê Nam Trà. Ảnh trên mạng (Tài liệu kham khảo) Ông Vũ là con trai thứ 3 của ông Phạm Dương (tên thật là Phạm Nhật Quang). Ông Dương lấy vợ quê ở Hải Phòng, sinh 3 người con gồm: Phạm Nhật Vượng (1968), Phạm Thị Lan Anh (1970), Phạm Nhật Vũ (1972). Cả ba người con của ông Phạm Dương đều sinh ra trên đất Hải Phòng. Cùng với người anh trai Phạm Nhật Vượng, ông Phạm Nhật Vũ từng làm ăn tại Liên Xô (cũ), gọi là mafia Nga. Sau này, khi trở về Việt Nam, hai anh em họ Phạm bắt tay vào khai thác “tư bản thân hữu”, kinh doanh bất động sản, truyền thông, khoáng sản với chính quyền. *** Câu chuyện bắt đầu vào năm 2012, khi Nguyễn Thanh Phượng cùng đám mafia Nga, “bộ đôi Masan” Nguyễn Đăng Quang và Hồ Hùng Anh (chủ Techcombank, rể tướng Hưởng) âm mưu thực hiện vụ áp-phe đình đám để thâu tóm 49% còn lại của mobifone (nhà nước 51%) trong phi vụ sát nhập Gtel vào Mobifone. Gtel khi đó đang trong tình trạng thua lỗ triền miên, khách hàng liên tục bỏ mạng, công nghệ di động 2G lạc hậu, chính phủ từ chối cấp giấy phép 3G, đối tác VinpelCom bỏ của chạy lấy người, để lại 450 triệu USD đã đầu tư vào hạ tầng mạng di động. Với kết quả kinh doanh bết bát như vậy, Masan khi đó chỉ cần bỏ ra 50 triệu USD là có thể mua lại toàn bộ cổ phần của Gtel. Công ty cổ phần chứng khoán Bản Việt do Nguyễn Thanh Phượng làm chủ tịch theo kịch bản sẽ được chỉ định thầu làm tư vấn cho vụ sát nhập và có nhiệm vụ định giá Gtel lên cao chót với ở mức 500 triệu USD mặc cho những kết quả kinh doanh ảm đảm. Sau khi sát nhập thành công Gtel với Mobifone (mobifone được định giá 2 tỷ USD), Masan sẽ chiếm 20% cổ phần trong liên doanh mới. Thông qua việc tăng vốn góp bằng “mồm” để đầu tư 4G, Masan sẽ nâng tỷ lệ cổ phần nắm giữ lên 30% và bộ ba Phượng – Quang – Anh nghiễm nhiên đút túi 3 tỷ USD sau khi bán toàn bộ số cổ phần đã đầu tư 4G này cho các nhà đầu tư nước ngoài (lúc này Mobifone được dự đoán có giá trị IPO khoảng 10 tỷ USD). KẾ HOẠCH ĐỔ BỂ PHÚT THỨ 89 Dù có tính toán kỹ lưỡng đến đâu, Nguyễn Thanh Phượng cùng bộ đôi Masan cũng không thể biết được kế hoạch của mình lại bị đổ bể phút chót bởi một con người đang cận kề cái chết: ông Lê Ngọc Minh – chủ tịch đương nhiệm lúc đó của Mobifone – người đang bị ung thư giai đoạn cuối. Là một người trọn đời gắn bó với sự phát triển của Mobifone, ông Minh không cam tâm để tâm huyết của mình cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Mobifone trong suốt 20 năm, phút chốc đổ xuống sông, xuống biển. Khi tình hình sức khỏe ngày càng đi xuống, ông Minh quyết tâm dành quỹ thời gian còn lại của mình để làm nên một câu chuyện lịch sử: cứu Mobifone khỏi sự sát nhập với Gtel. Ông Minh đã cung cấp toàn bộ thông tin chi tiết về kế hoạch của Phượng cho phe “Tổng bí thư” để cầu cứu, đồng thời bằng mọi cách trì hoãn quá trình cổ phần hóa Mobifone, đưa Credit Suisse vào làm tư vấn cổ phẩn hóa Mobifone chứ không phải là Bản Việt, gửi toàn bộ chi tiết kế hoạch của nhóm Nguyễn Thanh Phượng và Masan cho các báo lề trái qua đó tạo nên một cơn bão dư luận vào thời điểm đó. Với sức ép của dư luận cùng ý chí sắt đá của cố Chủ tịch Lê Ngọc Minh, kế hoạch của Nguyễn Thanh Phượng cuối cùng bị đổ bể. Ông Minh, với tâm thế của một người không có gì để mất, đã tạo nên một điều kỳ diệu và giúp Mobifone tiếp tục phát triển ổn định trong hai năm kế tiếp. Cay cú trước hành động phá rối của ông Minh, Nguyễn Thanh Phượng ngay lập tức đẩy ông Minh khỏi Mobifone ngay khi doanh nghiệp này tách khỏi Tập đoàn VNPT và sát nhập về Bộ Thông tin – Truyền thông năm 2014. Tiếp theo đó, Nguyễn Thanh Phượng bí mật sắp xếp với lãnh đạo Bộ Thông tin truyền thông Son/ Tuấn để đưa đệ tử thân cận Lê Nam Trà ngồi vào chiếc ghế mà ông Minh để lại. KẾ HOẠCH THÂU TÓM LẦN 2 Khi đã đẩy được Lê Nam Trà vào ghế Chủ tịch Mobifone, Nguyễn Thanh Phượng ung dung tính toán để thực hiện tiếp kế hoạch của mình. Việc đầu tiên là Trà/ Son/ Tuấn gạt bỏ Credit Suisse và chỉ định thầu tư vấn cổ phấn hóa Mobifone phải là Công ty chứng khoán Bản Việt. Kịch bản cũ đã bị lộ! không thể tiếp tục dùng quân bài Gtel, nên Nguyễn Thanh Phượng cùng Lê Nam Trà phải lựa chọn một quân cờ mới, đó là AVG của Phạm Nhật Vũ, em trai Phạm Nhật Vượng. Vượng là một doanh nhân thân cận và thọ ơn 3X và cũng trung thành của gia đình 3x. Tương tự như Gtel, AVG chỉ là một đống đổ nát chuẩn bị phá sản với số lượng thuê bao ít ỏi, công nghệ truyền hình vệ tinh thế hệ đầu đã lạc hậu, không tự sản xuất được nội dung nên không có doanh thu phát sinh từ quảng cáo. Tình trạng kinh doanh bết bát, AVG lỗ lũy kế đến 1.000 tỷ đồng và nợ gần 2.000 tỷ tiền đầu tư cơ sở hạ tầng. Để hợp lý hóa việc sát nhập AVG, một doanh nghiệp kinh doanh truyền hình chứ không phải viễn thông, Lê Nam Trà đã móc nối với Lãnh đạo Bộ Thông tin – Truyền thông để xin chủ trương của chính phủ cho phép Mobifone đầu tư vào lĩnh vực truyền hình. Với sự giúp đỡ của Nguyễn Thanh Phượng, con gái Thủ tướng Dũng, chủ trương này nhanh chóng được chính phủ phê duyệt. 3X BỊ HẤT CẲNG Ở HỘI NGHỊ TW13 Khi phe Thủ tướng Dũng có dấu hiệu đuối thế trước phe của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại HNTW 13, Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà nhận thấy hai điều: không thể mạo hiểm bằng mọi giá sát nhập AVG vào Mobifone và không thể hoàn thành việc cổ phần hóa Mobifone vào cuối nhiệm kỳ Thủ tướng (trước tháng 06/2016) vì đó sẽ là thời điểm ông Dũng cần đàm phán với phe ông Trọng để toàn bộ êkip được hạ cánh an toàn. Việc cổ phẩn hóa Mobifone chắc chắn sẽ do chính phủ mới phụ trách. Không còn làm chủ được cuộc chơi, vụ áp-phe lần 2 của Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà đứng trước nguy cơ đổ bể. Để vớt vát công sức mấy năm dàn trận, Nguyễn Thanh Phượng cùng Lê Nam Trà quyết định “ăn non”: hoàn tất kế hoạch việc Mobifone phải mua lại 95% cổ phần của AVG ngay trước khi HNTW 14 diễn ra (ký hợp đồng vào trưa ngày 25/12/2015). SAI PHẠM KHỔNG LỒ CỦA KẾ HOẠCH “ĂN NON” Giá trị thật sự của AVG được tính toán không đến 1.000 tỷ đồng, tuy nhiên Lê Nam Trà đã ký quyết định mua lại 95% với giá 8.900 tỷ, cao hơn giá trị thực 8.000 tỷ đồng. Số tiền này được Vin Group (PHẠM NHẬT VƯỢNG) giải ngân cho Lê Nam Trà cùng một số lãnh đạo của Bộ Thông tin – Truyền thông thay vì bằng tiền thì bằng các bất động sản trong – ngoài nước và các tài khoản ngân hàng nhiều triệu USD ở nước ngoài, mỗi người bỏ túi từ 5%-10%. Để kịp hoàn tất hợp đồng mua bán trước HNTW 14, Lê Nam Trà đã chỉ đạo không chuẩn bị hồ sơ, lập dự án trình Bộ Kế hoạch – Đầu tư và Bộ Tài chính thẩm định theo đúng quy trình (vì nếu làm đúng quy trình chắc chắn sẽ không được duyệt) mà chỉ thông qua móc nối với một số lãnh đạo Bộ Thông tin – Truyền thông để trình thẳng lên Chính phủ. Dù rất vội vã mua AVG, nhưng sau khi hoàn tất hợp đồng, do lo sợ tính pháp lý không đảm bảo, Lê Nam Trà chỉ đạo nhân viên giữ kín toàn bộ thông tin và không được gây ra bất cứ động tĩnh nào (BCA đóng dấu mật là vậy). Mobifone có thành lập Ban Truyền hình để tiếp quản AVG và phát triển kinh doanh truyền hình nhưng đến thời điểm này vẫn án binh bất động, chờ đợi vụ việc chìm xuống. Ngay sau khi bài báo “Lê Nam Trà – tay trong con gái Thủ tướng phá hoại 20 năm phát triển bền vững của Mobifone” được đăng trên các báo lề trái vạch trần các sai phạm ở Mobifone dưới thời Lê Nam Trà, Lê Nam Trà mới vội vã đính chính: “Chúng tôi đang tiếp quản AVG” trên các báo lề phải. Việc mua AVG đã làm chậm tiến độ cổ phẩn hóa Mobifone và làm giảm mạnh giá trị vốn hóa của Mobifone. Mobifone đã hoàn thành việc xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên giá trị số sách vào ngày 30/06/2015. Tuy nhiên với việc mua lại AVG vào ngày 25/12/2015, việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ phải thực hiện lại dựa trên giá trị sổ sách vào ngày 31/12/2015. Ngoài ra, với việc đưa vào kế hoạch kinh doanh dự phòng lỗ 700 tỷ đồng cho AVG trong năm 2016, nợ đọng của AVG 2.000 tỷ, lỗ lũy kế 1.000 tỷ, giá trị vốn hóa của Mobifone chắc chắn sẽ giảm vài tỷ USD so với con số 10 tỷ USD được ước tính ban đầu. Trong bối cảnh nợ công ngày càng tăng, ngân sách sẽ bị thất thoát đi vài tỷ USD chỉ vì một nhóm người chia chác nhau cái lợi 8.000 tỷ đồng (gần 400 triệu USD). Tháng 2 năm 2012, Nguyễn Thanh Phượng, cô con gái duy nhất của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chính thức giữ chức chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt (Viet Capital Bank). Như vậy, tại thời điểm đó, bà Phượng nắm trong tay tới 4 công ty khác nhau cùng có tên là Bản Việt gồm công ty đầu tư chứng khoán Bản Việt (VCSC), công ty quản lý quỹ đầu tư Bản Việt (VCAM hay Vina Capital) và công ty bất động sản Bản Việt (VCRE). Tháng 09 năm 2015, Công ty đầu tư chứng khoán Bản Việt (VCSC) được chỉ định thầu thực hiện tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án cổ phần hóa và IPO cho Mobifone. Trong khi đó, Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Bản Việt (Vina Capital) từ 2013 đã âm thầm mua lại 90% các trạm xã hội hóa của Mobifone. Với những động thái này, Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà đang âm mưu những gì? THÂU TÓM NGÂN HÀNG GIA ĐỊNH Tháng 7 năm 2011, Ngân hàng Gia Ðịnh bán 100 triệu cổ phiếu với giá 10.000 đồng/cổ phiếu nhằm tăng vốn điều lệ từ 2000 tỉ đồng lên thành 3000 tỉ đồng. Công ty VCSC Bản Việt của bà Phượng đứng ra lãnh vai trò tư vấn phát hành cổ phiếu, nên qua đó, Nguyễn Thanh Phượng đã mua lại một lượng đáng kể cổ phần của ngân hàng Gia Định rồi trở thành thành viên Hội Ðồng Quản Trị, đổi tên ngân hàng này thành “Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt”. Kịch bản tương tự hoàn toàn có thể xảy ra với Mobifone khi VCSC tiếp tục nắm vai trò tư vấn cổ phần hóa. Thông qua việc phát hành cổ phiếu, tăng vốn điều lệ, tăng vốn góp để phục vụ phát triển công nghệ 4G, Nguyễn Thanh Phượng sẽ mua được phần lớn cổ phiếu được bán ra với vỏ bọc các Quỹ đầu tư nước ngoài. Liệu sau đó, Mobifone có bị đổi tên thành Tổng công ty Viễn thông Bản Việt? Vina Capital đang nắm trong tay hơn 90% tổng số trạm xã hội hóa của Mobifone với số vốn bỏ ra được vay từ Ngân hàng Bản Việt. Trong số 3 nhà mạng lớn, Mobifone là đơn vị có số lượng trạm ít hơn cả nên nhu cầu tăng số lượng trạm là rất cấp thiết. Mobifone đặt mục tiêu phát sóng thêm hơn 12.000 trạm mới trong 2016. Kịch bản nào nếu VSCS “tư vấn” Mobifone mua lại từ Vina Capital toàn bộ số trạm xã hội hóa này và hoàn trả bằng cổ phiếu với giá gốc 10.000 đồng/cổ phiếu. Nguyễn Thanh Phượng đương nhiên sẽ có thêm được một số lượng lớn cổ phần của Mobifone với giá cực rẻ. CỤ TỔNG/ AVG/ AMAX CỦA THANH PHƯỢNG? Những chi tiết về gia đình, học vấn, tiền bạc, các công ty hay những lời đồn đại về Nguyễn Thanh Phượng người ta đã nói rất nhiều. Nào là Nguyễn Thanh Phượng thâu tóm các ngân hàng, mỏ quặng hay những chiến lược lobby, vận động hành lang cho cha mình và vạch kế hoạch tương lai cho 2 người anh em trai bất tài ham chơi của mình. Và gần đây, thương vụ Mobifone mua AVG đã làm nổi sóng dư luận. Người ta đồn đoán rằng, người lên kế hoạch cho thương vụ mua bán, ăn tiền nhà nước lên đến vài trăm triệu đô la này chính là Nguyễn Thanh Phượng. TBT Nguyễn Phú Trọng muốn tiến tới nhà của đồng chí X thì buộc phải diệt được thành trì Nguyễn Thanh Phượng và cũng là godfather (godmother) gia tộc Nguyễn Tấn Kiên Giang. Nguyễn Thanh Phượng thực sự có phải là chủ mưu thương vụ làm thất thoát ít nhất 7000 tỷ này hay không? Và nếu có thì tại sao trong bản kết luận thanh tra vừa rồi đưa ra, gần như không lục tìm thấy dấu vết liên quan đến Nguyễn Thanh Phượng có dính líu đến đại án chấn động này. Ngoài việc, có một sự nhầm lẫn về ¼ công ty định giá AVG là VCBS (thuộc Ngân hàng VietComBank) và VCSC (thuộc Tập đoàn Bản Việt của Nguyễn Thanh Phượng). Từ cuối tháng 8/2017, khi lời đồn thổi trở nên râm ran thì TGĐ VCSC (Bản Việt) khẳng định rằng, công ty họ không khải là đơn vị định giá, mà là công ty thuộc VietCombank(1). Có những nguồn tin nội bộ thì cho rằng công ty tư vấn của Nguyễn Thanh Phượng cũng tham gia vào việc này nhưng bị loại từ vòng gửi xe. Con đường đến với Bản Việt và Nguyễn Thanh Phượng của TBT Nguyễn Phú Trọng đến đây là vào ngõ cụt. Quay lại, có 4 đơn vị tư vấn thẩm định giá thương vụ AVG là AASC, VCBS, Hanoi Value và AMAX(2). AASC và VCBS đều là những thương hiệu lớn, thì Hanoi Value và AMAX đều là công ty rất bé, vốn điều lệ chỉ là 1 và 3,8 tỷ đồng. Với khả năng như vậy, thì việc được tham gia tư vấn cho một dự án lớn tính bằng trăm triệu đô đến tỷ đô như vậy là quá kì lạ. Đặc biệt, giá trị thẩm định được 4 công ty tư vấn này đưa ra đều khác nhau và chênh nhau rất nhiều. Hai công ty đầu đưa ra những con số không tưởng, từ 1-1,5 tỷ đô la . Hai công ty bé kia đưa ra những con số thấp hơn khá nhiều, và thấp nhất là AMAX là hơn 16 ngàn tỷ (2). Tất nhiên, như chúng ta đều biết, con số quá bé so với giá trị thực của AVG mà TTCP vừa đưa ra. Giá trị mà TTCP đưa ra là 1900 tỷ, chưa tính lỗ lũy kế đến 2017 cỡ 1 ngàn tỷ và thua lỗ tại 2 dự án mà Phạm Nhật Vũ đã mua với giá rất cao nhằm mục đích rút ruột AVG trước khi bán. Một năm sau khi thương vụ hoàn thành, Hanoi Value đã chuyển thành công ty mỹ viện, chuyên chăm sóc sắc đẹp (3) . AMAX vẫn là một công ty nhỏ với vốn điều lệ giữ nguyên 3,8 tỷ và gần như không có gì nổi bật sau khi được nhận một thương vụ rất lớn như thế (4). Người đại diện pháp lý và là Tổng giám đốc là Võ Văn Mạnh, một Thạc sỹ giảng dạy tại Fulbright (5). Như vậy, manh mối liên quan đến Nguyễn Thanh Phượng gần như không tồn tại trên bản KLTT. Tuy vậy, trong bản KLTT cũng như gần đây những bài báo được chỉ thị liên tục tấn công vào AMAX, 1 trong 4 đơn vị tư vấn, dù rằng AMAX là đơn vị cho giá thấp nhất. Trong khi 3 đơn vị kia cho giá cao hơn rất nhiều và gần như không tưởng. Ngay cả kết quả thấp nhất của AMAX cũng bị KLTT nói rõ là “không có cơ sở”. Nhưng tại sao báo chí lại xoáy vào AMAX mà bỏ quên đơn vị kia? Và manh mối nằm ở đây. AMAX chính là công ty của Phượng, dù Phượng không hề đứng tên hay sở hữu chút cổ phẩn nào ở đó. Và 3 đơn vị kia chỉ là chân gỗ được sắp xếp vào và cố tình hét giá cao nhất để AMAX được nhận làm kết quả. Tuổi Trẻ và Thanh niên, 2 tờ báo mạnh mẽ nhất và có vẻ như được cờ lệnh từ trên đều đưa những thông tin kĩ lưỡng về AMAX và những người trong nghề báo điều tra đều nhận ra là “đánh có bài bản”. Điểm cuối của những bài điều tra chắc chắn sẽ là AMAX, nói đúng hơn, là tìm đến công chúa Nguyễn Thanh Phượng. Tuy nhiên, Nguyễn Thanh Phượng không hề có cổ phần hay dính líu mặt pháp lý gì đến AMAX. Vậy, làm cách nào để nắm được đuôi của một con cáo vô cùng ma mãnh, quỷ quyệt và khôn ngoan vô cùng đó? Chỉ có một cách, là khởi tố vụ án thật nhanh KHỞI TỐ AVG VÀ CHÂN TƯỚNG AMAX TTCP đã đề nghị khởi tố vụ án để điều tra. Và muốn túm được đuôi công chúa, đó là con đường duy nhất trước khi manh mối bị hủy hoặc các đối tượng quan trọng trốn ra nước ngoài. Sau khi khởi tố vụ án, vì có dấu hiệu của tội lừa đảo của 4 đơn vị tư vấn (vì đưa ra kết quả sai và dựa vào những điều không đúng như việc kinh doanh tăng trưởng hay giá trị thương hiệu,…) nên có thể triệu tập 4 đơn vị tư vấn kia lên. Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ (biện pháp gì không biết, hi hi), để 3 công ty kia khai nhận là được Phượng sắp xếp làm chân gỗ và cố tình hét giá cao lên. Đồng thời, tìm ra bằng chứng chính AMAX là cò mồi của Nguyễn Thanh Phượng câu con cá Mobifone gần 7000 tỷ kia. Tuy nhiên, tiến trình này phải tiến hành nhanh chóng và sử dụng những điều tra viên có trình độ nhất; nếu không, rất khó tìm ra được bằng chứng hoặc để các đối tượng quan trọng đào thoát thì cả chiến dịch vây bắt trở thành công cốc. Tướng Lý Anh Dũng, cục trưởng A92, người được Nguyễn Phú Trọng tin cẩn, nhanh chóng giải quyết hoặc chuyển người khác phụ trách vụ đánh bạc liên quan đến Nguyễn Thanh Hóa, Phan Văn Vĩnh và có thể cả Phạm Quang Nghị, để dồn hết tâm sức phi vụ này, lập đại công để nhận chức Thứ trưởng và Bộ trưởng trong tương lai. P/S: Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc Son, Lê Nam Trà, Cao Duy Hải, và AVG… đang ra sức chạy tội. Với số tiền khủng sau những phi vụ như thế này, họ thừa tiền để thuê luật sư hay đội ngũ dư luận viên, định hướng viên,…cũng như nhiều cách khác để chạy tội. Nhưng có lẽ Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc Son,… và đội quân chạy tội đang dày công vô ích. Chuyện mặc áo Juvetus, ăn cơm tù, ra vành móng ngựa gần như không thay đổi được. Con mồi mà TBT Nguyễn Phú Trọng săn ở đây to hơn rất nhiều so với họ. Con mồi này chính là công chúa Nguyễn Thanh Phượng, là người nắm giữ tương lai của gia tộc Nguyễn Tấn Kiên Giang và đối thủ từng làm ông bật khóc ngay trước ống kính truyền hình khi không kỷ luật thành công đồng chí X vào năm 2012. Khi vào thế cờ, thì người ta sẵn sàng thí hết cả bàn cờ để bắt tướng, chứ không riêng gì vài con tốt lụt đâu.  
......

Tàu cẩu Lam Kình và lộ diện ‘tình huống xấu nhất’

Tàu cẩu Lam Kình của Trung Quốc ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 3/9/2019 Thường Sơn (VNTB) Ngay sau khi xuất hiện tàu cẩu lớn nhất thế giới của Trung Quốc là Lam Kình ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 3/9/2019, chỉ cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 11 hải lý và cách đảo Lý Sơn khoảng 30 hải lý về phía nam, một số dư luận viên thân đảng đã lo sợ thực sự hi rút tít: “Tàu cẩu giàn khoan Trung Quốc vào vùng biển Việt Nam, chuẩn bị tình huống xấu nhất”. ‘Tình huống xấu nhất’ là gì? Đó là một thuật ngữ của giới quân sự Việt Nam nhằm mô tả tình trạng sẵn sàng chiến đấu ở cấp cao nhất. Nghĩa là có thể nổ ra chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc. Lo sợ là đúng, bởi khác hẳn với tàu Hải Dương 8 chỉ làm nhiệm vụ thăm dò địa chất, Lam Kình làm cho người ta lập tức nhớ lại giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung Quốc cho tấn công vào vùng biển Việt Nam trong năm 2014. Cùng lúc, các trang báo South China News và IndoPacific_SCS_Info đã dự đoán rằng có thể Bắc Kinh đang chuẩn bị đưa một giàn khoan đến hoạt động trong vùng biển của Việt Nam. Đó có thể là giàn khoan nào? Vào tháng 4 năm 2019, Trung Quốc đã thình lình tung ra động thái đưa giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai là Đông Phương vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông. Giàn khoan này nặng 17.247 tấn, tương đương với 10 nghìn chiếc xe ôtô thông thường và rộng bằng một sân bóng đá và không thua kém gì giàn khoan Hải Dương 981 mà đã ngự trị ở Biển Đông trong năm 2014. Vụ Đông Phương hờm sẵn kịch bản tái hiện hải Dương 981 hiện ra trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ (nhưng cũng vào tháng 4 đó, ông Trọng bất thần bị một cơn bạo bệnh tại Kiên Giang nên chuyến đi Mỹ của ông ta phải dời lại). Nếu Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ – như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018 mà bất chấp Việt Nam có muốn hay không, đó sẽ là một thảm họa với Bộ Chính trị đảng Việt Nam. Đánh thì sợ mà không đánh thì bị cướp trắng và mặt mũi chẳng còn ra thể thống gì. Chỗ dựa dẫm duy nhất giờ đây của Hà Nội chỉ còn là Hoa Kỳ – đối trọng duy nhất của Trung Quốc tại Biển Đông. Trong thời gian qua, đã có những thông tin ngoài lề về việc quân đội Việt Nam điều quân để củng cố vùng biên giới phía Bắc và cả biên giới tây nam giáp Campuchia. Tuy nhiên, đó chỉ là cách phòng thủ hết sức thụ động, một kiểu che chắn theo cách ‘kịch liệt phản đối’ nhưng cứ phải giương mắt thao láo nhìn kẻ cướp xông vào nhà mình và lần lượt bỏ túi từng món đồ. Cũng cần bổ sung, cho tới nay các tàu chiến và tàu hải cảnh Việt Nam vẫn chỉ lọ mọ theo đuôi tàu Hải Dương 8 mà không có được bất cứ hành động mạnh mẽ nào, dù chỉ là nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ công tác ‘vận động quốc tế ủng hộ Việt Nam’ đã chỉ nhận được nhưng lời lẽ chia sẻ chung chung và xã giao, còn lại đã chẳng có bất kỳ hành động quân sự đáng chú ý nào từ các nước ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam. Vậy nếu nổ ra ‘tình huống xấu nhất’ với Trung Quốc, hải quân Việt Nam sẽ đánh chác ra sao?  
......

Việt Nam sẽ ‘xoay trục’ về Mỹ ra sao sau vụ Hải Dương 8?

Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc (Ảnh: China Geological Survey) Phạm Chí Dũng - VOA| Đến giờ phút này, ‘xoay trục’ sang Mỹ hầu như đã là một định đề phải có và không còn lối thoát nào khác của chính thể độc đảng ở Việt Nam. Nhưng sẽ là ‘xoay trục’ ra sao và đến mức độ nào? Hậu quả từ mê nhảm ngủ ngày Chiến dịch gây hấn của Trung Quốc mang tên ‘Hải Dương 8’ cùng những trò phép tiếp sau tàu này nổ ra tại Bãi Tư Chính của Việt Nam vào năm 2019 hoàn toàn xứng đáng là đáp án thích đáng cho phương trình ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười Sáu Chữ Vàng’ mà giới chóp bu Hà Nội vẫn mê nhảm trong cơn ngủ ngày. Cơn ngủ ngày đó đã lê lết thảm thiết từ tháng 5 năm 2014 - khi nổ ra vụ giàn hoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao vào Biển Đông như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Việt Nam… cho tới tận giờ này. Cái cách mà Nguyễn Phú Trọng bày tỏ ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam’ hệt như lối lấy lòng ‘đảng anh’ của ông ta chỉ tổ khiến Tập Cận Bình lên mặt trịch thượng và ‘mềm nắn’ hơn nữa với ‘đứa con hoang đàng’ (từ ngữ mà Ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì đã xỉ vả các ủy viên bộ chính trị Việt Nam ngay tại Hà Nội vào năm 2014, vài tháng sau khi xảy ra biến cố Hải Dương 981). Tính thực chứng về hậu quả đã hiện ra rất rõ: bất chấp những chuyến ‘triều kiến’ liên tục của đích thân Nguyễn Phú Trọng và và các nhân vật còn lại trong ‘tứ trụ’ vào thời Trần Đại Quang còn chưa chết và vào thời hậu Quang, bất chấp việc giới qauan chức cao cấp Việt Nam đã cúc cung muối mặt mời Tập Cận Bình phát biểu trong nghị trường của một quốc hội ‘nghị gật’ ở Hà Nội trong lúc công an Việt thẳng tay đánh đổ máu đồng bào mình vì dám phản đối họ Tập, cũng bất chấp việc giới quan chức cao cấp Việt Nam đã cúi mình ký kết với Trung Quốc hàng chục văn kiện hợp tác và thỏa hiệp về nhiều chuyện - đặc biệt là cơ chế nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc và cho nhà thầu Trung Quốc những ưu đãi quá lớn - sau vụ Hải Dương 981…, Bắc Kinh vẫn tuần tự và lạnh lùng đánh thẳng vào yết hầu nuôi đảng của ‘đảng em’ Việt Nam là Bãi Tư Chính trong ba năm liên tiếp - lần đầu vào tháng 7 năm 2017, lần thứ hai vào tháng 3 năm 2018 và thêm một lần nữa - nguy biến hơn hẳn - vào năm 2019. Chính sách ‘ba không’ của chính thể độc tài ở Việt Nam đã vỡ vụn như những con tàu ngư dân Việt bị lừa bọc bằng sắt gỉ của Trung Quốc để khi tiến ra biển lớn đã vỡ tung. Nhưng với não trạng bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’ của giới cầm quyền ở Việt Nam, sự thể cay đắng nhất, cay đắng tận cùng vẫn là việc ‘đảng em’ bị chính ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ - như cách mà Hà Nội thường tụng ca Trung Quốc đến ngút ngàn mây xanh’ - ép vào tử lộ. ‘Trung Quốc dồn Việt Nam vào chân tường rồi!” - lời tán thán thốt lên bởi một viên tướng trên mâm chiếu có đến 500 tướng quân đội ở Việt Nam - hẳn đã phản ánh cái thế ‘kẻ thù lớn bởi vì mi quỳ xuống’ mọp lạy bỉ bôi đến thế nào. Nếu mất Bãi Tư Chính? Đã đến nước này, không phản ứng thì chỉ có chết. Chết theo đúng nghĩa bóng và cả nghĩa đen. Bởi Bãi Tư Chính - nơi mà Trung Quốc không thèm giấu diếm ý đồ muốn nuốt trọn - là khu vực màu mỡ nhất về dầu và khí đốt, tập trung nhiều nhất các lô dầu khí là tiềm năng thiên nhiên duy nhất còn lại ở Việt Nam, sau khi ‘rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu’ đã cạn kiệt và hoang hóa sau hơn bốn chục năm ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’ và bởi nguồn cơn ‘có cho người cộng sản cả một sa mạc thì họ vẫn phải nhập khẩu cát’. Sự thật rành rành là nếu mất Bãi Tư Chính, hoặc nếu không mất nhưng phải cắm mặt ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí’ với Trung Quốc để chấp nhận chia tỷ lệ đến 60% hoặc hơn cho ‘đồng chí tốt’, trong khi Bắc Kinh chỉ đơn giản là thò tay vào túi người khác móc tiền, chính thể Việt Nam sẽ mất trắng hoặc mất phần lớn số ngoại tệ lên đến 4-5 tỷ USD mỗi năm - bằng với ngân khoản chi phí cho quốc phòng và bổng lộc hàng năm cho 500 tướng quân đội cùng nhiều ngàn đại tá của chế độ này. Trong khi đó, tình cảnh đã trở nên bĩ cực đến khôn tả: cho dù luôn tuyên rao có chẵn một chục ‘đối tác chiến lược toàn diện’ với nhiều quốc gia trên thế giới, đã không một bàn tay nào được chìa ra cho Việt Nam kể từ khi nổ ra vụ Hải Dương 981 và tiếp đến vụ Bãi Tư Chính trong ba năm liên tiếp 2017, 2018 và 2019. Trong số đó, có cả hai ‘đối tác chiến lược’ có lợi ích ở Bãi Tư Chính là Tây Ban Nha - mỏ Cá Rồng Đỏ, và Nga - mỏ Lan Đỏ, đều tuyệt đối im tiếng. Trong tận cùng nỗi ‘cô đơn chiến lược’ như thế, rốt cuộc chính thể Việt Nam phải dựa vào ai? Chỉ còn có Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông. Làm sao để bỏ đá ghè chân mình? Mỹ cũng có lợi ích về dầu khí ở vùng biển ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi của Việt Nam: mỏ khí đốt Cá Voi Xanh có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối và có thể mang lại đến 60 tỷ USD - một con số khổng lồ và cực kỳ hấp dẫn để trám bù vào ngân sách hộc rỗng của đảng CSVN. Nhưng Mỹ lại chưa hề là ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam. Thậm chí Mỹ còn bị Nguyễn Phú Trọng và những người đồng đảng của ông ta xem là ‘đối tác toàn diện loại thường’. Bài toán đặt ra với Trọng hiện thời là một sự gấp rút thời gian khi phải lôi kéo được người Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời của Việt Nam ở Biển Đông, mà nếu động thái đó được triển khai có hiệu quả thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sẽ yên tâm khai thác dầu khí cùng với các đối tác liên doanh mà không còn quá sợ hãi bị Trung Quốc nắt nạt, còn Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng có thể tỏ ra can đảm hơn đôi chút chứ không đến nỗi bị dân chửi ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ và ‘chưa đánh chác gì đã đái cả ra quần’. Nhưng muốn đạt được ý đồ trên, chính thể độc đảng ở Việt Nam lại phải tính đến việc từ bỏ một phần hoặc toàn bộ chính sách ‘ba không’ giáo điều và vô bổ của nó, nhất là hai nguyên tắc không liên kết với nước này để chống lại nước khác và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam mà đã tự lấy đá ghè chân mình. Bởi thực chất mối quan hệ ‘đối tác chiến lược’ mà giới chóp bu Việt Nam đang muốn tìm kiếm ở người Mỹ là sẽ phải giải tỏa những nguyên tắc cản đường: không những Việt Nam và Mỹ phải tiến đến một quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ theo mô hình tương trợ quốc phòng mà Mỹ đã ký và thực thi với Philippines, mà Việt Nam phải thừa hiểu là chỉ khi cho Mỹ đặt căn cứ quân sự ở quân cảng Cam Ranh thì tàu Mỹ và máy bay Mỹ mới có thể khống chế được các tàu và máy bay Trung Quốc từ phía Bắc lấn xuống Biển Đông. Chứ không thể chỉ bằng cách ‘đọc vẹt’ của người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam về ‘tôn trọng tự do hàng hải’ và cả ‘tự do hàng không’ là đã đủ cho mối quan hệ tương trợ quốc phòng Việt - Mỹ. Cũng không chỉ bằng cử chỉ âm thầm ‘trốn’ không chịu đi Bắc Kinh của Nguyễn Phú Trọng. Nếu chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2019 như một dự kiến mới nhất, đó sẽ là cuộc làm việc còn quan trọng hơn cả sĩ diện của cá nhân ông Trọng. Đó là vận mạng của các mỏ dầu khí ở Biển Đông, của ngân sách đảng, thậm chí còn là số phận của đảng CSVN và của toàn bộ lực lượng ‘còn đảng còn tiền’ và ‘còn đảng còn mình’. Đến giờ phút này, Việt Nam ‘xoay trục’ sang Mỹ hầu như đã là một định đề phải có và không còn lối thoát nào khác. Cần có một điểm gặp nhau của chính sách xoay trục của Hoa Kỳ về châu Á - Thái Bình Dương từ năm 2013 với chủ trương xoay trục từ phương Bắc sang phương Tây của Việt Nam ngay vào lúc này, sau khi giới chóp bu Hà Nội đã bỏ lỡ không ít cơ hội để làm điều đó suốt từ năm 2014 đến tận gần đây. Điểm gặp nhau đó sẽ thành hình vào lúc nào và như thế nào? Mọi chuyện tùy thuộc vào cái thế bị dồn đến chân tường của Việt Nam, và phụ thuộc phần lớn vào quan điểm và ‘bản lĩnh Nguyễn Phú Trọng’ khi ông ta đàm phán ở Washington không chỉ với Donald Trump mà cần với cả Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Hoa Kỳ.  
......

Trung Quốc đang thực hiện chiến thuật nuốt từng hải lý biển Việt Nam

 Họa đồ di chuyển của Hải Dương 8 Thường Sơn (VNTB)| Trong lúc 6 tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Việt Nam được cho là còn phải đi chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn, còn các tàu chiến khác, kể cả ‘tàu buồm hiện đại nhất thế giới’ mang tên Lê Quý Đôn mất dạng, toàn bộ lực lượng hải quân Việt Nam vẫn phủ phục trong tư thế bất  lực và kiên định… bám bờ, các tàu Trung Quốc đã thả giàn tung hoành ở Biển Đông và ngay trong ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi’ của Việt Nam. Chỉ trong vòng khoảng một tuần, nhóm tàu khảo sát Hải Dương-8 của Trung Quốc đã tiến sâu thêm 30 km vào vùng biển Việt Nam và chỉ còn cách bờ biển tỉnh Ninh Thuận, miền trung Việt Nam khoảng 155 km, theo dữ liệu theo dõi tàu biển của trang Marine Traffic vào sáng sớm ngày 1/9. Trước đó vào ngày 24/8, Hải Dương 8 cùng các tàu hải cảnh của Trung Quốc chỉ cách bờ biển Phan Thiết của Việt Nam khoảng 185 km. Vụ tàu Trung Quốc lấn dần từng chục hải lý như thế đã gián tiếp tiết lộ một sự thật bi thảm: trong suốt thời gian từ đầu tháng 6 năm 2019 khi tàu Trung Quốc bắt đầu xâm nhập bãi Tư Chính, Bộ Quốc phòng và Cảnh sát biển Việt Nam đã đối phó tệ hại đến mức Trung Quốc hoàn toàn coi thường những hành động đối phó này. Chiến thuật Việt Nam dùng một số tàu chiến và tàu hải cảnh bao vây tàu Trung Quốc, hoặc bám chặt tàu Trung Quốc đã tỏ ra vô ích và vô tích sự, bởi về số lượng thì tàu Trung Quốc luôn vượt gấp ít ra vài ba lần số tàu Việt Nam, còn việc bị bám đuôi thì Trung Quốc chẳng coi ra gì. Cho tới nay, phía Việt Nam vẫn chẳng dám nổ một phát súng nào, dù chỉ để cảnh cáo tàu Trung Quốc. Vì sao lực lượng hải quân Việt Nam lại phủ phục đến thế? Nếu nổ ra chiến tranh thật sự với Trung Quốc thì lực lượng này sẽ đánh chác ra sao? Nếu ai đó cho rằng hải quân Việt Nam còn đang ‘giấu mình’, vẫn nêu cao tinh thần yêu nước và sẽ ra đòn quyết định vào một thời điểm thuận lợi, làm thế nào để giải thích việc một đô đốc của quân chủng này – Nguyễn Văn Hiến – cách đây không lâu đã bị tống vào ‘lò’ của ‘tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng vì tội ‘ăn đất’? Trung Quốc muốn ép Trọng? Việc tàu Hải Dương 8, vừa trở lại khu vực Bãi Tư Chính sau 5 ngày quay lại đảo Đá Chữ Thập để tiếp liệu, lại rời Bãi Tư Chính để ‘tham quan’ vùng biển gần Phan Thiết, xảy ra trong bối cảnh một tin tức đang ngày càng cận kề: sau một thời gian khá dài được Ban Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trung ương tận tình cứu chữa, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng đã gần như hồi phục khỏi cơn bạo bệnh và chuẩn bị cho chuyến thăm Washington – một chuyến đi đặc biệt quan trọng – không chỉ về danh thể của Nguyễn Phú Trọng mà còn do tính chất đối đầu đã tới lúc không thể khoan nhượng giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà theo đó Việt Nam đang rất cần đến lực lượng hải quân và không quân của Hoa Kỳ – đối trọng duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông – để bảo vệ Việt Nam khai thác dầu khí nuôi đảng. Chẳng khó để hình dung ra rằng Tập Cận Bình chẳng thích thú gì với chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, và muốn gây sức ép buộc Trọng phải hủy bỏ chuyến đi đó. Hoặc nếu không hủy bỏ thì buộc Nguyễn Phú Trọng phải đi Trung Quốc trước khi đi Mỹ, như một biểu hiện ‘triều kiến’. Thời điểm dự kiến cho chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng đang lùi sang tháng 10 năm 2019. Đã hầu như chắc chắn là sau giai đoạn đầu cho tàu Hải Dương 8 vào quấy phá tại Bãi Tư Chính, Trung Quốc sẽ còn ra những đòn mới và lắm chiêu trò hơn nhằm hành hạ tinh thần ảo não của giới chóp bu Việt Nam. Trung Quốc đang thực hiện chiến thuật nuốt từng hải lý biển Việt Nam. Có thể vào một ngày đẹp trời không lâu nữa, người dân và các lực lượng quân đội lẫn cảnh sát ở Phan Thiết hoặc ở một thành phố duyên hải nào đó của Việt Nam sẽ trố mắt trước những chiếc tàu giương cờ Trung Quốc lừng lững ngự ngay trước mắt họ ở vùng biển sát bờ./.  
......

Tàu cẩu TQ Lam Kình di chuyển vào vùng biển VN, chuẩn bị đặt giàn khoan?

Lam Kình là tàu cẩu lớn nhất trên thế giới của Trung Quốc, chuyên làm nhiệm vụ cẩu và đặt những thiết bị rất nặng như các giàn khoan dầu khí. Khánh An-VOA| Tàu cẩu lớn nhất thế giới của Trung Quốc, tàu Lam Kình, đang di chuyển trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, các nguồn tin về Biển Đông trích dẫn dữ liệu theo dõi tàu cho biết hôm 3/9. Thông tin này cũng được một chuyên gia xác nhận với VOA và đồng thời cho biết thêm rằng lực lượng cảnh sát biển của Việt Nam đang theo dõi động thái của con tàu này. Theo trang South China News và IndoPacific_SCS_Info, tàu Lam Kình của Tập đoàn Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) đã xuất hiện trong vùng biển của Việt Nam hôm 3/9. Nguồn tin dự đoán rằng có thể Bắc Kinh đang chuẩn bị đưa một giàn khoan đến hoạt động trong vùng biển của Việt Nam. Nhà báo Duan Dang trích dẫn dữ liệu từ Marine Traffic cho biết thêm rằng tọa độ của Lam Kình là 14°56'6.00"N/109°23'42.00"E ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào lúc 9 giờ 42 phút cùng ngày, chỉ cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 11 hải lý và cách đảo Lý Sơn khoảng 30 hải lý về phía nam, nghĩa là trong lãnh hải của Việt Nam, cũng là nơi có dự án Cá Voi Xanh mà Việt Nam đang hợp tác với tập đoàn dầu khí Mỹ Exxon Mobil để khai thác. Xác nhận thông tin về sự xuất hiện của tàu cẩu Trung Quốc trong khu vực, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu an ninh và chính trị khu vực của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS có trụ sở ở Singapore, nói thêm với VOA rằng vị trí di chuyển của tàu Lam Kình là trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), chứ không phải bên trong lãnh hải (trong vòng 12 hải lý). Theo ông, với tình trạng “đi qua vô hại” của tàu Lam Kình trong khu vực EEZ, thì Việt Nam chưa thể phản ứng gì vì đây là một hoạt động hợp pháp theo luật quốc tế. “Đi kèm theo nó là mấy tàu vận tải khác, nhưng người ta thấy các tàu vận tải đó không có các khung nhà giàn hay khung giàn khoan cố định nào. Và kèm theo nó còn có hàng chục tàu cảnh sát biển Trung Quốc đi hộ tống. Cảnh sát biển của Việt Nam cũng đi theo và không làm gì được người ta cả vì người ta đã làm gì đâu”, TS. Hà Hoàng Hợp nói với VOA. Mặc dù đưa ra giả thuyết về khả năng thời tiết xấu vào đêm 3/9 và sáng 4/9 khiến tàu Lam Kình có thể phải di chuyển xuống khu vực bên dưới, đối chiếu với đất liền là khoảng Phú Yên, Khánh Hòa, nhưng TS. Hà Hoàng Hợp không loại trừ khả năng Trung Quốc có thể từ một mũi khác kéo giàn khoan vào hoạt động trong vùng biển của Việt Nam và lúc đó sẽ “rất to chuyện”. “Nếu Mỹ, Nga, Ấn Độ cảm thấy bị đe dọa, bị ngăn cản hoạt động kinh tế bình thường và hợp pháp của họ trong vùng biển đặc quyền kinh tế Việt Nam thì phản ứng của họ có thể là phản ứng quân sự”, TS. Hà Hoàng Hợp dự báo. Đang tham dự một hội nghị an ninh ở Singapore với sự có mặt của các nước Trung Quốc, Nhật, Australia, Ấn Độ…, TS. Hà Hoàng Hợp cho biết các bên đang rất quan ngại về tình hình ở Biển Đông, với cảnh báo rằng “không còn ranh giới nào giữa hòa bình và chiến tranh trên biển nữa” trước những hành vi hung hăng và khó lường trước của Trung Quốc. Theo TS. Hà Hoàng Hợp, hiện Việt Nam và các quốc gia liên quan đã “chuẩn bị sẵn sàng” cho tình huống xấu nhất, tức là khả năng xảy ra đối đầu quân sự. Trước đó một ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng kêu gọi các nước giúp giảm căng thẳng ở Biển Đông do “những diễn tiến nghiêm trọng” gần đây gây ra. “Biển Đông có ý nghĩa quan trọng đối với các nước trong và ngoài khu vực trên bình diện kinh tế, an ninh, an toàn, tự do hàng không và hàng hải”, bà Hằng nói trong một email gửi cho hãng tin Bloomberg hôm 2/9. “Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng hợp tác với các nước khác và cộng đồng quốc tế nhằm duy trì hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực”. Phát biểu của người đại diện Bộ Ngoại giao được đưa ra sau khi 3 quốc gia Anh, Pháp, Đức đưa ra tuyên bố chung vào ngày 29/8, nêu lên quan ngại về những căng thẳng hiện nay ở Biển Đông và khả năng có thể dẫn tới bất ổn về an ninh và ổn định của khu vực. Trước đó, Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Ấn Độ cũng lên tiếng về việc Trung Quốc đưa tàu Hải Dương Địa Chất 8 vào hoạt động trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong thời nhiều tháng qua, bất chấp phản đối liên tục của Hà Nội và chỉ trích từ phía Mỹ. Tàu Lam Kình được trang bị một cần cẩu khổng lồ có khả năng nâng 7.500 tấn. Bản thân chiếc cần cẩu này nặng 4.000 tấn và có móc phụ nặng 1.600 tấn, có khả năng nâng và hạ các thiết bị đặc biệt nặng như các giàn khoan dầu. Cho đến nay, Lam Kình vẫn được xem là tàu cẩu lớn nhất trên thế giới.  
......

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục

(Sau khi đọc bài viết “Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ” của Gs Tương Lai) Chính Luận Trần Trung Đạo| Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com ngày 11 tháng 7, 2014 và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ. Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944.” Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn.” Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay. Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949. Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng Sản và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực Dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin. Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946. Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là Cộng Sản. Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản.” Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ. Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối. Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng Hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô. Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả Trung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì. Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường. Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS. Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng. Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN. Trung Cộng muốn gì? Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam: Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng. Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp. Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa. Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh. Trong Thế Chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco. Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng. Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ. Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao. Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến. Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước./. Trần Trung Đạo  
......

Những “cuộc chia ly màu đỏ” Việt – Trung

Diễn biến chính trị và truyền thông gần đây ở Việt Nam có vẻ như cho thấy xu hướng rõ ràng hơn cho một toan tính “thoát Trung” của nhà cầm quyền Hà Nội. Liệu rằng, đây có phải là sự thay đổi xuất phát từ nhu cầu cấp thiết cho sự tồn vong của thể chế, do áp lực khách quan hay chỉ là một chiêu trò đàng điếm chính trị của Hà Nội bấy lâu nay? Nếu thực sự đây là một khuynh hướng chính trị, ngoại giao mang tính nhất quán trong tương lai gần và dài hạn, thì hệ quả của nó sẽ là gì? Điều này vô cùng quan yếu đối với sự hưng thịnh, suy vong quốc gia. Trong lịch sử cận đại, những nhà lãnh đạo của CSVN vì những toan tính lợi ích cho phe nhóm và quyền lực của đảng phái, thường tự biến mình thành nạn nhân và đưa cả dân tộc vào vòng binh lửa trên bàn cờ địa chính trị đẫm máu của các siêu cường. Cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979 và cuộc chiến tranh với Khmer Đỏ Cambodia kéo theo hệ lụy bi thảm, dai dẳng là ví dụ rõ ràng nhất. Những người “anh, em” cộng sản mới hôm qua còn thề bồi “mãi mãi keo sơn”, nhưng vì lợi ích và tham vọng quyền lực, có thể ngày hôm sau quay ra giết nhau tàn nhẫn. Nếu thực sự Hà Nội đang toan tính cho một cuộc chia tay với người bạn “4 Tốt” trong bối cảnh mà xem ra mối duyên nợ đã trở thành nghiệp báo, khi “tuần trăng mật” Việt – Trung đã hết, thì cái giá phải trả cho “cuộc chia ly màu đỏ” lần này là gì? Giải pháp nào cho một cuộc “thoát Trung” êm thấm, ít tổn thương nhất? Trước khi để có câu trả lời, hãy cùng nhìn lại bức tranh toàn cảnh theo dòng thời gian lịch sử cận đại và hiện tại về mối quan hệ chồng chất ân oán, cừu thù giữa hai đảng cộng sản “anh em”: Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cộng sản đảng. Cuộc “chia ly lần thứ nhất” của những người cộng sản Việt Nam – Trung Hoa Các cuộc chia tay giữa những người “anh em” cộng sản thường diễn ra tồi tệ với kết cục “núi xương, sông máu”. Chắc chắn, đó không phải là những xúc cảm đậm sắc màu “anh hùng cách mạng” của ông Nguyễn Mỹ lãng mạn về một tình cảm lứa đôi thời chiến trong bài thơ có cái tên “Cuộc chia ly màu đỏ” vào năm 1979. Cuộc chia tay Việt – Trung cũng có màu đỏ, nhưng là máu của hàng trăm ngàn người dân của cả hai bên chiến tuyến đổ xuống vì quyền lực của đảng phái, tham vọng địa chính trị của các hoàng đế Đỏ, dưới những danh xưng tôn nghiêm, đẹp đẽ như bảo vệ tổ quốc, chống chủ nghĩa bá quyền, bảo vệ thành quả cách mạng,… Như một vòng luẩn quẩn oan nghiệt, sau nỗ lực hy sinh hàng trăm ngàn “nhân dân anh hùng” để “thoát Trung”, những lớp lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại quay lại ôm chân Bắc Kinh chặt hơn. Những gì đã diễn ra sau 1979 là một quá trình Hán hóa liên tục, lệ thuộc nhiều hơn, cắt nhượng nhiều hơn lãnh thổ, chủ quyền, tài nguyên cho “mẫu quốc”. Khi “Anh cả Đỏ” Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, cả nước đã không còn đủ bo bo, gạo mốc để ăn vì đường lối kinh tế sai lầm duy ý chí. Bị cô lập về mọi mặt, Hà Nội cuống cuồng van xin “ơn trên” từ các “đấng Thiên tử phương Bắc”, chấp nhận đánh đổi bằng mọi phẩm giá và chủ quyền quốc gia để cứu vãn quyền lực của đảng phái và sự sụp đổ về kinh tế xã hội. Sự điếm nhục đó của Hà Nội, được biết đến với cái tên “16 chữ vàng, 4 tốt”. Để tìm hiểu sâu hơn về nguyên cớ “cuộc chia ly lần thứ nhất” của những người cộng sản Trung Quốc – Việt Nam thì phải ngược về thời gian từ thủa đầu tiên của các phong trào cộng sản ở Đông Dương cho đến thời điểm tháng Hai, 1979. Trung Quốc, cái nôi của phong trào cộng sản Châu Á, đã hỗ trợ cho tất cả các lực lượng cộng sản không chỉ giới hạn ở ba nước Lào, Cambodia và Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á và bán đảo Triều Tiên trong cuộc đối đầu với Phương Tây. Đối với Việt Nam và Triều Tiên, hai quốc gia được coi là “tiền đồn cộng sản” ở Đông Nam Á và Đông Bắc Á, sự hỗ trợ to lớn không chỉ dừng lại vũ khí, quân trang, hậu cần mà cả lực lượng tham chiến trực tiếp hoặc chuyên gia đào tạo, huấn luyện tại chỗ, chỉ huy tác chiến các chiến dịch quan trọng. Không hề ngoa khi nói rằng CSVN là con đẻ của Trung Quốc Cộng Sản Đảng. Hồ Chí Minh và những lớp cán bộ “hạt giống đỏ” đầu tiên của vùng Đông Nam Á đều được đào tạo chính trị và quân sự tại Trung Quốc. Họ được nuôi ăn học với chế độ ưu đãi ngay cả khi nhân dân Trung Quốc chết đói. Đó không phải vì tình hữu nghị vô sản mà là cái nhìn xa trông rộng của Mao Trạch Đông. Những lớp cán bộ đó khi trở về quê hương, tiến hành cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đã luôn hướng về Trung Quốc như vầng thái dương chói lòa. Họ coi học thuyết cộng sản như thánh kinh và tạc dạ ơn nghĩa Trung Hoa vĩ đại. Đó là điều Mao muốn. Ông ta cần Việt Nam, Triều Tiên như những tên lính tiên phong trong cuộc chiến tranh với Mỹ. Ở phương diện nào đó, Mao Trạch Đông xứng đáng là một thiên tài chính trị – thứ chính trị để triệt hạ, giết chóc và hủy diệt tất cả. Tuy nhiên, khi cộng sản Bắc Việt xé bỏ Hiệp Định Genève 1954, vượt qua vĩ tuyến 17 (ranh giới mang đậm tính lịch sử, ngầm định sự khống chế của Trung Hoa với Việt Nam), quyết sử dụng võ lực để thống nhất quốc gia, với sự trợ giúp lớn hơn của Liên Xô, Mao Trạch Đông đã nhắc nhở Phạm Văn Đồng “đừng đưa cán chổi đi quá xa”. Ông ta e ngại một Việt Nam thống nhất, với sự hỗ trợ của cộng sản Nga Sô, sẽ trở thành một đối thủ tiềm tàng ở ngay sau lưng mình. Mao thậm chí, đã ủng hộ khả năng có nhiều hơn một Việt Nam (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa quốc gia cùng tồn tại). Viễn kiến của Mao hoàn toàn chính xác. Khi cái “cán chổi” của Hà Nội đã quét xuống Sài Gòn vào tháng Tư, 1975, nó đã quét luôn cả sang Cambodia chỉ ít lâu sau đó. Những người cộng sản Việt Nam bấy giờ thấy “trăng Liên Xô tròn hơn trăng nước Mỹ” và có lẽ cũng to hơn, sáng hơn “trăng Bắc Kinh”. Một so sánh về viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng cho Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1965 – 1971. Khi nguồn viện trợ của Trung Quốc bị cắt bỏ, Hà Nội đã nhắc lại câu chuyện chủ quyền về Hoàng Sa, tham gia khối COMECON vào tháng Sáu,1978, cho phép Liên Xô thuê cảng chiến lược Cam Ranh vào ngày 16 tháng Tám, ký hiệp ước liên minh và hợp tác với Liên Xô vào tháng Mười Một cùng năm đó. Một “tiểu bá vương” ở Đông Dương đã hình thành – điều khiến cho Trung Quốc không thể nuốt trôi sự tráo trở của “đứa con hoang đàng” cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Cộng vẫn giữ chính sách “wait and see” bước tiếp theo của Hà Nội là gì, trong khi tính toán và đi những nước cờ lớn hơn trên bàn cờ địa chính trị thế giới. Nỗ lực không ngừng nghỉ của Đặng Tiểu Bình trong việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ đã thành công. Ngày 15 tháng Mười Một, 1978, Mỹ chính thức công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và ngày 1 tháng Giêng, 1979 chính thức đặt quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Cái nhìn cay nghiệt của Hà Nội về cộng đồng Hoa kiều tại Việt Nam cũng như chính sách quốc hữu hóa, đánh tư sản mại bản của Hà Nội sau 1975 hầu như trực diện đánh vào cộng đồng Hoa kiều vốn nắm giữ khá lớn nguồn lực kinh tế của miền Nam Việt Nam. Đỉnh điểm chính sách phi nhân và ngu dốt này là việc trục xuất 150.000 người Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam về Trung Quốc và ép buộc hơn 1,3 triệu người dân ở miền Nam Việt Nam (trong đó có nhiều người gốc Hoa) phải liều mạng vượt biển để lại tài sản, nhà cửa và phương tiện sản xuất… dẫn đến một cuộc đại khủng hoảng nhân đạo kéo dài nhiều thập kỷ sau đó. Họ được biết đến với cái tên “thuyền nhân”, khoảng 200.000 người đã bỏ mạng ở Biển Đông vì bão và cướp biển. Đáng chú ý rằng Hà Nội thậm chí đã có một chính sách ngầm định “cấp phép” cho người dân vượt biên bằng đường biển với cái giá 4 ounce vàng/ người lớn và một nửa đối với trẻ em. Số vàng khổng lồ thu được phần lớn vào túi các quan chức địa phương và lực lượng công an, bộ đội. Chỉ khoảng 1/3 là được chuyển về cho trung ương bù đắp các khó khăn kinh tế. Khi quân đội CSVN tiến chiếm Phnom Penh vào ngày 7 tháng Giêng, 1979, đó là “giọt nước tràn ly cuối cùng”, một lý do chính trị rõ ràng để Đặng “dạy cho CSVN bài học cần thiết”. Đặng Tiểu Bình, người đồng chí thân thiết của Hồ Chí Minh và cả Saloth Sar – kẻ mà sau đó cả thế giới được biết đến với cái tên Pol Pot, đã phát động cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979 và ủng hộ chế độ tàn ác Khmer Đỏ tiến hành những cuộc tấn công vào Tịnh Biên và nhiều nơi thuộc tỉnh An Giang vào năm 1978. Trước đó, là những cuộc khủng bố man rợ giết hại dân thường Việt Nam và Việt kiều ở Cambodia, ở tỉnh Tây Ninh năm 1977. Ở thời điểm sau cái chết của Mao, ngoài những rối loạn chính trị mà “bè lũ bốn tên” gây ra, Trung Quốc còn chịu thiệt hại nghiêm trọng vì thiên tai. Trận động đất ở Hồ Bắc tháng Bảy, 1976 đã giết chết gần 700 ngàn người và hơn một triệu người mất nhà cửa khiến cho nền kinh tế suy sụp nghiêm trọng. Dù vậy, điều đó không ngăn cản Đặng đã ủng hộ nhiệt thành Pol Pot và cung cấp tất cả vũ khí, quân nhu và lương thực mà Khmer Đỏ cần. Mối thâm thù về chủng tộc dai dẳng có nguyên nhân từ lịch sử “Nam tiến” của các chúa Nguyễn đã chiếm đoạt các vùng đất của Kampuchia Krom (tức đồng bằng sông Cứu Long, một thời là Thủy Chân Lạp thuộc về Cambodia) và các hòn đảo như Koh Tral (Phú Quốc), cũng như chính sách hà khắc đối với sắc dân Khmer trong quá khứ, được các lãnh đạo Khmer Đỏ khơi gợi và kêu gọi những cuộc tàn sát người Việt. Thật mỉa mai, khi cộng sản Việt Nam đã đào tạo và hỗ trợ cho phong trào cộng sản ở Cambodia để chính những lực lượng này sau đó đã trở thành con dao găm đâm ngang sườn mình. Điều đó cũng giống hệt với mối quan hệ CSVN – Trung Cộng Những người “anh em tốt, đồng chí tốt, láng giềng tốt” (Trung Quốc, Liên Xô, Cộng Sản Việt Nam, Cambodia) đều có chung một “ý thức hệ” đáng nôn mửa – Cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy, có một điểm khác biệt về bản chất ở đây, rằng đối với Trung Quốc thì quyền lợi của quốc gia là quan trọng nhất. Cái gọi là “ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa” chỉ là phương tiện mà thôi. Mao Trạch Đông từng viết rằng: Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết Các Mác không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không vì nó chứa đựng một phép thần diệu để trừ quỉ ma. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ lợi ích. Có nhiều người cho nó là thần dược trừ bá chứng. Chính những người này đã xem thuyết Các Mác là một giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lý của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu cho ruộng đất, giáo lý không làm được việc đó. Quả thực, chủ thuyết đó đã mang lại lợi ích to lớn cho Mao, nó trở thành phương tiện tập hợp một xã hội Trung Hoa rách nát thành một lực lượng khổng lồ và cuồng nộ, giúp cho Mao đạp bằng mọi trở lực trên con đường tiến tới quyền lực tối thượng. Song cũng chính nó đã hủy hoại xã hội Trung Quốc tới tận gốc rễ. Còn đối với những người cộng sản Việt Nam, khi họ đem về chủ thuyết Cộng sản chủ nghĩa cùng với vũ khí và lương thực của Nga Sô và Trung Cộng để tiến hành các cuộc chiến tranh, họ đã đặt hai cái gông cùm nô lệ lên cổ dân tộc mình. Một là nô lệ “ý thức hệ”, hai là nô lệ vì nợ nần chiến phí và cả xương máu của ngoại bang. Thảm kịch đó chưa bao giờ kết thúc cho đến tận ngày hôm nay vì căn nguyên của nó chưa bao giờ được giải quyết. Và cũng vì lý do đó, mà sau cuộc chiến tàn khốc giữa những người “anh em cộng sản” 1979, “đứa con hoang đàng” Cộng Sản Việt Nam lại quay trở lại với “mẫu quốc” vào năm 1990, với “hội nghị Thành Đô” đầy oan trái. (Còn tiếp) Tân Phong https://viettan.org/nhung-cuoc-chia-ly-mau-do-viet-trung/ Xin đón xem tiếp Phần 2: Hà Nội toan tính cho một “cuộc chia ly lần 2”  
......

Pages